Pháp luật về ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn áp dụng tại công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất và thương mại điện Bình Sơn” - Pdf 44

LỜI MỞ ĐẦU
Mua bán hàng hóa là hoạt động đặc trưng cơ bản của kinh doanh thương
mại. Hợp đồng mua bán hàng hóa chính là cách thức để hoạt động này được
diễn ra, nó thể hiện sự thống nhất ý chí của các bên chủ thể trong quan hệ mua
bán. Hợp đồng được đảm bảo thực hiện nhờ vào nhiều yếu tố như sự chấp hành
của các bên đối với các điều khoản đã thỏa thuận hay hợp đồng đó có vi phạm
lợi ích của người khác, lợi ích chung của xã hội hay không. Pháp luật với vai trò
là khung định ra những nguyên tắc cơ bản cho mọi hoạt động trong xã hội, cũng
điều chỉnh những vấn đề liên quan đến hoạt động thiết yếu này.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế nước ta trong những năm gần đây,
nhất là khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương
mại Thế giới WTO, pháp luật thương mại nước ta nói chung và pháp luật về hợp
đồng mua bán hàng hóa nói riêng đã có sự thay đổi, hoàn thiện đáng kể. Sự ra
đời của Bộ luật dân sự 2005 và Luật thương mại 2005 là minh chứng cụ thể cho
sự tiến bộ đó. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới ngày càng mạnh mẽ của
Việt Nam, thì một hành lang pháp lý vững chắc về các hoạt động kinh doanh
thương mại, trong đó có hợp đồng mua bán hàng hóa, sẽ tạo cho các doanh
nghiệp nước ta một lợi thế vững chắc ngay tại “sân nhà”, cũng như tiến ra thị
trường quốc tế. Nhận thức được tầm quan trọng của các chế định về hợp đồng
mua bán hàng hóa, tác giả chọn đề tài: “Pháp luật về ký kết và thực hiện hợp
đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn áp dụng tại công ty trách nhiệm hữu hạn
sản xuất và thương mại điện Bình Sơn” để làm báo cáo thực tập.
Em xin gửi lời cảm ơn tới đội ngũ cán bộ Công ty TNHH sản xuất và
thương mại điện Bình Sơn, đã giúp đỡ, ủng hộ nhiệt tình trong thời gian em thực
tập tại Công ty và TS. Nguyễn Vũ Hoàng, người dã tận tình hướng dẫn, giúp em
có thể hoàn thành bản báo cáo này.
Em xin chân thành cảm ơn.

1
CHƯƠNG I
PHÁP LUẬT VỀ HƠP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

hợp đồng mua bán tài sản còn là cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, do
đó chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa có thể là cá nhân, pháp nhân, hộ gia
đình và tổ hợp tác.
1.2.2. Hình thức:
Hợp đồng mua bán có thể được thể hiện dưới hình thức lời nói, bằng văn
bản hoặc hành vi cụ thể của các bên giao kết.
Điều 24 Luật thương mại 2005 quy định: “ Hợp đồng mua bán hàng hóa
được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể.
Đối với các loại hợp đồng mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản
thì phải tuân theo các quy định đó ”. Theo đó, các bên tham gia hợp đồng có thể
tự do lựa chọn hình thức hợp đồng phù hợp để thể hiện sự thỏa thuận mua bán
hàng hóa giữa các bên, trừ những trường hợp mà pháp luật quy định hợp đồng
phải được lập thành văn bản thì hợp đồng phải được thiết lập bằng hình thức văn
bản.
1.2.3. Đối tượng:
Theo khoản 2 Điều 3 Luật thương mại thì đối tượng của hợp đồng mua
bán hàng hóa là tất cả các loại động sản, bao gồm cả động sản hình thành trong
tương lai, các vật, tài sản gắn liền với đất đai. Còn theo Bộ luật dân sự thì đối
tượng của hợp đồng mua bán tài sản là các loại tài sản được phép giao dịch và
các loại quyền tài sản
Bên cạnh đó, pháp luật còn quy định, hàng hóa là đối tượng mua bán phải
không thuộc danh mục hàng hóa cấm kinh doanh theo quy định của Nhà nước
(Nghị định 59/2006/NĐ- CP ngày 12/06/2006). Nếu hàng hóa đó thuộc danh
mục hạn chế kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện thì phải tuân theo đầy đủ
các quy định của pháp luật về mua bán các loại hàng đó. Hàng hóa là đối tượng
3
của hợp đồng mua bán hàng hóa còn phải tuân theo các quy định về nhãn hàng
hóa (Nghị định số 89/2006/NĐ-CP) và về xuất xứ (Nghị định số 19/2006/NĐ-
CP)
1.2.4. Nội dung:

XX chế định hợp đồng hay khế ước được xuất hiện ở Việt Nam do 3 Bộ Luật
Dân sự điều chỉnh gồm có:
- Bộ Dân luật giản yếu áp dụng tại xứ Nam kỳ, nhưng trong bộ luật này chỉ nói
về nhân thân (nói về người) không có điều khoản nào qui định về chế định hợp
đồng hay khế ước, khi giải quyết các vụ án liên quan đến hợp đồng hay khế ước,
các Toà Nam án thường áp dụng các điều khoản của Dân luật của Pháp như lý
trí thành văn (raison écrite) liên quan đến hợp đồng nghĩa vụ và trách nhiệm dân
sự; các Toà án Pháp ở Nam Việt còn áp dụng các điều khoản Dân luật Bắc kỳ,
Dân luật Trung kỳ, có khi còn áp dụng cả Luật Hồng Đức và Luật Gia Long, nếu
liên quan đến thừa kế và tập tục cổ truyền của Việt Nam...
- Bộ Dân Luật Bắc kỳ gồm có 1.455 điều, chia làm một thiên sơ bộ và 4 quyển,
quyển thứ ba nói về khế ước và nghĩa vụ; và phạm vi áp dụng ớ các Toà án Bắc
phần mà thôi.
- Bộ Dân Luật Trung kỳ còn được gọi là Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ Luật được
ban hành ngày 13/07/1936 gồm có 1.709 điều, thì có 57 điều nói về khế ước –
hợp đồng (từ điều 1216 – 1273); sở dĩ Dân luật Trung kỳ hơn Dân luật Bắc kỳ
254 điều, vì vấn đề khế ước – hợp đồng theo Dân luật của Pháp qui định kỹ hơn
Dân luật Bắc.
Sau khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thành lập, ngày
10/10/1945 Chủ tịch Chính Phủ lâm thời Hồ Chí Minh ban hành sắc luật số 47
cho phép áp dụng luật lệ hiện hành của chế độ cũ ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam,
nếu những luật lệ ấy không trái với nền độc lập của Việt Nam và chính thể dân
chủ cộng hoà, thì các quan hệ hợp đồng vẫn được điều chỉnh căn cứ vào các Bộ
Dân luật giản yếu Nam kỳ, Bộ dân Luật Trung Kỳ; và đến ngày 10/07/1959 theo
chỉ thị số 172-CT/TATC của Toà án nhân dân tối cáo đình chỉ áp dụng luật lệ
của đế quốc và phong kiến, chế định hợp đồng trong Bộ Dân luật bắc kỳ được
5
chấm dứt vào trung tuần tháng 7 năm 1959; năm 1960 ban hành Điều lệ tạm thời
về hợp đồng kinh tế; và Nghị định số 54/CP ngày 10/03/1975 của Chính phủ ban
hành điều lệ về chế độ hợp đồng.

các nguyên tắc sau đây:
- Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật,
đạo đức xã hội:
Nhà nước tạo điều kiện để các cá nhân có thể xác lập quan hệ với nhau theo
ý muốn chủ quan của mình bằng nhiều hình thức rất đa dạng, đồng thời trao cho
họ cơ hội sử dụng quyền tự do trong việc thực hiện những gì mà pháp luật
không cấm, nếu việc tự do đó không xâm hại đến quyền tự do của người khác.
Do đó, mỗi công dân đều được bảo đảm các quyền về sở hữu tài sản, về tự do tín
ngưỡng, tự do ngôn luận, tự do đi lại cư trú, tự do tham gia vào đời sống công
cộng, quản lý xã hội, tự do kinh doanh và đương nhiên được bảo đảm tự do hợp
đồng.
Nguyên tắc này là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của hợp đồng.
Tự do ý chí có nghĩa là các bên chủ thể tự do lựa chọn hình thức thể hiện ý chí
thích hợp. Tuy nhiên, sự tự do thỏa thuận này không được trái với pháp luật, đạo
đức xã hội mà phải phù hợp với những gì mà pháp luật quy định, bảo vệ.
- Nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng:
Theo nguyên tắc này các bên tự nguyện cùng nhau xác lập quan hệ hợp đồng,
bảo đảm nội dung của quan hệ đó thể hiện được sự tương ứng về quyền, nghĩa
vụ và lợi ích hợp pháp cho các bên. Các bên khi tiến hành giao kết phải dựa trên
nguyên tắc tự nguyện, không được đe dọa, cưỡng ép bên kia giao kết hợp đồng
với mình mà không theo ý chí của họ. Sự bình đẳng trong nguyên tắc này là việc
các bên trong quan hệ hợp đồng bình đẳng về mặt pháp lý, bình đẳng trước pháp
luật.
2. Nội dung của hợp đồng:
7
Đó là những điều khoản mà các bên đã thỏa thuận sau khi đã thương lượng,
bàn bạc và nhất trí tiến tới việc giao kết hợp đồng. Điều 402 BLDS 2005 quy
định những điều khoản mà các bên có thể thỏa thuận trong hợp đồng : “ Tuỳ
theo từng loại hợp đồng, các bên có thể thoả thuận về những nội dung sau đây:
1. Đối tượng của hợp đồng là tài sản phải giao, công việc phải làm hoặc

ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể
Đề nghị giao kết hợp đồng hay chào hàng, có bản chất là hành vi pháp lý đơn
phương của một chủ thể bày tỏ ý định giao kết hợp đồng với chủ thể khác theo
những điều kiện xác định. Khi đã đưa ra chào hàng với một bên xác định cụ thể
thì bên chào hàng phải chịu sự ràng buộc về đề nghị này, một khi đã dưa ra đề
nghị chào hàng thì bên đề nghị không được rút lại, trừ những trường hợp được
quy định tại Điều 392 Bộ luật dân sự như sau:
- Nếu bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề
nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị;
- Điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề
nghị có nêu rõ về việc được thay đổi hoặc rút lại khi điều kiện đó phát sinh
Hiệu lực của đề nghị thông thường do bên đề nghị ấn định. Nếu bên đề nghị
không ấn định thì đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực kể từ khi bên được đề
nghị nhận được đề nghị đó. Điều 391 Bộ luật dân sự quy định các trường hợp
sau đây được coi là đã nhận được đề nghị giao kết hợp đồng:
- Đề nghị được chuyển đến nơi cư trú, nếu bên được đề nghị là cá nhân; được
chuyển đến trụ sở, nếu bên được đề nghị là pháp nhân;
- Đề nghị được đưa vào hệ thống thông tin chính thức của bên được đề nghị;
- Khi bên được đề nghị biết được đề nghị giao kết hợp đồng thông qua các
phương thức khác.
Đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt hiệu lực trong các trường hợp sau:
- Bên nhận được đề nghị trả lời không chấp nhận;
- Hết thời hạn trả lời chấp nhận;
- Khi thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực;
- Khi thông báo về việc hủy bỏ đề nghị có hiệu lực;
9
- Theo thỏa thuận của bên đề nghị và bên nhận được đề nghị trong thời hạn
chờ bên được đề nghị trả lời
3.3. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
Chấp nhận chào hàng là sự trả lời của bên nhận chào hàng với bên chào

lợi ích hợp pháp của người khác.
2. Các biện pháp đảm bảo thực hiện
Bộ luật dân sự có quy định 7 biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân
sự là cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, tín chấp. Tuy nhiên,
đối với hợp đồng mua bán hàng hóa thì chỉ có 5 biện pháp đảm bảo thực hiện
hợp đồng là cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký quỹ, bảo lãnh bởi ký cược là hình thức
đảm bảo của hợp đồng thuê tài sản, còn tín chấp là biện pháp đảm bảo do Tổ
chức chính trị xã hội đứng ra thực hiện để cho hộ gia đình nghèo vay tiền tại
Ngân hàng hoặc Tổ chức tín dụng.
- Cầm cố: Được quy định từ Điều 326 đến Điều 341 Bộ luật dân sự, là
việc một bên giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia để đảm bảo
thực hiện nghĩa vụ dân sự. Việc cầm cố có thể được lập thành văn bản riêng
hoặc ghi vào trong hợp đồng chính. Người thực hiện việc giữ vật bị cầm cố phải
bảo đảm giữ nguyên giá trị của vật đó, không được chuyển dịch sở hữu vật cầm
cố cho người khác trong thời gian văn bản cầm cố có hiệu lực, nếu có thỏa thuận
thì bên nhận tài sản cầm cố có quyền khai thác, sử dụng tài sản cầm cố. Bên
nhận cầm cố tài sản được thanh toán chi phí hợp lý bảo quản tài sản khi trả lại
tài sản cho bên cầm cố.
Khi đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng thỏa thuận thì tài sản cầm cố được xử lý theo
phương thức đã thỏa thuận hoặc bán đấu giá, bên nhận cầm cố được ưu tiên
thanh toán từ số tiền bán tài sản đó.
- Thế chấp: Được quy định từ Điều 342 đến Điều 357 Bộ luật dân sự, là
việc một bên dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ
dân sự đối với bên kia và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp.
Thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản hay ghi trong hợp đồng chính, trong
11
trường hợp có quy định thì hợp đồng thế chấp phải được công chứng, chứng thực
hoặc đăng ký. Trong văn bản thế chấp phải ghi rõ tài sản thế chấp là tài sản nào,
giá trị của tài sản đó, tình trạng cũng như cách xử lý trong trường hợp nghĩa vụ

bên được bảo lãnh, nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt,
tiền bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
3. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa:
● Nghĩa vụ cơ bản của bên bán
- Nghĩa vụ giao hàng:
Giao hàng là nghĩa vụ cơ bản nhất của bên bán trong hợp đồng mua bán hàng
hóa. Việc thực hiện các nghĩa vụ khác của bên bán đều có liên quan và nhằm
mục đích hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hóa cho bên mua. Theo quy định của
Luật thương mại thì bên bán phải giao hàng, chứng từ theo thỏa thuận trong hợp
đồng về số lượng, chất lượng, cách thức đóng gói, bảo quản và các quy định
khác trong hợp đồng. Trường hợp không có thỏa thuận cụ thể, bên bán có nghĩa
vụ giao hàng và chứng từ liên quan theo quy định của pháp luật.
+ Giao hàng đúng đối tượng và chất lượng
Bên bán phải thực hiện giao hàng đúng đối tượng và chất lượng theo thỏa
thuận và theo quy định của pháp luật. Trong giao nhận hàng hóa, vấn đề xác
định hàng hóa có phù hợp với hợp đồng hay không có ý nghĩa rất quan trọng. Để
xác định được điều đó cần phải căn cứ vào hợp đồng hoặc căn cứ vào những quy
định của pháp luật. Theo quy định tại Điều 39 Luật thương mại, trường hợp căn
cứ vào hợp đồng không xác định được hàng hóa có phù hợp với hợp đồng hay
không thì hàng hóa được coi là không phù hợp với hợp đồng nếu thuộc các
trường hợp sau:
“ ▪ Không phù hợp với mục đích sử dụng thông thường của các hàng hóa cùng
chủng loại;
▪ Không phù hợp với bất kỳ mục đích cụ thể nào mà bên mua đã cho bên
bán biết hoặc bên bán phải biết vào thời điểm giao kết hợp đồng;
▪ Không đảm bảo chất lượng như chất lượng của mẫu hàng hóa mà bên bán
đã giao cho bên mua;
13
▪ Không được bảo quản, đóng gói theo cách thức thông thường đối với loại
hàng hóa đó hoặc không theo cách thức thích hợp để bảo quản hàng hóa trong

bên bán có nghĩa vụ giao chứng từ kèm theo hàng hóa cho bên mua trong thời
hạn, tại địa điểm và theo phương thức đã thỏa thuận; trường hợp không có thỏa
thuận về thời hạn, địa điểm giao hàng, chứng từ liên quan đến hàng hóa thì bên
bán phải giao chứng từ liên quan đến hàng hóa cho bên mua trong thời hạn và
địa điểm hợp lý để bên mua có thể nhận hàng; Trường hợp bên bán đã giao
chứng từ liên quan đến hàng hóa cho bên mua trước thời hạn thỏa thuận thì bên
bán vẫn có thể khắc phục những thiếu sót của chứng từ này trong thời hạn còn
lại; khi bên bán thực hiện việc khắc phục những thiếu sót của chứng từ mà gây
bất lợi hoặc làm phát sinh chi phí bất hợp lý cho bên mua thì bên mua có quyền
yêu cầu bên bán khắc phục bất lợi hoặc chịu chi phí đó (Điều 42 Luật thương
mại).
+ Giao hàng đúng thời hạn, địa điểm và theo phương thức đã thỏa thuận
Các điều khoản như thời gian, địa điểm và phương thức giao hàng được các
bên thỏa thuận phù hợp với đặc điểm của hàng hóa và nhu cầu của mỗi bên.
Trường hợp các bên không thỏa thuận trong hợp đồng thì theo quy định của
pháp luật hoặc theo tập quán thương mại. Theo khoản 2, khoản 3 Điều 37 Luật
thương mại, “trường hợp chỉ có thỏa thuận về thời hạn giao hàng mà không xác
định thời điểm giao hàng cụ thể thì bên bán có quyền giao hàng vào bất cứ thời
điểm nào trong thời hạn đó và phải thông báo trước cho bên mua; trường hợp
không có thỏa thuận về thời hạn giao hàng thì bên bán phải giao hàng trong một
thời hạn hợp lý sau khi giao kết hợp đồng”
Bên bán phải giao hàng đúng địa điểm đã thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu
không có thỏa thuận thì địa điểm giao hàng được xác định theo khoản 2 Điều 35
như sau:
“▪ Trường hợp hàng hóa là vật gắn liền với đất đai thì bên bán phải giao
hàng tại nơi có hàng hóa đó;
▪ Trường hợp trong hợp đồng có quy định về vận chuyển hàng hóa thì bên
bán có nghĩa vụ giao hàng cho người vận chuyển đầu tiên;
15
▪ Trường hợp trong hợp đồng không có quy định về vận chuyển hàng hóa,

ba thì bên bán phải bảo vệ quyền lợi của bên mua, bên mua có quyền hủy hợp
đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu người thứ ba có một phần hoặc toàn bộ
quyền sở hữu. Ngoài ra bên bán không được bán hàng hóa vi phạm quyền sở
hữu trí tuệ. Bên bán phải chịu trách nhiệm trong trường hợp có tranh chấp liên
quan đến quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa đã bán. Trường hợp bên mua
yêu cầu bên bán phải tuân theo bản vẽ kỹ thuật, thiết kế, công thức, hoặc những
số liệu chi tiết do bên mua cung cấp thì bên mua phải chịu trách nhiệm về các
khiếu nại liên quan đến những vi phạm quyền sở hữu trí tuệ phát sinh từ việc
bên bán đã tuân thủ những yêu cầu của bên mua (Điều 46 Luật thương mại)
Bên bán phải chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua. Địa điểm và
thời điểm chuyển giao quyền sở hữu do các bên thỏa thuận. Theo Luật thương
mại quy định, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc các bên có thỏa
thuận khác, quyền sở hữu hàng hóa được chuyển giao từ bên bán sang bên mua
khi người bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng. Đối với hàng hóa là tài sản gắn
liền với đất đai, việc giao nhận hàng hóa được thực hiện thông qua việc giao
nhận chứng từ về hàng hóa thì quyền sở hữu hàng hóa được chuyển giao cho
người mua khi hoàn tất việc chuyển giao chứng từ về hàng hóa. Đối với hàng
hóa mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì quyền sở hữu hàng
hóa được chuyển giao cho bên mua kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký
quyền sở hữu đối với hàng hóa đó. Trường hợp hàng hóa không dịch chuyển khi
giao nhận và cũng không có chứng từ về hàng hóa, quyền sở hữu hàng hóa được
gọi là chuyển giao tại địa điểm và thời gian hợp đồng có hiệu lực. Trường hợp
mua bán hàng hóa theo phương thức mua sau khi sử dụng thì trong thời hạn
dùng thử, hàng hóa vẫn thuộc quyền sở hữu của bên bán. Tuy nhiên trong thời
gian dùng thử, quyền sở hữu của bên bán bị hạn chế; bên bán không được bán,
tặng cho, cho thuê, trao đổi, thế chấp, cầm cố hàng hóa khi bên mua chưa trả lời.
Trường hợp mua bán theo phương thức trả chậm, trả dần thì bên bán được bảo
lưu quyền sở hữu của mình đối với hàng hóa đã giao cho đến khi bên mua trả đủ
tiền, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
17

Ngoài ra nếu không thuộc các trường hợp trên thì rủi ro về mất mát hoặc hư
hỏng hàng hóa được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm hàng hóa thuộc quyền
định đoạt của bên mua và bên mua vi phạm hợp đồng do không nhận hàng. Tuy
nhiên nếu hàng hóa không được xác định rõ ràng bằng việc ký mã hiệu, chứng từ
vận tải, không được thông báo cho bên mua hoặc không được xác định bằng bất
kỳ cách thức nào khác thì bên mua không phải chịu rủi ro về mất mát hoặc hư
hỏng hàng hóa đó”.
+ Bảo hành hàng hóa
Bảo hành là việc bên bán, trong một thời hạn nhất định, phải chịu trách
nhiệm về hàng hóa sau khi đã giao hàng hóa cho bên mua. Việc bảo hành được
tiến hành theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên nghĩa vụ
này chỉ có trong trường hợp hợp đồng đó có thỏa thuận về mua bán hàng hóa có
bảo hành. Luật thương mại quy định như sau: Trường hợp hàng hóa mua bán có
bảo hành thì bên bán phải chịu trách nhiệm bảo hành hàng hóa đó theo nội dung
và thời hạn đã thỏa thuận. Bên bán phải thực hiện nghĩa vụ bảo hành trong thời
gian ngắn nhất mà hoàn cảnh thực tế cho phép. Bên bán phải chịu các chi phí về
bảo hành, trừ trường hợp có thỏa thuận khác (Điều 49 Luật thương mại).
Các vấn đề khác như quyền yêu cầu bảo hành, phương thức thực hiện nghĩa
vụ bảo hành, bồi thường thiệt hại trong thời hạn bảo hành… Luật thương mại
không quy định cụ thể, nếu các bên không thỏa thuận thì áp dụng quy định của
Bộ luật dân sự (từ Điều 446 đến Điều 448).
● Nghĩa vụ cơ bản của bên mua: Đó là nghĩa vụ nhận hàng và thanh toán
tiền.
Đây là nghĩa vụ cơ bản nhất của bên mua trong hợp đồng mua bán hàng hóa.
Nhận hàng là việc bên mua tiếp nhận thực tế hàng hóa từ bên bán. Tùy theo thỏa
thuận của các bên mà bên mua sẽ phải thực hiện những công việc gì để tiếp nhận
hàng hóa (ví dụ như các thủ tục giao hàng, hướng dẫn về các phương thức vận
chuyển, hay tạo điều kiện để bốc dỡ hàng hóa). Tuy nhiên việc nhận hàng không
có nghĩa là bên mua đã chấp nhận về hàng hóa được giao. Luật thương mại quy
định: sau khi hoàn thành việc giao nhận, bên bán vẫn phải chịu những khiếm

không có thỏa thuận về phương pháp xác định giá và cũng không có bất kỳ chỉ
20
dẫn nào khác về giá thì giá của hàng hóa được xác định theo giá của loại hàng
hóa đó trong các điều kiện tương tự về phương thức giao hàng, thời điểm mua
bán hàng hóa, thị trường địa lý, phương thức thanh toán và các điều kiện khác có
ảnh hưởng đến giá (Điều 52 Luật thương mại)
Về xử lý vi phạm khi bên mua chậm thanh toán: Khi bên mua chậm thực
hiện nghĩa vụ thanh toán và các chi phí hợp lý khác thì bên bán có quyền yêu
cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên
thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác (Điều 306 Luật thương
mại). Luật thương mại cũng có quy định về việc ngừng thanh toán. Trừ trường
hợp có thỏa thuận khác, việc ngừng thanh toán tiền mua hàng của bên mua được
xác định theo Điều 51 Luật thương mại như sau:
“ Bên mua có bằng chứng về việc bên bán lừa dối thì có quyền tạm ngừng
việc thanh toán;
▪ Bên mua có bằng chứng về hàng hóa đang là đối tượng của tranh chấp thì
có quyền tạm ngừng thanh toán cho đến khi việc tranh chấp đã được giải quyết;
▪ Bên mua có bằng chứng về việc bên bán đã giao hàng không phù hợp với
hợp đồng thì có quyền tạm ngừng thanh toán cho đến khi bên bán khắc phục sự
không phù hợp đó;
▪ Trường hợp tạm ngừng thanh toán vì hàng hóa là đối tượng của tranh chấp
hoặc hàng hóa giao không phù hợp với hợp đồng mà bằng chứng đó do bên mua
đưa ra không xác thực, gây thiệt hại cho bên bán thì bên mua phải bồi thường
thiệt hại đó và chịu các chế tài khác theo quy định của pháp luật”.
● Quyền của bên bán:
Theo Điều 306 Luật thương mại, trong hợp đồng mua bán hàng hóa, bên
bán có quyền nhận tiền hàng theo thỏa thuận trong hợp đồng. Khi bên mua chậm
thanh toán thì bên bán có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo
lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng

hợp đồng cũng phải phù hợp theo hình thức của hợp đồng đã giao kết. “Trong
trường hợp hợp đồng được lập thành văn bản, được công chứng, chứng thực,
đăng ký hoặc cho phép thì việc sửa đổi hợp đồng cũng phải tuân theo hình thức
22
đó” (Điều 423 Bộ luật dân sự). Còn đối với những hợp đồng không cần phải
tuân thủ các quy định về hình thức thì các bên có thể thỏa thuận để ghi nhận sự
sửa đổi hợp đồng bằng hình thức nào.
- Chấm dứt hợp đồng:
Điều 424 Bộ luật dân sự 2005 có quy định các trường hợp mà hợp đồng
chấm dứt. Đó là:
+ Khi hợp đồng đã hoàn thành: Hợp đồng hoàn thành, tức là khi đó các bên
tham gia hợp đồng đã thực hiện toàn bộ nội dung của hợp đồng và mỗi bên đều đã
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, cũng như đã được đảm bảo quyền dân sự của mình,
lúc đó hợp đồng sẽ chấm dứt.
+ Hợp đồng chấm dứt theo thỏa thuận của các bên: Khi bên có nghĩa vụ
không có khả năng để thực hiện hợp đồng do gặp khó khăn hoặc việc thực hiện
hợp đồng không mang lại lợi ích gì mà có thể còn gây tổn thất về vật chất cho một
hoặc cả hai bên thì các bên có thể thỏa thuận để chấm dứt hợp đồng. Hợp đồng đã
giao kết được coi là chấm dứt tại thời điểm các bên đạt được thỏa thuận nói trên.
+ Hợp đồng chấm dứt do cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân hoặc
chủ thể khác chấm dứt mà hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân hoặc chủ
thể đó thực hiện: Căn cứ này cần được hiểu là chỉ những hợp đồng nào mà do tính
chất của nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đó hoặc do các bên đã thỏa thuận trước là
người có nghĩa vụ phải trực tiếp thực hiện nghĩa vụ đó hoặc chỉ người có quyền
mới được hưởng lợi ích phát sinh từ hợp đồng thì khi họ chết, hợp đồng mới
chấm dứt.
+ Hợp đồng chấm dứt khi một bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp
đồng: Đơn phương chấm dứt hợp đồng được quy định riêng tại Điều 426 Bộ luật
dân sự.
Khi một bên vi phạm hợp đồng thì bên kia có quyền đơn phương chấm

mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng; hoặc một bên vi
phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng được hiểu
là sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho
bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng.
24
IV/Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng:
1. Các căn cứ áp dụng:
Để áp dụng trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa phải dựa
vào các căn cứ sau đây:
- Có hành vi vi phạm hợp đồng
Vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa là xử sự của một bên chủ thể của hợp
đồng không phù hợp với hợp đồng đã giao kết. Đó là việc không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ theo hợp đồng. Tuy nhiên khi
thực hiện không những phải thực hiện các nghĩa vụ đã ký trong hợp đồng mà
còn phải thực hiện theo những quy định của pháp luật do đó nếu căn cứ để áp
dụng trách nhiệm cần phải căn cứ vào hợp đồng và có xem xét quy định của
pháp luật
- Bên vi phạm có lỗi
Để áp dụng trách nhiệm thì nhất thiết bên vi phạm phải có lỗi. Đối với chủ
thể là tổ chức thì khi xác định lỗi để áp dụng trách nhiệm vi phạm hợp đồng,
phải căn cứ vào lỗi của người đại diện tổ chức đã giao kết và thực hiện hợp
đồng. Mọi hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng đều bị
coi là có lỗi (trừ trường hợp bên vi phạm chứng minh được là mình không có
lỗi). Do đó khi có tranh chấp xảy ra, bên bị vi phạm cũng như cơ quan tài phán
không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của bên vi phạm, mà bên vi phạm muốn
không bị áp dụng các chế tài thì phải chứng minh được rằng mình không có lỗi
khi thực hiện không đúng hoặc không thực hiện hợp đồng.
- Có thiệt hại vật chất thực tế xảy ra
Thiệt hại vật chất thực tế là những thiệt hại có thể tính được thành tiền mà
bên bị vi phạm hợp đồng phải gánh chịu. Thiệt hại có hai loại là thiệt hại trực


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status