Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 5 - Pdf 44

1.MỞ ĐẦU
1.1.Lí do chọn đề tài:
Phân môn Tập làm văn có vị trí đặc biệt trong dạy học Tiếng việt ở Tiểu học
bởi vì nó rèn cho học sinh kỹ năng sản sinh văn bản (nói và viết).
Nhờ vậy Tiếng Việt không chỉ là hệ thống cấu trúc được xem xét từng phần,
từng mặt qua từng phân môn mà nó trở thành một công cụ quan trọng trong giao
tiếp, tư duy và học tập. Nói cách khác, phân môn Tập làm văn đã góp phần hiện
thực hóa mục tiêu quan trọng bậc nhất của việc dạy và học Tiếng Việt là sử dụng
Tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt, trong quá trình lĩnh hội các tri thức khoa
học…
Trong chương trình Tiểu học, Tiếng Việt được chia thành các phân môn, mỗi
phân môn có nhiệm vụ rèn luyện cho học sinh những kĩ năng nhất định. Phân môn
Tập làm văn là phân môn mang tính tổng hợp cao nhất, nó có vai trò rèn cho học
sinh cả bốn kĩ năng, trong đó quan trọng là các kĩ năng (nghe, nói, viết). Đối với
phân môn này, các em được rèn luyện năng lực trình bày ở dạng văn bản với nhiều
thể loại khác nhau.
Qua thực tế giảng dạy tại trường Tiểu học Trung Tiến, tôi nhận thấy phân
môn Tập làm văn là phân môn khó nhất trong các phân môn của môn Tiếng Việt.
Để thực hiện được mục tiêu của phân môn Tập làm văn là phải xây dựng được kĩ
năng nói và viết thành thạo, các em cần huy động tất cả các kiến thức của các phân
môn Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Kể chuyện,…Trong khi đó, các em chưa
hoàn thành thì rất “chán” học phân môn này. Do đó các em lơ là ngại tiếp xúc với
phân môn này, do chưa biết diễn đạt ý bằng những câu văn hay, sử dụng từ chưa
hợp lý, ý tưởng còn khô khan, chưa dồi dào phong phú…Chính vì vậy giáo viên
cần giúp học sinh chọn ý, diễn đạt tốt gây ham mê hứng thú trong giờ học.
Với học sinh lớp 5, việc rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho các em là cần thiết.
Học tốt văn miêu tả sẽ là điều kiện thuận lợi để học tốt các môn học khác ở Tiểu
học và học tiếp lên các lớp trên. Việc giúp các em hoàn thành tốt bài văn miêu tả
không những sẽ góp phần nâng cao năng lực cảm thụ văn học mà còn giúp các em
khám phá được những cái đẹp qua việc xây dựng văn bản.
Nhằm góp phần đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học trong

và diễn đạt còn chưa mạch lạc gãy gọn. Để làm được một bài tập làm văn, học sinh
phải huy động vốn kiến thức từ nhiều mặt: Như hiểu biết về cuộc sống, trí thức về
văn học, khoa học…Phân môn Tập làm văn có tính chất tổng hợp, có quan hệ chặt
chẽ với việc dạy học Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu. Đây là nơi tiếp nhận và
cũng là nơi luyện tập nhuần nhuyễn các kĩ năng và kiến thức các phân môn trên.
Bài tập làm văn trở thành sản phẩm tổng hợp, là nơi trình bày kết quả đích thực
nhất của việc học Tiếng Việt. Tiếng Việt có vai trò cực kì quan trọng trong đời
sống cộng đồng và đời sống của mỗi người. Với cộng đồng nó là cộng cụ để giao
tiếp và tư duy. Với học sinh Tiểu học thì lại càng quan trọng hơn. Chình vì vậy, Bộ
Giáo dục và Đào tạo yêu cầu người giáo viên Tiểu học cần ghi nhớ thường xuyên
thể hiện ba quan điểm khi tổ chức dạy học Tiếng Việt là: Quan điểm giao tiếp quan điểm tích hợp và quan điểm tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh.
Để giúp các em có những kiến thức diễn đạt được câu văn, đoạn văn, hoàn
chỉnh một bài văn miêu tả, người giáo viên phải có những phương pháp lôgic
thông qua các tiết dạy. Mục đích cuối cùng chính là giúp các em vận dụng kiến
thức tổng hợp của các phân môn để viết được một bài văn hoàn chỉnh. Để đạt được
điều đó, tôi thấy rằng mình phải biết tổ chức cho học sinh được tham gia các hoạt
động dưới nhiều biện pháp mang tính đồng bộ và lồng ghép một cách thường
xuyên trong từng tiết học. Phải giúp học sinh biết quan sát tìm ý, diễn đạt câu văn
bằng ngôn ngữ giao tiếp. Từ đó câu văn trở nên phong phú, giàu hình ảnh làm nên
đoạn văn hay, bài văn hay.
2.2.Thực trạng:
Đối tượng học sinh tôi giảng dạy là các em thuộc vùng dân tộc thiểu số, vùng
kinh tế đặc biệt khó khăn, vốn ngôn ngữ cũng như nhận thức của các em còn hạn
chế. Vì vậy vẫn còn một số đối tượng học sinh thụ động, tự ti, chưa mạnh dạn tham
gia vào các hoạt động học tập.
2.2.1.Thuận lợi:
*Giáo viên:
Hầu hết giáo viên ra trường nhiều năm, cũng đã tích luỹ được nhiều kinh
nghiệm trong quá trình giảng dạy cho học sinh.
*Học sinh:

đặc biệt là những em chưa Hoàn thành.
+ Đôi lúc, do nhiều nguyên nhân, một số giáo viên vẫn lạm dụng phương
pháp “làm mẫu” đối với học sinh chưa Hoàn thành, từ đó dẫn đến tình trạng học
sinh nhiều em không động não mà“coppy” nhau hoặc học thuộc bài văn mẫu.
+ Thời gian quy định đối với một tiết học cũng là một trong những nguyên
nhân ảnh hưởng đến việc dạy Tập làm văn trong nhà trường Tiểu học.
+ Trong các lớp vẫn còn rải rác một số học sinh chưa hoàn thành, cá biệt, có
học sinh đọc chưa thông, viết chưa thạo. Đây là một trở ngại lớn cho việc dạy học
Tập làm văn cho các em. Với những học sinh này, yêu cầu đặt từng câu văn rời rạc
còn khó, nói gì đến việc hướng dẫn các em đặt một đoạn văn theo yêu cầu.
+ Trong địa bàn trường tôi, hầu hết học sinh là dân tộc Thái, có hoàn cảnh
gia đình khó khăn. Mặt khác, vấn đề thời tiết cũng là một nguyên nhân dẫn đến học
sinh đi học không đều, dẫn đến việc tiếp thu bài của các em chắc chắn sẽ bị ảnh
hưởng rất nhiều.
+ Kĩ năng làm văn miêu tả của các em học sinh chưa đạt hầu như không
có. Các em chưa biết cách quan sát, thực hiện làm một bài văn miêu tả chưa đúng
quy trình, chưa biết cách chọn lọc các chi tiết miêu tả đặc sắc để đưa vào bài văn,
làm cho bài văn thành “một mớ hỗn độn” của các chi tiết hoặc là thành “một bản
3


liệt kê” với rất nhiều chi tiết.
- Với học sinh Hoàn thành, việc dạy học Tập làm văn cũng gặp một số tồn tại
sau:
+ Do trong lớp có nhiều đối tượng học sinh nên giáo viên thường sử dụng
phương pháp làm mẫu để tạo đà giúp học sinh chưa Hoàn thành làm văn. Tuy
nhiên, một số học sinh học lại thường hay bắt chước các câu, đoạn văn mẫu nên
nhiều bài làm có các câu, đoạn giống nhau.
+ Có sự chênh lệch rất lớn về trình độ của học sinh Hoàn thành tốt và học
sinh Hoàn thành, Chưa hoàn thành nên giáo viên rất khó sử dụng các phương pháp

trong phạm vi nghiên cứu việc dạy học kiểu bài văn miêu tả cho học sinh lớp 5.
Với phạm vi nghiên cứu như vậy, tôi hi vọng sẽ thu được nhiều kết quả khả quan,
góp phần thực hiện nhiệm vụ của một nhà giáo trong giai đoạn mới. Tìm ra những
biện pháp tốt nhất để giúp học lớp 5A Trường Tiểu học Trung Tiến học tốt kiểu bài
miêu tả trong phân môn Tập làm văn chương trình lớp 5 (văn miêu tả)

4


2.3.Một số biện pháp nhằm giúp học sinh học tốt kiểu bài miêu tả trong phân
môn Tập làm văn lớp 5:
2.3.1.Điều tra phân loại học sinh:
Ở đây đòi hỏi người giáo viên phải nhiệt tình, có lòng yêu nghề, mến trẻ,
gần gũi thân thiết với từng đối tượng học sinh nhằm điều tra, phân loại, nắm chắc
từng đối tượng học sinh: Năng khiếu, Hoàn thành tốt, Hoàn thành, Chưa hoàn
thành và học sinh cá biệt. Nắm chắc được đối tượng học sinh, giáo viên sẽ tìm ra
được kế hoạch dạy học phù hợp, có những biện pháp dạy học phù hợp với từng đối
tượng học sinh. Đồng thời, tạo điều kiện tốt nhất góp phần phụ đạo học sinh chưa
đạt biết làm văn miêu tả, có thể vận dụng làm được một bài văn hoàn chỉnh.
Cụ thể môn Tiếng Việt như sau:
Tổng số HS
HT tốt
HT
Chưa HT
SL
TL
SL
TL
SL
TL

sau:
a) Tả một người thân trong gia đình em.
b) Tả một người bạn mà em yêu thích nhất.
c) Tả thầy giáo hoặc cô giáo cũ mà em kính mến.
Với ba đề bài trên, các em có thể chọn đối tượng miêu tả là một nhân vật quen
thuộc, gần gũi. Nhưng với một vài học sinh khác, các em cũng có thể chọn tả ca sĩ,
hay nghệ sĩ đang biểu diễn với rất nhiều chi tiết sống động mà các em đã có dịp
quan sát trên ti vi qua các chương trình ca nhạc hoặc phim ảnh.
2.3.3.Rèn cho học sinh kĩ năng quan sát:
5


Khi dạy học sinh kĩ năng quan sát, ta phải hướng cho các em cách quan sát
theo trình tự từ xa đến gần và ngược lại, từ trong ra ngoài, từ bao quát đến chi tiết
cụ thể và ngược lại. Ghi chép những điều đã quan sát được. Tổ chức quan sát từng
đối tượng cụ thể. Có thể hướng dẫn quan sát theo nhiều hình thức: quan sát trực
tiếp đối tượng (buổi chào cờ đầu tuần, quang cảnh trước buổi học, trong giờ ra
chơi, thầy giáo, cô giáo, người thân,…); quan sát ở nhà (ngôi nhà em đang ở, buổi
sum họp của gia đình, quang cảnh con đường nơi em ở vào buổi sáng, …); quan
sát qua báo, đài (một ca sĩ, nghệ sĩ đang biểu diễn, một danh hài mà em thích, ….);

2.3.4.Hướng dẫn học sinh lập dàn ý:
Đây là một việc làm vô cùng quan trọng khi viết một bài văn. Giáo viên cần
hướng dẫn cho học sinh lập dàn ý trước khi làm thành một bài văn hoàn chỉnh. Có
lập được dàn bài thì mới có thể tìm ý, sắp xếp ý, viết thành một bài văn mạch lạc,
bố cục rõ ràng, ý văn trong sáng.
2.3.5.Cụ thể hoá hoạt động dạy học:
- Quan tâm đến đối tượng học sinh chưa đạt đồng thời vẫn đảm bảo phát triển
năng lực cảm thụ văn học đối với học sinh có năng khiếu. Ví dụ: Tả quang cảnh
một buổi sáng trên cánh đồng quê em.

Đây là một phương pháp mà giáo viên hay sử dụng. Nhưng không phải giáo
viên nào cũng sử dụng có hiệu quả mà chúng ta cần gợi ý cho học sinh có năng
khiếu làm bài, trình bày câu văn, đoạn văn. Cả lớp theo dõi, nhận xét, giáo viên
chốt lại. Nhưng điểm mấu chốt là giáo viên phải chú ý từng đối tượng học sinh,
sửa chữa từng em, động viên sự sáng tạo của các em, dù là rất nhỏ.
Dựa trên một đề văn cụ thể, giáo viên hướng dẫn học sinh vận dụng các kiến
thức kĩ năng đã học về đề văn đó để làm nhiều bài khác nhau, nhất là với đối tượng
học sinh chưa đạt. Ví dụ: Học bài văn tả người thân, học sinh tả bố em. Khi gặp
một đề văn yêu cầu tả một người hàng xóm, học sinh có thể sử dụng thứ tự miêu
tả, bố cục, các biện pháp nghệ thuật đã sử dụng ở đề bài trước để thực hiện làm đề
bài thứ hai. Tất nhiên, giáo viên phải giúp học sinh tránh sự sao chép nguyên văn
bài trước.
2.3.7.Làm giàu vốn từ cho học sinh:
Làm giàu vốn từ cho học sinh có nghĩa là giúp cho các em nắm một số từ
gợi tả để có thể dùng trong miêu tả. Ví dụ: Giáo viên yêu cầu học sinh tìm các từ
ngữ gợi tả mái tóc (vàng hoe, đen nhánh, bạc phơ, cháy nắng, óng ả, xoăn tít,…);
đôi mắt (long lanh, tròn xoe, hiền dịu…) khuôn mặt (bầu bĩnh, vuông chữ điền, trái
xoan, khắc khổ, hiền từ…); nước da (trắng trẻo, trắng hồng, ngăm ngăm, bánh mật,
đen sạm, ngăm đen…); dáng người (nhỏ nhắn, gầy gò, cân đối, to khoẻ, cao cao,
xinh sắn…); nụ cười (khanh khách, sằng sặc, tủm tỉm, ha hả, khà khà…); bước đi
(nhanh nhẹn, vội vã, uyển chuyển, chậm chạp…)
Cho học sinh tìm từ bằng các hình thức như: quan sát thực tế (quan sát
người thân), quan sát tranh ảnh, xem phim, đọc sách, nhất là qua các phân môn của
Tiếng Việt hoặc các môn học khác và qua nhiều hình thức khác nhau.
2.3.8.Giúp học sinh luyện viết câu:
- Trước hết, mọi học sinh phải viết được câu văn đúng ngữ pháp. Đây là yêu
cầu cơ bản (vì câu là đơn vị lời nói). Đối với học sinh năng khiếu, giáo viên yêu
cầu học sinh đặt câu đúng ngữ pháp, giàu hình ảnh, tạo được sắc thái riêng của đối
tượng miêu tả. Đối với học sinh chưa đạt, giáo viên hướng dẫn học sinh đặt được
câu đúng, thể hiện được ý cần nói.

để ghi chép những tiếng khó, ghi những trường hợp mắc lỗi chính tả, ghi những từ
dùng sai, dùng chưa chính xác đã được sửa chữa. Trong môn Tập làm văn, đây
cũng là một biện pháp tích cực để giúp học sinh trau dồi vốn kiến thức văn học. Sổ
tay văn học dùng cho các em ghi chép các ý hay, các câu, đoạn văn hay. Việc ghi
chép này không nhất thiết để cho học sinh khi làm văn sẽ mở ra sử dụng nhưng
trước hết, qua mỗi lần ghi chép, các em sẽ được một lần đọc, ghi nhớ, bắt chước,
lâu dần thành thói quen. Khi làm bài, những từ ngữ, hình ảnh, ý văn sẽ tự động tái
hiện, giúp học sinh có thể vận dụng trong trong khi thực hành viết văn.
2.3.10.Hướng dẫn học sinh cảm nhận cái hay, cái đẹp của một đoạn văn:
Hướng dẫn học sinh tìm hiểu để cảm nhận cái hay, cái đẹp qua việc đọc một
đoạn văn được thầy cô tiến hành qua nhiều tiết học. Cảm nhận được cái hay, cái
đẹp, các em sẽ hình thành được những cảm xúc thẩm mĩ, giúp cho việc học tập làm
văn tốt hơn, nhất là văn miêu tả. Từ đó tư duy hình tượng của các em cũng được
rèn luyện và phát triển như các biện pháp: so sánh, nhân hóa.
Để hướng dẫn tìm hiểu cảm nhận cái hay, cái đẹp của đoạn văn, giáo viên
hướng dẫn các em hình thành thói quen suy nghĩ, tự đặt và ghi các câu hỏi xoay
quanh nội dung đoạn văn. Kết quả học sinh có thể tự đặt các câu hỏi như:
+ Câu chuyện này có những nhân vật nào?
+ Đoạn văn này dùng những từ láy nào để miêu tả vẻ đẹp của nhân vật ?
+ Có thể dùng những hình ảnh so sánh nào cho đoạn văn ?...
2.3.11.Rèn kĩ năng sắp xếp, diễn đạt ý:
Đề bài: Hãy miêu tả một người bạn thân của em.
Học sinh quan sát, viết nhanh ra giấy những điều mà mình quan sát được. Ví
dụ:
+ Ngọc Linh chơi thân với em từ khi còn nhỏ, chung lớp, chung trường từ
hồi lớp Một.
+ Chúng em rất quý mến nhau.
+ Tình bạn của chúng em là chia sẻ niềm vui nỗi buồn, là lúc quả me, trái
táo, lúc lại giận hờn vu vơ...
+ Những ngày bạn nghỉ học, em cảm thấy rất nhớ.

lên vẻ hồn nhiên, chất phác nhưng lại rất tự tin quyết đoán trong học tập. Mái tóc
bạn không đen như tóc em nhưng lại rất dài không thể lẫn với ai được. Ngọc Linh
viết chữ rất đẹp, bộ vở của bạn luôn được xếp loại A các cấp. Bạn là tấm gương
sáng trong học tập. Vì thế, cô thường lấy bạn ra làm gương cho chúng em noi
theo. Ở lớp, cô luôn khen bạn hiểu bài rất nhanh, hăng say phát biểu ý kiến và tự
giác học tập. Đặc biệt, những phẩm chất đáng quý ấy được thể hiện rõ nhất là tinh
thần trách nhiệm và sự giúp đỡ bạn bè trong học tập. Đó là những giờ ra chơi khi
bạn bè đang mải mê đùa vui thì bạn lại ở trong lớp hướng dẫn cho những bạn học
kém hơn. Sự chân thành, cởi mở từ bạn đã lan truyền cho cả lớp tạo cho tập thể
lớp em có động lực để phấn đấu vươn lên. Vì thế lớp em luôn dẫn đầu thành tích
về mọi mặt.
* Đoạn kết bài:
Ngọc Linh lớp em là thế đấy! Mỗi khi vắng bạn, nhất là những ngày bạn
nghỉ học, em cảm thấy rất nhớ. Em sẽ chân thành, cởi mở và phấn đấu học tập
thật tốt như bạn để tình bạn đẹp của chúng em luôn trong sáng và bền lâu.
Giáo viên cần lưu ý cho học sinh mục đích của từng đoạn văn. Đoạn mở bài
có tác dụng giới thiệu cho người đọc, người nghe biết xuất xứ nhân vật. Đoạn thân
bài là bức tranh vẽ bằng lời về hình dáng, đường nét, cử chỉ, hoạt động, tính nết
của nhân vật. Có chọn được những chi tiết đặc sắc, tiêu biểu thì ta mới nhận ra
nhân vật đó mang những cá tính riêng. Bạn học sinh trong bài là một học sinh vùng
nông thôn với những đặc điểm riêng, cá tính riêng không lẫn lộn với bất cứ bạn
9


học sinh nào khác. Đoạn kết bài mang đậm dấu ấn cá nhân của người viết. Không
thể có đoạn kết bài chung cho mọi học sinh. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh nêu
được cảm xúc tự nhiên, chân thật, không sáo rỗng kiểu như: Em rất thích bạn ấy
hay Em rất nhớ bạn ấy…
2.3.12.Rèn kĩ năng trình bày bài miệng cho học sinh:
Từ việc sắp xếp, diễn đạt các ý, giáo viên có thể tổ chức cho các em trình

TL
0
0

10


3. KẾT LUẬN
3.1.Bài học kinh nghiệm:
Sau một thời gian áp dụng vào thực tế giảng dạy ở lớp 5, qua các kết quả
kiểm tra cho thấy, đề tài đã thu được một số kết quả nhất định. Học sinh có những
chuyển biến rõ rệt trong việc học kiểu bài miêu tả của chương trình Tập làm văn
lớp 5. Đồng thời, bản thân tôi cũng rút ra được một số bài học kinh nghiệm như
sau:
- Trước hết, người thầy phải luôn có lòng yêu nghề, yêu người, có ý thức
trách nhiệm và tinh thần cầu tiến, không ngừng học hỏi và mạnh dạn áp dụng
những cái mới vào trong thực tiễn giảng dạy.
- Nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của người giáo viên tiểu học là phải nắm
vững đối tượng học sinh, hiểu rõ trình độ và năng lực, hoàn cảnh và sở thích của
từng em cũng như tâm sinh lí lứa tuổi các em. Phân loại được học sinh, người thầy
mới có thể áp dụng những phương pháp dạy học phù hợp với từng nhóm đối tượng
học sinh, từng cá thể học sinh.
- Giáo viên phải thường xuyên nghiên cứu, dự giờ đồng nghiệp, tham dự đầy
đủ các lớp tập huấn chuyên môn…để nắm bắt những thông tin về nội dung,
phương pháp của chương trình môn Tiếng Việt. Từ đó, giáo viên mới có thể lập
một kế hoạch bài học cho mình một cách khoa học, có sự tích hợp giữa kiến thức
các môn học với nhau.
- Dạy tập làm văn theo quan điểm tích hợp kiến thức, kĩ năng giữa bài trước
với bài sau, giữa các phân môn Tiếng Việt với nhau, giữa lớp dưới với lớp trên.
- Sử dụng phối hợp nhiều phương pháp nhằm khuyến khích học sinh bộc lộ trí

Hội đồng khoa học các cấp, của các bạn đồng nghiệp, để tôi thành công trong quá
trình sử dụng sáng kiến của mình đạt hiệu quả tốt hơn, góp phần đổi mới phương
pháp dạy học thành công, cùng nhau nâng cao chất lượng giáo dục trong giai đoạn
mới.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Quan Sơn, ngày 15 tháng 04 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

Người viết

Vũ Thị Hiền

12


MỤC LỤC
Nội dung
1.Mở đầu
1.1.Lí do chọn đề tài
1.2.Mục đích nghiên cứu
1.3.Đối tượng nghiên cứu
1.4.Phương pháp nghiên cứu
2.Nội dung
2.1.Cơ sở li luận
2.2.Thực trạng

2
2
3
4
4
5
5
5
6
6
6
7
7
8
8
8
10
10
11
11
12

13


14





Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status