Nghiên cứu Xử trí của cha mẹ khi trẻ bị sốt và các yếu tố liên quan - Pdf 47

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

ĐẠI HỌC Y DƢỢC TP. HỒ CHÍ MINH
------------

NGUYỄN THỊ TRÚC LINH

XỬ TRÍ CỦA CHA MẸ KHI TRẺ BỊ SỐT
VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐIỀU DƢỠNG

TP. HỒ CHÍ MINH – Năm 2017


1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

ĐẠI HỌC Y DƢỢC TP. HỒ CHÍ MINH
------------

NGUYỄN THỊ TRÚC LINH

XỬ TRÍ CỦA CHA MẸ KHI TRẺ BỊ SỐT
VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
Chuyên ngành: Điều dƣỡng

Định nghĩa thân nhiệt: ......................................................................................... 11

1.1.2.

Các yếu tố ảnh hƣởng đến nhiệt độ cơ thể: ......................................................... 11

1.1.3.

Sự cân bằng giữa sinh nhiệt và thải nhiệt: ........................................................... 11

Sốt ………………………………………………………………………………….
1.2.1.

Định nghĩa ........................................................................................................... 12

1.2.2.

Cơ chế gây sốt: .................................................................................................... 12

1.2.3.

Phân độ thân nhiệt: .............................................. Error! Bookmark not defined.

1.2.4.

Các rối loạn chuyển hóa trong sốt: ...................................................................... 14

1.2.5.

Nguyên nhân gây sốt: .......................................................................................... 14

1.6.

1.5.1.

Một số nghiên cứu nƣớc ngoài: ........................................................................... 23

1.5.2.

Một số nghiên cứu trong nƣớc: ........................................................................... 24

Áp dụng thuyết Điều dƣỡng vào nghiên cứu: .................................................................. 26

CHƢƠNG II: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................................................................... 28
2.1.

Thiết kế nghiên cứu ............................................................................................................ 28

2.2.

Địa điểm nghiên cứu ........................................................................................................... 28

2.3.

Thời gian nghiên cứu .......................................................................................................... 28

2.4.

Dân số nghiên cứu ............................................................................................................... 28

2.5.

Thu thập số liệu: .................................................................................................................. 29
2.8.1.

Công cụ thu thập số liệu: ..................................................................................... 29

2.8.3.

Các bƣớc thu thập số liệu:

2.8.4.

Xử lý và phân tích số liệu: ................................................................................... 31

2.8.5.

Kiểm soát sai lệch: ............................................................................................... 31

23

Định nghĩa biến số và phân loại biến số:.......................................................................... 31
2.9.1.

Biến số độc lập: ................................................................................................... 31

2.9.2.

Biến phụ thuộc: .................................................................................................... 31

2.9.3.



Đặc điểm nhân khẩu - xã hội học…………………………………………………

4.2.

Kiến thức về sốt của cha/mẹ…………………………………………….................

4.3.

Nhận thức những lợi ích và bất lợi về sốt, thuốc, lau mát…………………………

4.4.

Xác định nguồn thông tin cha/mẹ chăm sóc trẻ sốt nhận đƣợc……………………

4.5.

Xử trí sốt của cha/mẹ và các mối tƣơng quan……………………………

4.6.

Nhận xét về đề tài………………………………………………………

4.6.1.

Điểm mạnh……………………………………………

4.6.2.

Điểm yếu………………………………………………………………

and Care Excellence
HPM

Health Promotion Model

Mô hình nâng cao sức khỏe

CRT

Capillary Refill Time

Thời gian đổ đầy mao mạch

RR

Respiratory Rate

Nhịp thở

PPVL

Phƣơng pháp vật lý

THS

Thuốc hạ sốt

SCC

Sốt càng cao

Bảng 2.1: Một số câu hỏi bản gốc và đã chỉnh sữa
Bảng 3.1: Đặc điểm nhân khẩu - xã hội học (n =100)
Bảng 3.2. Kiến thức về sốt của cha/mẹ (n=100)
Bảng 3.3. Nhận thức những lợi ích và bất lợi về sốt, thuốc, lau mát (n=100)
Bảng 3.4. Xử trí của cha/mẹ khi trẻ bị sốt bằng phƣơng pháp sử dụng thuốc(n =100)
Bảng 3.5. Xử trí của cha/mẹ khi trẻ bị sốt bằng phƣơng pháp không sử dụng thuốc
(n =100)
Bảng 3.6. Nguồn cung cấp thông tin về kiến thức sử dụng thuốc hạ sốt và kháng
sinh của cha/mẹ (n=100)
Bảng 3.7. Mối tƣơng quan giữa xử trí sốt của cha, mẹ với đặc điểm dân tộc (n =100)
Bảng 3.8. Mối tƣơng quan giữa xử trí trẻ sốt bằng thuốc với số con (n =100)
Bảng 3.9. Mối tƣơng quan giữa xử trí trẻ sốt với tuổi (n =100)
Bảng 3.10. Mối tƣơng quan giữa xử trí trẻ sốt bằng thuốc với nhiệt độ bình thƣờng
(n =100)
Bảng 3.11. Mối tƣơng quan giữa xử trí trẻ sốt bằng thuốc với thuốc hạ sốt làm giảm
nhiệt độ (n =100)
Bảng 3.12. Mối tƣơng quan giữa xử trí trẻ sốt bằng thuốc với thuốc hạ sốt làm giảm
đau (n =100)
Bảng 3.13. Mối tƣơng quan giữa xử trí trẻ sốt bằng thuốc với thuốc hạ sốt làm hại
gan, thận (n =100)
Bảng 3.14. Mối tƣơng quan giữa xử trí trẻ sốt không dùng thuốc với thuốc hạ sốt
làm hại gan, thận (n = 100)
Bảng 3.15. Mối tƣơng quan giữa việc xử trí sốt không dùng thuốc của cha/ mẹ với
kiến thức về nhiệt độ sốt (n = 100)
Bảng 3.16. Mối tƣơng quan giữa việc xử trí sốt bằng thuốc của cha/ mẹ với nhận
thức lau mát làm trẻ quấy khóc (n =100)


8


cả cha mẹ đều sử dụng thuốc hạ sốt và lau mát khi nhiệt độ dao động từ 37 đến
38,5oC[15], [41] [60]; 38,1% cha mẹ cho rằng sốt khi nhiệt độ 37oC[47]. Nhận thức
của cha mẹ về sốt có thể làm trẻ bị co giật, hôn mê, tổn thƣơng não và thậm chí là tử
vong còn chiếm tỷ lệ khá cao 74% , nên cha mẹ luôn muốn đƣợc điều trị sốt cho trẻ
(90,3%) [47]. Các bà mẹ xử trí sai là mặc thêm quần áo cho con chiếm 41,5% và
32% chƣờm đá, chanh, rƣợu, cạo gió, cắt lễ[7], cha mẹ tin rằng việc kết hợp hai loại
thuốc hạ sốt là có lợi hơn và sử dụng kháng sinh để hạ nhiệt cho trẻ[60]. Việc xử trí
sốt của cha/mẹ bị ảnh hƣởng bởi đặc điểm nhân khẩu-xã hội học nhƣ trình độ học


10

vấn, những cha mẹ hoàn thành bậc cao đẳng, đại học cho rằng sốt không phải lúc
nào cũng nguy hiểm nên họ ít điều trị sốt hơn những cha mẹ khác[47] và bà mẹ có
kiến thức đúng thì xử trí đúng cao hơn so với bà mẹ có kiến thức không đúng[11].
Cha mẹ là những ngƣời chăm sóc, chịu trách nhiệm về sức khỏe trẻ. Nếu cha
mẹ thiếu kiến thức cũng nhƣ xử trí sốt ở trẻ thì sẽ có những sai lầm khi chăm sóc,
ảnh hƣởng nghiêm trọng đến sức khỏe và tính mạng trẻ. Qua nhiều thập kỷ đã có
nhiều tác giả nghiên cứu về chủ đề này, tuy nhiên kết quả thay đổi theo thời gian,
địa điểm nghiên cứu cũng nhƣ các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và tại tỉnh Bình
Phƣớc nói chung, Bệnh viện Bình Long nói riêng chƣa có nghiên cứu nào về chủ đề
này. Chính vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài “ Xử trí của cha mẹ khi trẻ bị sốt và các
yếu tố liên quan”
Câu hỏi nghiên cứu: Mối liên quan giữa việc xử trí trẻ sốt của cha mẹ với đặc điểm
nhân khẩu - xã hội học, nhận thức và kiến thức nhƣ thế nào?
Mục tiêu:
Tổng quát: Xác định cách thức xử trí của cha mẹ khi trẻ bị sốt và các yếu tố liên
quan.
Cụ thể:
1. Xác định đặc điểm nhân khẩu - xã hội học của cha/mẹ trẻ.

do khối lƣợng cơ nhiều hơn, nhƣng khi nữ đến tuổi dậy thì do ảnh hƣởng của lƣợng
hormone nên khi rụng trứng hoặc mang thai trong ba, bốn tháng đầu thì nhiệt độ
tăng[48],[67]. Nhiệt độ con ngƣời còn chịu ảnh hƣởng của nhiệt độ môi trƣờng bên
ngoài nhƣng không nhiều do con ngƣời biết cách thay đổi nhƣ mặc thêm hoặc cởi
bớt quần áo, sƣởi ấm.
1.1.3. Sự cân bằng giữa sinh nhiệt và thải nhiệt:
1.1.3.1. Sự sinh nhiệt:


12

Nhiệt là sản phẩm phụ của chuyển hoá và vận động cơ [1],[5]. Sự sinh nhiệt
chịu ảnh hƣởng của hormone tuyến giáp thyroxin, hệ giao cảm và nhiệt độ[5]. Nhiệt
độ sản xuất ra hàng ngày rất lớn nếu không có sự thải nhiệt thì trong 24 giờ nhiệt độ
cơ thể có thể tăng lên 400C[5].
1.1.3.2. Sự thải nhiệt:
Hầu hết lƣợng nhiệt sinh ra trong cơ thể đƣợc tạo thành từ các cơ quan ở sâu
nhƣ gan, não, tim và cơ (khi có vận cơ)[1], nhiệt đƣợc vận chuyển đến da là nơi có
thể thải nhiệt vào môi trƣờng xung quanh. Quá trình thải nhiệt là một quá trình vật
lý.[1][75]
1.2.

Sốt

1.2.1. Định nghĩa
Ở ngƣời, thân nhiệt luôn luôn hằng định ở 370C mặc dù nhiệt độ môi trƣờng
bên ngoài có nhiều biến động [18]. Trong ngày thân nhiệt thay đổi, thấp nhất lúc
sáng sớm và cao nhất lúc về chiều, biên độ biến đổi thân nhiệt trong ngày trung bình
là 0,60C. Cao hơn biên độ này là sốt[18]
Hoặc sốt khi thân nhiệt cơ thể vƣợt quá giới hạn bình thƣờng, nhiệt độ ở


Tăng sản nhiệt
Giảm thải nhiệt

Sốt

Sơ đồ 1.1: Sơ đồ cơ chế phát sinh cơn sốt của Rosendoff [5]


14

1.2.3. Các rối loạn chuyển hóa trong sốt:
1.2.3.1. Các rối loạn chuyển hóa trong sốt[12]
Rối loạn chuyển hóa năng lƣợng: Khi nhiệt độ gia tăng thì chuyển hóa năng
lƣợng, sự tiêu thụ oxy gia tăng (khi nhiệt độ tăng 10C, chuyển hóa tăng 3,3%, tiêu
thụ oxy tăng 13%).
Rối loạn chuyển hóa glucid: Khi sốt có tăng chuyển hóa glucid, giảm dự trữ
glycogen, tăng đƣờng huyết, tăng lactic acid.
Rối loạn chuyển hóa lipid: Khi sốt kéo dài, dự trữ glycogen giảm, tăng sử
dụng lipid, tăng thể ketone trong máu.
Rối loạn chuyển hóa protid: Gia tăng thoái hóa protein từ cơ, giảm tổng hợp
protein, cân bằng nitơ âm. Chuyển hóa protid có thể tăng đến 30%.
Tăng nhu cầu các vitamin, nhất là các vitamin thuộc nhóm B và C.
Đang trong giai đoạn phát sốt thì có sự tăng các nội tiết tố nhƣ : Aldosterone
và ADH làm giảm sự bài tiết nƣớc tiểu. Khi sốt lui có sự tăng bài tiết nƣớc tiểu, vã
mồ hôi để tăng sự thải nhiệt.
1.2.4.2. Các rối loạn chức phận trong sốt [12]:
Rối loạn thần kinh: Khi sốt có thể có những rối loạn ở hệ thần kinh với các
biểu hiện nhƣ nhức đầu, chóng mặt, nhức mỏi toàn thân, mê sảng, ở trẻ con có thể
có co giật. Các biểu hiện tùy thuộc vào tác nhân gây sốt và tính phản ứng cơ thể.

dịch, tăng thực bào, tăng tổng hợp kháng thể [12].
Sốt làm giảm lƣợng sắt trong huyết thanh do có sự tăng thu sắt bởi hệ thống
tế bào đơn nhân thực bào, giảm hấp thu sắt từ ruột khiến vi khuẩn không sinh sản
đƣợc [12].
1.2.6.2. Bất lợi của sốt:
Bên cạnh những lợi ích mà sốt mang lại thì sốt cũng gây ra một số vấn đề:
mất nƣớc, chán ăn, đau đầu, co giật [12] và ở trẻ nhỏ cha/mẹ sợ ảnh hƣởng của sốt
nhất là co giật[40],[44],[68]. Ở trẻ dƣới 5 tuổi, co giật xảy ra khi tiền sử gia đình,
bản thân bị co giật và thƣờng lành tính[52]. Sốt trên 410 C có nguy cơ co giật và
tổn thƣơng não[28].
1.2.7. Vị trí lấy nhiệt độ:
Để xác định mức độ sốt cần đo nhiệt độ chính xác bằng nhiệt kế. Nhiệt kế có
nhiều loại, chủ yếu là loại nhiệt kế thủy ngân, lấy nhiệt độ có thể ở nách, miệng và
hậu môn[18]. Đối với những bé dƣới 3 tháng tuổi thì cặp nhiệt độ ở hậu môn là


16

phƣơng pháp đƣợc sử dụng và cho kết quả chính xác nhất, tuy nhiên gây cảm giác
khó chịu[10]. Đối với cặp nhiệt độ ở nách thƣờng đơn giản, an toàn, thuận tiện nhất
vì ít phải đƣa vào bên trong cơ thể và không gây kích thích cho trẻ nên đây là cách
mà các bà mẹ thƣờng dùng. Tuy nhiên, so với đo ở hậu môn thì đo ở nách kém
chính xác hơn, vì nhiệt độ cơ thể chịu ảnh hƣởng nhiều vào yếu tố môi trƣờng bên
ngoài[10],[18],[33]. Đo nhiệt độ ở miệng chỉ nên dùng cho bé trên 5 tuổi[33].
Ngoài ra còn có thể lấy nhiệt độ qua nhiệt kế băng dán ở trán trẻ hoặc nhiệt độ cảm
ứng nhiệt qua điện tử ở tai trẻ, cách lấy nhiệt độ này nhanh ít gây khó chịu cho trẻ
song cần có dụng cụ đo, mà dụng cụ thì chƣa phổ biến hiện nay[18]. Đo nhiệt độ ở
tai không đƣợc chỉ định cho bé dƣới 3 tháng tuổi do thời điểm này, ống tai của bé
còn hẹp[10].
1.3.

sốt xuất huyết, liều dùng 5-10 mg/kg/lần uống mỗi 6- 8 giờ [28],[24]. Các thuốc
này giúp trẻ dễ chịu hơn và giảm thân nhiệt trẻ khoảng 1 – 1,5º C, liều lƣợng của
Acetaminophen hay Ibuprofen nên đƣợc tính theo cân nặng của trẻ, không nên theo
tuổi[24], nên lấy lại nhiệt độ trƣớc khi uống liều tiếp theo[18], không khuyến cáo
thƣờng quy kết hợp hoặc dùng xen kẽ Acetaminophen và Ibuprofen vì hầu hết đáp
ứng với một loại thuốc[24],[28] kết hợp đồng thời hoặc xen kẽ so với chỉ dùng đơn
lẻ một loại thuốc đang còn trong giai đoạn đánh giá lại về hiệu quả và tính an
toàn[24],[28]. Trong trƣờng hợp sốt cao không đáp ứng với Acetaminophen đơn
thuần có thể phối hợp thêm Ibuprofen sau 1 đến 2 giờ nếu không có chống chỉ định
Ibuprofen[28]. Aspirin hiện nay ít đƣợc sử dụng do biến chứng xuất huyết tiêu hóa,
liên hệ đến hội chứng Reye’s[28], dùng lƣợng lớn thuốc giảm đau không kê toa nhƣ
aspirin, acetaminophen và ibuprofen có thể gây tổn hại không chỉ cho gan mà còn
làm hại cho thận[17], vì chúng có thể làm giảm lƣợng máu cung cấp cho thận bằng
cách làm hẹp mạch máu, gây cản trở dòng chảy của nƣớc tiểu, trực tiếp gây thƣơng
tích cho thận hoặc gây phản ứng dị ứng làm tổn thƣơng đến thận[17]. Thuốc hạ sốt
có thể sử dụng sớm hơn khi thân nhiệt trên 380C trong các trƣờng hợp bệnh lý tim
mạch, viêm phổi để giảm nhu cầu oxy do tăng nhịp tim khi sốt, giảm nguy cơ suy
tim hoặc trẻ có tiền sử co giật do sốt[28]. Các thuốc hạ sốt không có hiệu quả trong
việc ngăn ngừa sự tái phát của co giật do sốt cao, mặc dù thuốc hạ sốt có thể cải
thiện sự dễ chịu cho trẻ[25].
Nếu trẻ sốt li bì, trẻ nôn ói nhiều, trẻ không thể uống đƣợc, nhất là những trẻ
đang ngủ say mà cha/mẹ không muốn đánh thức trẻ, cha mẹ sẽ cho trẻ dùng viên
đạn nhét hậu môn để hạ sốt[31]. Thuốc nhét hậu môn hoặc dùng qua đƣờng uống có
tác dụng hạ sốt tƣơng đƣơng nhau[70]. Dùng thuốc nhét hậu môn nên ngắn hạn, sau


18

đó chuyển sang dạng uống vì nhét hậu môn có thể gây ngứa, kích thích trực
tràng[31]

19

không kéo dài[5], gây khó chịu cho trẻ, tăng kích thích, làm trẻ quấy khóc, gây tốn
thời gian cho nhân viên y tế, ngƣời chăm sóc. Lau mát cho trẻ bằng nƣớc ấm hiện
nay ở Bệnh viện Nhi Đồng 1 thì bác sĩ chỉ định lau mát cho những trẻ sốt cao kèm
đang co giật hoặc sau khi uống thuốc hạ nhiệt 30 phút trẻ vẫn còn sốt ≥ 400C [26]
Miếng dán hạ sốt không phải thuốc, không có tác dụng chữa trị bệnh. Đa số
các miếng dán hoạt động theo cách dùng chênh lệch nhiệt độ để giúp vùng đƣợc dán
giảm đƣợc nhiệt độ. Cơ chế hạ nhiệt của miếng dán hạ nhiệt đƣợc quảng cáo là thụ
nhiệt và phân tán ra ngoài nhƣng thực tế chƣa có nghiên cứu khoa học nào chứng
minh tác dụng của phƣơng pháp này[9],[30] vì thế hầu hết các miếng dán chỉ đem
đến cảm giác mát lạnh, thành phần chủ yếu là hydrogel. Cách thức này đƣợc xác
định là không mang lại hiệu quả tối ƣu vì chỉ có thể giảm nhiệt độ ở những vùng
đƣợc dán. Ngoài ra, sản phẩm chỉ dán ngoài da nên không có tác dụng trị bệnh từ
bên trong[30]. Miếng dán có nguy cơ dị ứng da, ảnh hƣởng hệ hô hấp với các trẻ sốt
do viêm phổi, do miếng dán khiến hệ hô hấp của trẻ càng tổn thƣơng do phải hoạt
động nhiều hơn[30]. Việc dùng miếng dán hạ sốt có thể khiến bệnh nặng và nguy
hiểm đến tính mạng vì cảm giác hạ nhiệt của thân thể trẻ nhỏ dễ khiến phụ huynh
lầm tƣởng con đang khỏi bệnh[9],[30].
1.3.2. Phƣơng pháp dân gian:
Việt Nam là một nƣớc có truyền thống lâu đời trong việc dùng cây cỏ để
phòng và trị bệnh, nhờ những kinh nghiệm thực tiễn của cƣ dân bản địa và sự tiếp
thu tinh hoa phòng và chữa bệnh của nền y học cổ truyền phƣơng Đông. Nhƣng
quan trọng nhất chính là sự đa dạng về tộc ngƣời cùng với sự khác biệt về điều kiện
thổ nhƣỡng, khí hậu, phong tục tập quán, văn hóa trong từng cộng đồng dân tộc đã
dẫn tới sự đa dạng những kinh nghiệm gia truyền trong việc chữa bệnh và cách sử
dụng cây cỏ xung quanh mình làm thuốc chữa bệnh. Theo sách “Cây thuốc Việt
Nam và những bài thuốc thƣờng dùng” tập 1 của tác giả Nguyễn Viết Thân và sách
“Từ điển cây thuốc Việt Nam” của tác giả Võ Văn Chi, nhà xuất bản Y học Hà Nội
2012 thì

(bứt rứt, không chịu bú, …)[24].
Trẻ 3 – 36 tháng: sốt ≥ 39ºC[24]
Trẻ lớn: sốt ≥ 40ºC[24]


21

1.4.

Giáo dục sức khỏe:
Sốt là phản ứng có lợi cho sức khỏe, ngày nay với sự phát triển của y học thì

chăm sóc trẻ sốt có sự thay đổi bằng cách áp dụng trên chứng cứ. Theo NICE
(National Institute for Health and Care Excellence) xuất bản năm 2013 thì chăm sóc
trẻ sốt không chỉ đơn thuần dừng lại ở đánh giá nhiệt độ của trẻ mà cần đánh giá
toàn diện về màu sắc da, vận động, hô hấp, tuần hoàn, thiếu nƣớc và những vấn đề
khác. Đây là bảng phân loại nguy cơ mắc bệnh nặng dựa trên màu sắc đèn giao
thông của NICE 2013, bản dịch Tiếng Việt có sự tham khảo từ bản dịch của tác giả
Trần Thụy Khánh Linh[16],[65].
Bảng 1.1 : Hệ thống đèn giao thông xác định nguy cơ mắc bệnh nặng ở trẻ của
NICE 2013

Màu

Đỏ - Nguy cơ cao

Vàng – Nguy cơ vừa

Xanh – Nguy cơ thấp


thích kéo dài, hoặc
 Hoạt

 Yếu, khóc the thé

hoặc

động

giảm,

hấp

 Thở nhanh:

 Cánh

 Dấu lõm ngực trung bình

o RR

đến nghiêm trọng

phập

phồng, hoặc
 Thở nhanh
>

50




ứng

>

40


22

nhịp/phút, trẻ >
12 tháng, hoặc
 Oxy bão hòa < 95%
(không hổ trợ oxy),
hoặc
 Ran nổ
Thiếu

 Da kém đàn hồi

nƣớc

 Da niêm khô, hoặc
 Bú kém hoặc
 CRT ≥ 3 giây, hoặc

 Màu da và mắt bình
thƣờng

 Cơn động kinh khu trú
 Nôn mật xanh
CRT= capillary refill time-thời gian đổ đầy mao mạch
RR=respiratory rate-nhịp thở
Trẻ có một trong dấu hiệu cột “đỏ” thì nguy cơ mắc bệnh nặng rất cao. Trẻ
có nguy cơ vừa nếu xuất hiện sốt và bất kỳ dấu hiệu nào trong cột “vàng”. Trẻ thuộc
nguy cơ thấp khi dấu hiệu nằm trong cột “xanh”.
Theo nghiên cứu “Sốt ở trẻ và xử trí sốt dựa trên chứng cứu khoa học” của
tác giả Trần Thụy Khánh Linh và cộng sự công bố năm 2011 chăm sóc trẻ sốt là
không gây nguy hại cho trẻ và có ba phƣơng pháp đƣợc khuyến cáo là mặc thoáng
(không cởi hết quần áo, không mặc nhiều lớp, không đội nón đối với trẻ sơ sinh),
cung cấp đủ dịch và tạo sự thoải mái cho trẻ (giảm bứt rứt, làm dịu, không đánh
thức trẻ dậy ban đêm để uống thuốc hạ sốt)[16]


23

1.5.

Các nghiên cứu trƣớc đây:

1.5.1. Một số nghiên cứu nƣớc ngoài:
Theo tác giả Bertille và cộng sự (2013)[41]: 61% cha mẹ xác định ngƣỡng
sốt là 380C, 66% cha mẹ sử dụng thuốc hạ sốt khi nhiệt độ thấp hơn 38.50C, 99%
cha mẹ sử dụng phƣơng pháp không dùng thuốc (uống nhiều nƣớc, mặc quần áo
thoáng, giảm nhiệt độ phòng). Theo tác giả Balafama A, Alex-Hart và cộng sự
(2011)[76]: Triệu chứng kèm với sốt là chán ăn 71,5%; 76,2% sờ trán để đo nhiệt
độ cho trẻ; xử trí phổ biến nhất là cho trẻ uống thuốc hạ sốt paracetamol 70,9%; lau
mát 50,3%, mặc quần áo thoáng mát là 14,6%, biến chứng của sốt cha mẹ cho là co
giật 67,7% Vấn đề tồn tại: cha mẹ xác định nhiệt độ cho con bằng các sờ trán còn

không phải lúc nào cũng nguy hiểm nên họ ít điều trị sốt hơn những phụ huynh
khác.
Theo tác giả Laura J và cộng sự (2015)[56]: hầu hết cha mẹ xác định nhiệt độ
bình thƣờng từ 36 đến 38oC, ngƣỡng sốt là từ 37 đến 39.5oC; 4.7% cha mẹ cho rằng
sốt là tốt và nó không nguy hiểm; 61.9% cha mẹ cho biết những lợi ích của sốt nhƣ
sốt là một dấu hiệu cho thấy hệ thống miễn dịch đang làm việc. Tuy nhiên nỗi sợ
hãi về sốt không luôn luôn dựa trên bằng chứng đó: sốt gây tổn thƣơng não khi sốt
40 , 41oC; đa số cha mẹ sử dụng nhiệt kế trực tràng để xác định sốt cho trẻ (61.9%);
đa số cha mẹ sử dụng phƣơng pháp không dùng thuốc để hạ sốt (đảm bảo trẻ uống
đủ nƣớc) và tạo sự thoải mái cho trẻ; các cha mẹ không thích sử dụng thuốc hạ sốt
cho trẻ, chỉ dùng thuốc khi cần thiết, họ tin rằng việc sử dụng thuốc có thể dẫn đến
một cái gì đó tồi tệ hơn[56]. Qua nghiên cứu này ta thấy có mối liên quan giữa kiến
thức và xử trí sốt, cha mẹ có kiến thức đúng về sốt thì có hành vi xử trí đúng.
1.5.2. Một số nghiên cứu trong nƣớc:
Theo tác giả Phạm Hải Yến (2013) [11] trong số các trẻ có sốt khi nhập viện
thì tỷ lệ trẻ sốt gặp cao nhất ở lứa tuổi 6 tháng đến 3 tuổi, chiếm 60,9%; tỷ lệ trẻ sốt
nhập viện thấp nhất ở lứa tuổi < 6 tháng; 90,2% bả mẹ cặp nhiệt độ thƣờng xuyên;
94,1% cho trẻ dùng thuốc hạ sốt; 41,9% bà mẹ lau mát bằng nƣớc ấm cho trẻ; 5,9%
bà mẹ lau mát bằng nƣớc lạnh ; 2,9% các bà mẹ xoa cồn; 17,6% bà mẹ không biết
phải làm gì khi con bị sốt; 52,9% bà mẹ không biết tính liều lƣợng thuốc. Vấn đề
tồn tại trong nghiên cứu này: 94,1% bả mẹ cho trẻ dùng thuốc hạ sốt tác giả cho là
hành vi đúng nhƣng chƣa thấy tác giả đƣa ra là bà mẹ sử dụng thuốc có theo đúng
nhiệt độ sốt theo khuyến các của NICE [65] khi nhiệt độ đo ở nách ≥ 39oC hay
không? 90,2% bà mẹ cặp nhiệt độ thƣờng xuyên tác giả cho là hành vi đúng nhƣng



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status