Tòa án hiến pháp tại một số quốc gia trên thế giới và việc áp dụng xây dựng tòa án hiến pháp việt nam trong giai đoạn hiện nay - Pdf 48

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HUỲNH NHẬT MINH

TÒA ÁN HIẾN PHÁP TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI VÀ
VIỆC ÁP DỤNG XÂY DỰNG TÒA ÁN HIẾN PHÁP TẠI VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HUỲNH NHẬT MINH

TÒA ÁN HIẾN PHÁP TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI
VÀ VIỆC ÁP DỤNG XÂY DỰNG TÒA ÁN HIẾN PHÁP TẠI VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính


pháp tại Việt Nam
1.3.

Những điều kiện cần thiết đảm bảo hiệu quả hoạt động của Tòa án

25

hiến pháp
Chương 2: Một số vấn đề lý luận về cơ quan bảo hiến và Tòa án hiến

34

pháp
2.1. Một số vấn đề lý luận về cơ quan bảo hiến

34

2.2. Tổ chức hoạt động của các mô hình cơ quan bảo hiến trên thế giới

39

Chương 3: Tòa án hiến pháp của một số quốc gia trên thế giới và

48

những kinh nghiệm đối với Việt Nam
3.1. Tòa án hiến pháp của Cộng hòa Hàn Quốc

48

bảo tính tối cao của Hiến pháp, bảo đảm Hiến pháp được tất cả các chủ thể tôn
trọng và nghiêm chỉnh chấp hành luôn là vấn đề quan trọng.
Hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đã xây dựng được một cơ quan
độc lập với hệ thống cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đó là một cơ quan hiến
định độc lập, được quy định trong Hiến pháp của từng quốc gia. Trong những cơ
quan hiến định độc lập đó, có một cơ quan đóng vai trò quan trọng trong việc đảm
bảo việc xây dựng và thi hành pháp luật đúng theo Hiến pháp, có tính chất kiềm
chế quyền lực của các cơ quan quyền lực còn lại trong hệ thống pháp luật. Đó là cơ
quan bảo hiến. Tại mỗi quốc gia khác nhau, cơ quan bảo hiến được xây dựng và tổ
chức khác nhau thành các mô hình khác nhau với tên gọi khác nhau.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 ra đời trong
bối cảnh đất nước Việt Nam đang có sự chuyển mình mạnh mẽ, hội nhập sâu rộng
với thế giới. Nền kinh tế - xã hội Việt Nam phát triển một cách ổn định trước sức
ép của các cuộc khủng hoảng. Hiến pháp Việt Nam năm 2013 đã đánh dấu sự thay
đổi mạnh mẽ trong quá trình lập pháp bằng việc quy định các chế định về quyền
con người, mở rộng phạm vi các quyền cơ bản của con người và cơ quan hiến định
độc lập. Tuy nhiên, khác với hầu hết các quốc gia trên thế giới hiện nay đều có chế
định riêng về cơ quan bảo hiến trong Hiến pháp, thì Hiến pháp Việt Nam năm 2013
lại chưa có quy định riêng, cụ thể về cơ quan bảo hiến.
Việc xây dựng cơ chế bảo vệ Hiến pháp đã được đặt ra trong văn kiện Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam, nội dung là: “Xây


2

dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt
động và quyết định của các cơ quan công quyền” và “ xây dựng cơ chế phán quyết
về những vi phạm HIến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp”.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã tiếp tục yêu cầu “xây dựng từng
bước hoàn thiện cơ chế, kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt

Đã có nhiều đề tài nghiên cứu, luận văn, bài viết về cơ quan bảo hiến nói chung
và mô hình Tòa án hiến pháp nói riêng. Một số bài viết trên các tạp chí pháp luật đã
so sánh các mô hình cơ quan bảo hiến của các quốc gia để thấy được những ưu
điểm, nhược điểm của từng mô hình cơ quan bảo hiến. Có thể liệt kê một số công
trình khoa học rất công phu đã được xuất bản thành sách hoặc được đăng trên các
tạp chí uy tín như sau:
- PGS.TS Nguyễn Như Phát (chủ biên), Tài phán Hiến pháp – Một số vấn đề lý
luận cơ bản, kinh nghiệm quốc tế và khả năng áp dụng cho Việt Nam, Nxb. Khoa
học xã hội, 2011.
- GS.TSKH Đào Trí Úc và PGS.TS Võ Khánh Vinh (Chủ biên), Giám sát và cơ
chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay, Nxb. Công an
nhân dân, 2003.
- GS.TSKH Đào Trí Úc và PGS.TS Nguyễn Như Phát (Chủ biên), Tài phán Hiến
pháp và vấn đề xây dựng mô hình tài phán Hiến pháp ở Việt Nam, Nxb. Công an
nhân dân, 2007.
- GS.TS Nguyễn Đăng Dung, Sự hạn chế quyền lực nhà nước, Nxb. Đại học quốc
gia, 2005.
- TS Nguyễn Sỹ Dũng (Chủ biên), Quyền giám sát của Quốc hội – Nội dung và
thực tiễn từ góc nhìn tham chiếu, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2005.
- Đặng Văn Chiến (Chủ biên), Cơ chế bảo hiến, Nxb. Tư pháp, 2005.
- Bùi Ngọc Sơn, Bảo hiến ở Việt Nam, Nxb. Tư pháp, 2006.


4

- PGS.TS Nguyễn Như Phát, Mô hình tài phán Hiến pháp ở Cộng hòa Liên bang
Đức, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 11, 2004.
- GS.TS Thái Vĩnh Thắng, Mô hình cơ quan bảo hiến ở các nước trên thế giới, Tạp
chí luật học, số 5, 2004.
- GS. TSKH Đào Trí Úc, Tài phán Hiến pháp và xây dựng tài phán Hiến pháp ở

nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Phân tích khái niệm, phân loại cơ quan bảo hiến nói chung và Tòa án Hiến
pháp nói riêng.
- Phân tích và đánh giá ưu điểm và nhược điểm của các mô hình Tòa án Hiến
pháp tại một số quốc gia trên thế giới.
- Đánh giá thực tiễn xây dựng pháp luật tại Việt Nam và áp dụng mô hình Tòa
án Hiến pháp của các quốc gia vào việc xây dựng Tòa án Hiến pháp tại Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài bao gồm:
- Các vấn đề lý luận chung về cơ quan bảo hiến như: khái niệm, đặc điểm,, cơ
cấu tổ chức. Từ đó có sự liên hệ đến Tòa án Hiến pháp của một số quốc gia cụ thể
như: Cộng hòa Liên bang Đức, Liên bang Nga, ….
- Đánh giá mức độ cần thiết để xây dựng Tòa án Hiến pháp tại Việt Nam trong
tương lai. Những ưu điểm, nhược điểm của mô hình Tòa án Hiến pháp.
- Một số công trình nghiên cứu cụ thể về mô hình Tòa án Hiến pháp của một số
quốc gia.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào phân tích, đánh giá ưu điểm và
nhược điểm của mô hình Tòa án Hiến pháp của một số quốc gia trên thế giới. Từ
đó đưa ra những nhận định về việc xây dựng Tòa án Hiến pháp tại Việt Nam một
cách phù hợp với yêu cầu và điều kiện phát triển của kinh tế - xã hội Việt Nam thời
kỳ mới. Bên cạnh đó, còn đưa ra những quan điểm về sự cần thiết phải có Tòa án
Hiến pháp tại Việt Nam trong tương lai.


6

5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận văn đã sử dụng
các phương pháp nghiên cứu sau đây:

- Luận văn đã phân tích được ưu điểm và nhược điểm của mô hình Tòa án Hiến
pháp tại một số quốc gia cụ thể.
- Luận văn cũng đã phân tích các cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm hướng đến
xây dựng Tòa án Hiến pháp tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và tương lai.
Ngoài ra, luận văn chỉ ra được những bất cập trên thực tế trong hệ thống pháp luật
và sự cần thiết phải có một cơ quan bảo hiến để đảm bảo sự tuân theo Hiến pháp
của các văn bản pháp luật được ban hành.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần cam đoan, danh mục từ viết tắt sử dụng trong luận văn, mục lục,
phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì nội dung chính của luận
văn bao gồm 3 chương, cụ thể như sau:
CHƯƠNG 1.
SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG TÒA ÁN HIẾN PHÁP TẠI VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
1.1. Những biểu hiện vi hiến và nhu cầu thành lập Tòa án Hiến pháp tại Việt
Nam.
1.2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tòa án Hiến pháp
tại Việt Nam.
1.2.1. Chức năng của Tòa án Hiến pháp.
1.2.2. Vị trí, tính chất của Tòa án Hiến pháp.
1.2.3. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Tòa án Hiến pháp.


8

1.3. Những điều kiện cần thiết đảm bảo hiệu quả hoạt động của Tòa án HIến
pháp.
Kết luận chương 1
Chương 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CƠ QUAN BẢO HIẾN VÀ TÒA ÁN HIẾN

3.4.2. Nhiệm vụ và quyền hạn.
3.4.3. Nhận xét.
Kết luận chương 3


10

CHƯƠNG 1.
SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG TÒA ÁN HIẾN PHÁP TẠI VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
1.1. Những biểu hiện vi hiến và nhu cầu thành lập Tòa án Hiến pháp tại Việt
Nam.
* Trên thực tế, Việt Nam đang áp dụng mô hình cơ quan bảo hiến đồng thời là
cơ quan lập pháp (Quốc hội) để xem xét, kiểm tra sự hợp hiến của các văn bản
luật. Chúng ta có thể đánh giá về hoạt động bảo hiến của Việt Nam trong thời gian
qua như sau:
Chủ thể thực hiện chức năng giám sát Hiến pháp tuy có nhiều nhưng thiếu một
cơ chế phân công trách nhiệm rõ ràng. Hiến pháp giao cho Quốc hội quyền ban
hành và sửa đổi Hiến pháp, các đạo luật, giám sát việc thực hiện Hiến pháp và pháp
luật. Tuy nhiên, cả Hiến pháp và pháp luật đều không quy định trách nhiệm phát
sinh từ các văn bản pháp luật vi hiến do Quốc hội ban hành. Vị trí quyền lực tối cao
thuộc về Quốc hội bắt nguồn từ việc Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất, cơ quan lập hiến, lập pháp, cơ quan giám sát tối cao. Tuy nhiên, vấn đề căn
cốt thể hiện bản chất nguồn gốc quyền lwujc nhà nước đặt ra ở đây là chưa thực sự
rõ ràng ở mối quan hệ quyền lực của Quốc hội với quyền lực của Hiến pháp. Trong
Nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước chịu sự ràng buộc bởi Hiến pháp, pháp
luật, có nghĩa là Quốc hội trong mối tương quan với Hiến pháp, phải tuân thủ quy
định của Hiến pháp.
Hoạt động giám sát của Quốc hộ ít có hiệu qua vì đa số đại biểu Quốc hội hoạt
động kiêm nhiệm, không phải là chuyên gia pháp luật. Mặt khác, cơ chế hoạt động

Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng ban hành về những giải pháp phát triển
kinh tế xã hội năm 2012, trong đó có một quy định như sau: “tạm dừng giải quyết
đăng ký thường trú mới vào nội thành đối với các trường hợp chỗ ở là nhà thuê
mượn, ở nhờ mà không có nghề nghiệp hoặc có nhiều tiền án tiền sự”, “học sinh
chưa đủ tuổi theo quy định đi xe máy thì xử phạt nặng và tạm giữ xe 60 ngày”, hay


12

quy định “tạm dừng đăng ký mới với cơ sở kinh doanh dịch vụ cầm đồ”. Bốn tháng
sau, Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (Bộ Tư pháp) đã “tuýt còi” ba quy
định trên vì cho rằng vi phạm Hiến pháp nghiêm trọng và làm hạn chế quyền công
dân. Đặc biệt, đối với nội dung tạm dừng đăng ký thường trú, đây là nội dung làm
hạn chế quyền tự do cư trú của công dân, vi phạm Điều 68 Hiến pháp năm 1992 về
việc “Công dân có quyền tư do đi lại và cư trú trong nước, có quyền ra nước ngoài
và tự nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật.”
Trước động thái này của Cục, Giám đốc Sở Tư pháp Đà Nẵng thời điểm ấy là
ông Nguyễn Bá Sơn khẳng định việc quy định này của thành phố là không trái luật.
Lý giải cho điều này, ông Nguyễn Bá Sơn dẫn chứng việc Đà Nẵng vẫn hạn chế
nhập cư tại hai quận trong trung tâm thành phố là quận Thanh Khê và quận Hải
Châu. Bổ sung cho ý kiến đó, chiều ngày 4/7/2012 tại kỳ họp thứ 4 của HĐND
thành phố Đà Nẵng, Bí thư thành ủy Nguyễn Bá Thanh cho rằng Đà Nẵng hạn chế
chứ không tẩy chay dân nhập cư, nhưng đã nhập cư vào trung tâm thành phố thì
phải có công việc ổn định.
Không đồng ý với giải thích của thành phố Đà Nẵng, Cục kiểm tra văn bản (Bộ
tư pháp) tiếp tục có ý kiến. Trong ba vấn đề của Nghị quyết 23 bị “tuýt còi”, vào
tháng 7/2012, Đà Nẵng đã tự xử lý hai nội dung, riêng việc hạn chế đăng ký thường
trú mới vào khu vực nội thành là vẫn giữ nguyên.
Cuối tháng 9, Thường trực Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng “yêu cầu Ủy
ban nhân dân thành phố chỉ đạo Công an, Ủy ban nhân dân các quận, huyện quản lý

bước được hoàn thiện trong các bản Hiến pháp tiếp theo đã phần nào hạn chế các
hành vi vi hiến nhưng hoạt động bảo hiến của Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn
chế như sau:
Một là, việc giám sát và bảo vệ Hiến pháp được giao cho nhiều cơ quan nhà
nước, cá nhân có thẩm quyền mà không giao cho một cơ quan chuyên trách có chức
năng bảo vệ Hiến pháp. Điều này dẫn đến tình trạng không xác định rõ phạm vi


14

nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan nên hoặc là đùn đẩy trách nhiệm hoặc chồng
chéo trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động
giám sát và bảo vệ Hiến pháp.
Hai là, việc giám sát và bảo vệ Hiến pháp theo cơ chế hiện hành chủ yếu dựa vào
việc thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội, trong khi đó giám sát tối cao của
Quốc hội phụ thuộc vào các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Vì thế
không tránh khỏi sự ỷ lại trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo hiến;
Ba là, chúng ta chưa có một cơ chế hữu hiệu nào để giám sát chính hoạt động
của Quốc hội và giám sát tính hợp hiến của các đạo luật, nghị quyết do Quốc hội
ban hành cũng như việc giải quyết và hệ quả pháp lý trong trường hợp luật, nghị
quyết của Quốc hội có dấu hiệu trái với Hiến pháp. Mặc dù Luật ban hành văn bản
quy phạm pháp luật quy định “theo đề nghị của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ
tịch nước, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân
dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức thành viên của Mặt trận, đại biểu Quốc hội, Quốc hội xem xét, quyết định bãi
bỏ một phần hoặc toàn bộ luật, nghị quyết của Quốc hội trái Hiến pháp”. Tuy
nhiên, cho đến nay, Quốc hội vẫn chưa bãi bỏ một văn bản luật, nghị quyết nào của
mình với lý do văn bản đó trái Hiến pháp, mặc dù việc sửa đổi, bổ sung luật diễn ra
liên tục hàng năm;
Bốn là, thẩm quyền huỷ bỏ, đình chỉ văn bản quy phạm pháp luật trái Hiến

công dân không bị vi phạm từ phía cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước
và là bảo đảm để mọi chủ thể phải chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ, khóa VII năm 1994, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã nêu ra nhiệm vụ: “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát
triển theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây


16

dựng trên cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giữa
giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng ta lãnh
đạo”. Từ đó, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trở thành
một trong những nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt trong thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội của Việt Nam. Tư tưởng đó đã được phát triển trong các kỳ Đại hội
Đảng tiếp theo và chính thức trở thành một nội dung Hiến định: “Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Một trong những đặc trưng cơ bản của Nhà nước
pháp quyền là vị trí tối thượng của Hiến pháp trong đời sống chính trị, pháp lý. Do
đó, yêu cầu tất yếu phải có phương thức bảo hiến hiệu lực, hiệu quả. Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã khẳng định “Nhà nước
bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và
bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, coongn bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” (Điều 3). Trong quá trình thực hiện,
khó tránh khỏi các trường hợp mà cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức vượt
quyền, lạm quyền, vi phạm thẩm quyền được Hiến pháp quy định dẫn đến xâm
phạm quyền cơ bản của con người và công dân. Trong mối quan hệ giữa công dân
với các cá nhân và cơ quan nhà nước có thẩm quyền, công dân luôn bị đặt vào vị trí

Thương mại quốc tế ngày càng rộng mở làm nảy sinh nhu cầu về một hệ thống
quy tắc pháp lý chung, thậm chí cả một cơ chế tài phán quốc tế thống nhất. Để làm
thương mại, các bên đối tác tiến hành giao dịch với nhau trên cơ sở một khung
pháp luật chung, nghĩa là cùng tuân thủ các nguyên tắc giao dịch đã được thỏa
thuận chung. Đã xuất hiện khá nhiều con đường, mô hình, phương thức làm luật
chung liên quốc gia, ví dụ: Cơ chế hòa giải, trọng tài xuyên quốc gia, Tổ chức
thương mại thế giới và hệ thống pháp luật quốc tế giải quyết những tranh chấp đang
liên kết các chế độ pháp luật khác nhau lại với nhau,… Những năm gần đây, các


18

hiệp định về mậu dịch tự do tổng quát, hiệp định đầu tư liên quan đến mậu dịch,
hiệp định về các khía cạnh kinh tế của quyền sở hữu trí tuệ, hay gần đây nhất là
Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã ra đời, là bước khẳng định
mạnh mẽ về quá trình xây dựng hệ thống pháp luật có tính phổ quát toàn cầu.
Mặt khác, bản thân quá trình toàn cầu hóa kinh tế lại thúc đẩy xu hướng cải
cách pháp luật trên quy mô toàn cầu. Trong bối cảnh này hầu hết các quốc gia đều
cải cách pháp luật nhằm xác lập, hoàn thiện hệ thống đảm bảo pháp luật, được xem
như yếu tố cạnh tranh hàng đầu hiện nay. Tuy các quá trình cải cách pháp luật diễn
ra ở mỗi nước, mỗi khu vực với những nội dung, hình thức khác nhau nhưng khái
quát chúng thành một số xu hướng chủ yếu sau:
- Nhà nước tăng cường can thiệp vào đời sống xã hội, trong đó quyền lực hành
pháp, hành chính được mở rộng và quyền lực lập pháp có một số biến động. Điều
dễ nhận thấy là chủ thể lập pháp hiện nay không còn chỉ là Nghị viện nữa, mà còn
có thêm một số cơ quan hoặc cá nhân khác được nhận quyền lập pháp ủy nhiệm.
Theo đó, các cơ quan hành chính và cơ quan hành pháp có quyền tự do hơn trong
xử lý, điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế, xã hội, chính trị, tinh thần…, không còn
bị ràng buộc quá khắt khe vào các văn bản luật kinh điển như trước.
- Nhà nước và xã hội, cũng như giữa công pháp và tư pháp đã xích lại gần nhau

này trên thực tế rất khó có thể áp dụng với Việt Nam, xuất phát từ lý do là hệ thống
tòa án của Việt Nam chưa thực sự độc lập với hai nhánh quyền lực còn lại là lập
pháp và tư pháp.
Mô hình Tòa án Hiến pháp (hoặc Hội đồng bảo hiến) lại là mô hình mà ở đó
Tòa án Hiến pháp là một thiết chế hiến định độc lập, không phải là một cơ quan
thuộc hệ thống Tòa án. Trong điều kiện văn hóa pháp luật của Việt Nam chịu ảnh
hưởng sâu sắc của văn hóa pháp luật Pháp (trong thời kỳ Pháp thuộc) và văn hóa
pháp luật của Nga (trong thời Xô Viết), là những nền pháp luật từ văn hóa pháp
luật châu Âu. Hơn nữa, trong thời kỳ đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường và


20

nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hệ thống pháp luật Việt nam tiếp tục chịu
ảnh hưởng của hệ thống pháp luật châu Âu lục địa.. Bộ máy nhà nước cũng chịu
ảnh hưởng nhiều của mô hình Cộng hòa Nghị viện. Do đó, mô hình Tòa án Hiến
pháp có thể là mô hình phù hợp đối với Việt Nam.
1.2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tòa án Hiến pháp
tại Việt Nam.
Có thể hình dung khái quát Tòa án hiến pháp Việt Nam trong tương lai với cách
thức tổ chức hoạt động, chức năng như sau:
1.2.1. Chức năng của Tòa án Hiến pháp.
Chức năng, nhiệm vụ của Tòa án Hiến pháp có thể được điều chỉnh tùy thuộc
vào điều kiện của nền pháp lý, chính trị Việt Nam. Tuy nhiên, ở mức tối thiểu thì
Tòa án Hiến pháp Việt Nam nên có những chức năng, nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, Tòa án Hiến pháp có thẩm quyền xem xét và phán quyết về tính hợp
hiến của Văn bản quy phạm pháp luật.
Đối với Văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành: Tòa án Hiến pháp
có quyền ra phán quyết về tính bất hợp hiến, qua đó làm phát sinh hệ quả pháp lý
vô hiệu hóa đạo luật và điều ước quốc tế đã được Quốc hội phê chuẩn. Tòa án Hiến

Đối tượng của hoạt động này chủ yếu là hành vi vi hiến trong hoạt động hành
pháp và tư pháp, được thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động. Vi
hiến dưới dạng hành động ở đây có thể là văn bản áp dụng pháp luật hoặc quyết
định, bản án. Còn vi hiến dưới dạng không hành động là việc cơ quan, cá nhân có
thẩm quyền phải ban hành văn bản hoặc quyết định nhưng không kịp thời ban hành
trong một thời gian nhất định. Đối với hành vi không hành động, Tòa án Hiến pháp
xem xét và phán quyết về tính hợp hiến khi có đề nghị của những chủ thể nhất
định, có thể là: Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, đại biểu
Quốc hội,… Còn đối với hành vi ban hành các văn bản áp dụng pháp luật hoặc
quyết định, bản án vi phạm các quyền con người, quyền và tự do cơ bản của công
dân thì công dân có quyền khiếu kiện ra Tòa án Hiến pháp. Ở Việt Nam chỉ nên


22

giới hạn đối tượng bảo vệ của Tòa án Hiến pháp là các quyền con người, quyền và
tự do cơ bản về chính trị. Còn những quyền tự do cơ bản về kinh tế, dân sự sẽ do hệ
thống án tư pháp bảo vệ. Cần phải quy định đối tượng, phạm vi, điều kiện, trình tự,
thủ tục khởi kiện một cách chi tiết, cụ thể để phân biệt khiếu kiện vi hiến với các
loại khiếu kiện khác.
Thứ tư là Giải quyết tranh chấp về địa giới đơn vị hành chính giữa các tỉnh.
Hiện nay, ở nước ta có hành chục vụ tranh chấp về địa giới hành chính giữa các
tỉnh, có nhiều vụ tranh chấp kéo dài nhiều năm, giải quyết nhiều lần không dứt
điểm, nhất là những nơi có khả năng phát triển du lịch, suối nước khoáng, phát
triển bến cảng v.v. Ví dụ, tranh chấp giữa tỉnh Bình Thuận và tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu đã được Bộ Nội vụ xem xét, giải quyết, nhưng thẩm quyền của Bộ Nội vụ giải
quyết vấn đề này dường như không phù hợp. Vì vậy, UBND hai tỉnh này không
"tâm phục, khẩu phục" quyết định giải quyết của Bộ Nội vụ. Thẩm quyền sáp nhập,
chia tách, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính cấp tỉnh theo quy định Điều 84
Hiến pháp 1992 thuộc Quốc hội quyết định, nhưng khi các tỉnh có tranh chấp, Quốc


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status