Dạy học hát dân ca tày, nùng trong hoạt động ngoại khóa tại trường THCS phúc xuân, TP thái nguyên - Pdf 51

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG

VI THỊ NGỌC ÁNH

DẠY HỌC HÁT DÂN CA TÀY, NÙNG TRONG HOẠT ĐỘNG
NGOẠI KHÓA TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC
CƠ SỞ PHÚC XUÂN, THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC ÂM NHẠC
Khóa 7 (2016-2018)

Hà Nội, 2018


DANH
MỤC
CHỮ
TẮT
BỘ GIÁO
DỤC
VÀ VIẾT
ĐÀO TẠO
TRƯỜNG
SƯbộ
PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG
CLB ĐẠI :HỌC
Câu lạc
CNTT


TÀY,
TW

TP NGOẠI
: Thành
phốTẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC
KHÓA
: Trung
ương
CƠ SỞ
PHÚC
XUÂN, THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học Âm nhạc
Mã số: 8140111

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS Trịnh Hoài Thu

Hà Nội, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất
kì công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 25 tháng 07 năm 2018
Tác giả luận văn


Phó giáo sư

THCS

Trung học cơ sở

TP

Thành phố

TW

Trung ương

UNESCO

Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ........................................... 8
1.1. Cơ sở lý luận ....................................................................... 8
1.1.1. Giải thích các khái niệm .................................................... 8
1.1.2. Đặc điểm âm nhạc của dân ca Tày, Nùng .......................... 17
1.1.3. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh bậc Trung học cơ sở .... 27
1.1.4. Chủ trương của Đảng, Nhà nước trong việc bảo tồn và
giáo dục dân ca trong trường Trung học cơ sở .......................... 30
1.1.5. Ý nghĩa của việc đưa các làn điệu dân ca vào chương trình ngoại
khóa ở trường học ......................................................................................... 34

1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đất nước Việt Nam với bề dày lịch sử đã hình thành nên một nền
văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Mỗi một dân tộc, mỗi một vùng miền lại
mang một màu sắc, bản sắc văn hóa riêng không thể trộn lẫn. Bản sắc ấy
không chỉ được tạo nên bởi tiếng nói, bởi trang phục, bởi nếp văn hóa sinh
hoạt, mà còn được tạo nên bởi âm nhạc trong đó có các làn điệu dân ca.
Âm nhạc dân gian nói chung, dân ca nói riêng là tinh hoa văn hóa đặc sắc,
là linh hồn của dân tộc. Dân ca là nhịp cầu thời gian để ta trở về với cội
nguồn của ông cha, dân tộc. Dân ca luôn có sức sống bền chặt trong lòng
mỗi người dân Việt Nam, cho dù phải trải qua bao biến cố thăng trầm của
lịch sử.
Đất nước ta có nhiều thay đổi đáng kể sau nhiều năm đổi mới. Kinh
tế đi lên kéo theo sự phát triển của văn hoá, xã hội… Sự phát triển đó đã
đem lại rất nhiều tín hiệu đáng mừng cho sự thay đổi bộ mặt của Đất nước,
song cũng tồn tại nhiều hạn chế kéo theo từ nền kinh tế thị trường. Tình
trạng xuống cấp về mặt đạo đức ở một số bộ phận thanh, thiếu niên đang là
vấn đề bức xúc của toàn xã hội. Bên cạnh đó hầu hết con trẻ hiện nay gần
như quên hẳn các trò chơi dân gian, các làn điệu dân ca vốn rất phong
phú và đa dạng mà ông cha ta đã để lại từ bao đời, bởi lẽ, các em được
tiếp xúc nhiều với các luồng văn hóa ngoại lai. Thực tế cho thấy, đa phần
lớp trẻ ngày nay thích nghe và thích hát những bài hát trẻ trung, sôi
động, nhạc ngoại... hơn là thưởng thức những làn điệu dân ca, thậm chí
không mấy mặn mà với các bài dân ca, và còn có quan niệm rằng: nghe
dân ca là không sành điệu, là lỗi thời…
Điều đó đặt ra một yêu cầu cấp thiết là đưa dân ca đến gần với thanh,
thiếu niên trong đó biện pháp hữu hiệu và phổ biến nhất là đưa dân ca trở
thành một trong những nội dung giáo dục trong nhà trường. Thực hiện

sinh THCS qua các hoạt động ngoại khóa như kiểu các câu lạc bộ, đội văn
nghệ thì vẫn còn thiếu nên tôi mạnh dạn đi vào nghiên cứu khía cạnh này.


3

Từ những lý do và niềm trăn trở đó, cá nhân tôi đi vào nghiên cứu
một đề tài không còn mới song hết sức lý thú và thiết thực với nhà trường
THCS, đề tài Dạy học hát dân ca Tày, Nùng trong hoạt động ngoại khóa
tại trường THCS Phúc Xuân, TP Thái Nguyên.
2. Lịch sử nghiên cứu
Nghiên cứu về dân ca nói chung hay nhiệm vụ gìn giữ dân ca trong
đời sống hiện đại ngày nay là đề tài được rất nhiều các nhà khoa học nghiên
cứu. Có thể kể đến một số các công trình nghiên cứu sau:
- Dự án Âm nhạc học đường được tổ chức UNESCO tài trợ do Giáo
sư Trần Văn Khê triển khai đã đem lại những dấu hiệu đáng mừng cho việc
bảo tồn dân ca Việt Nam. Đây chính là nguồn tư liệu quí giá để thực hiện
luận văn này.
- Đề án Thực hiện đưa dân ca vào trường học giai đoạn 2008- 2015 của
Trung tâm Bảo tồn và phát huy di sản Dân ca xứ Nghệ cũng đem lại nhiều tài
liệu cũng như kinh nghiệm quí báu cho việc nghiên cứu đề tài này.
- Đề án Hỗ trợ đưa dân ca vào trường THCS của tập thể các thầy cô
trường ĐHSP Nghệ Thuật TW, năm 2012 bao gồm các cuốn sách như
Tuyển tập dân ca, Giới thiệu dân ca Việt Nam, Tài liệu hướng dẫn hỗ trợ
đưa dân ca vào trường trung học cơ sở, 1 bộ đĩa CD gồm 54 bài dân ca, 1
bộ đĩa hình DVD gồm 14 bài trong tuyển tập và 12 bài dân ca gồm các bài
trong chương trình SGK âm nhạc THCS và một số bài bổ sung khác. Các
cuốn sách, đĩa nhạc này là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích, hỗ trợ cho
luận văn này. Đề án này được coi là nguồn tham khảo quí để tiến hành đề
tài này.

âm nhạc nghiên cứu về đề tài này như:
- Đưa một số làn điệu dân ca Nghệ Tĩnh tiêu biểu vào chương trình
ngoại khoá tại trường THCS Trường Thi- TP Vinh - Nghệ An của Nguyễn
Ngọc Thương Thương, Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật TW.


5

- Nghiên cứu một số biện pháp dạy và học hát dân ca cho học sinh
trường THCS Tây Sơn - Hà Nội của Trần Thị Sa, Trường Đại học Sư phạm
Nghệ thuật TW.
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu sâu vào việc dạy và học
hát các làn điệu dân ca Tày, Nùng vùng Việt Bắc cho học sinh THCS trong
hoạt động ngoại khoá tại trường THCS Phúc Xuân TP Thái Nguyên. Nên
người viết muốn có một đề tài nghiên cứu của riêng mình nhằm đem lại lợi
ích khoa học và lợi ích thực tiễn cao nhất cho công tác giáo dục của nhà
trường. Các công trình nghiên cứu trước đây chính là nền tảng, là tài liệu
quí giá giúp người viết rất nhiều trong quá trình thực hiện đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng nội dung dạy học hát dân ca Tày, Nùng vào hoạt động
ngoại khóa cho học sinh trường THCS Phúc Xuân. Qua đó giúp học sinh
phát triển tốt kĩ năng hát và biểu diễn các làn điệu dân ca Tày, Nùng, nhất
là các làn điệu hát ru, hát Then, hát Lượn. Đồng thời giáo dục ý thức trân
trọng, giữ gìn, bảo tồn các làn điệu dân ca quê hương từ đó có ý thức kế
thừa và phát huy các giá trị bản sắc văn hóa dân tộc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu các tài liệu liên quan đến dân ca Tày, Nùng và cách dạy
hát dân ca, khảo sát chương trình âm nhạc của bậc THCS.
- Đánh giá đúng thực trạng kĩ năng hát và biểu diễn các làn điệu dân ca

- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: thực hiện các kế hoạch dạy
học đã được xây dựng từ các cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn nhằm cải tiến
chất lượng dạy và học hát dân ca tại nhà trường, từ đó xác định được kết
quả và phương hướng thực hiện tiếp theo.


7

6. Những đóng góp của đề tài
- Là công trình khoa học đầu tiên có tính lí luận nghiên cứu về việc
dạy hát dân ca Tày, Nùng trong các hoạt động âm nhạc ngoại khóa cho học
sinh ở trường THCS Phúc Xuân.
- Luận văn này có ý nghĩa góp phần vào nâng cao chất lượng dạy
học trong trường THCS, góp phần giáo dục dân ca Tày, Nùng vùng Việt
Bắc cho học sinh nhà trường, là tài liệu tham khảo đối với việc tổ chức các
hoạt động ngoại khóa tại trường THCS Phúc Xuân TP Thái Nguyên.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận
văn gồm có 02 chương.
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chương 2: BIỆN PHÁP DẠY HỌC HÁT DÂN CA TÀY, NÙNG VÙNG
VIỆT BẮC CHO HỌC SINH THCS TRONG HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHOÁ


8

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
Trong nội dung của mục sơ sở lý luận, người viết xin được đưa ra hệ

Để phục vụ tốt nhất cho các nội dung trong luận văn này, tôi xin
mạnh dạn đưa ra một khái niệm về dân ca như sau: Dân ca là những khúc
hát do nhân dân sáng tạo ra trong đời sống sinh hoạt và quá trình lao động
sản xuất, được lưu truyền từ đời này sang đời khác bằng phương thức
truyền miệng. Các làn điệu dân ca không có tên tác giả cụ thể và là bức
tranh tái hiện lại đời sống một cách sinh động nhất.
Việt Bắc bao gồm 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái
Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang. Đây là vùng miền núi và dân tộc thiểu
số còn gặp nhiều khó khăn cả về điều kiện tự nhiên và xã hội. Địa hình
hiểm trở, nhiều đồi núi, dốc đá quanh co là những hạn chế gây khó khăn
cho việc phát triển kinh tế xã hội của vùng. Mật độ dân cư thưa thớt, không
tập trung, thường sống xa trung tâm, tiếng nói, tập quán không giống nhau
cũng gây khó khăn cho việc phát triển đồng bộ kinh tế xã hội đặc biệt là
việc bảo tồn văn hóa. Đời sống vật chất và tinh thần còn thấp kém, nguy cơ
tụt hậu và mất dần bản sắc văn hóa ở một số dân tộc là hết sức lo ngại.
Từng được coi là Thủ đô gió ngàn khi là trung tâm chỉ huy của cách mạng
Việt Nam trong những năm tháng kháng chiến ác liệt. Chiến trường Việt
Bắc xưa kia đã lùi xa vào những trang sử hào hùng song những giai điệu tự
hào của một vùng đất anh hùng kiên cường bất khuất thì còn sống mãi
trong trái tim những người dân Việt Nam. Việt Bắc là vùng cư trú của một
số dân tộc ít người khác như Dao, H’mông, Lô Lô, Sán Chay, Sán Dìu, Cao
Lan, Hà Nhì, Mường, Dáy, Lự, Bố Y... [22; 2]. Tuy nhiên cư dân chủ yếu
của vùng Việt Bắc là người Tày, người Nùng.
Người Tày là dân tộc có số dân đứng thứ hai ở nước ta (chỉ sau dân
tộc Kinh) thuộc nhóm ngôn ngữ Tày- Thái. Người Tày cư trú tập trung
thành bản, thường ở ven các thung lũng, triền núi thấp trên một miền


10


11

hát ví, giao duyên của nam thanh nữ tú vùng Việt Bắc. Theo nhà nghiên
cứu Vi Hồng trong cuốn Sli, lượn dân ca trữ tình Tày - Nùng thì: “Sli có
nghĩa là thơ. Người Nùng dùng từ sli để chỉ toàn bộ dân ca mang tính trữ
tình của họ cũng như người Tày dùng từ lượn để chỉ hầu như toàn bộ dân
ca của mình” [18; 29]. Giống như dân tộc Tày, Người Nùng cũng sử
dụng Tính tẩu. Ngoài ra, người Nùng còn có đàn 4 dây, đàn kéo, và một
số loại trống như trống cao, trống dẹt... trong việc đệm hát và diễn tấu
âm nhạc [11].
Dân ca Tày, Nùng là những khúc hát do quần chúng nhân dân đồng
bào Tày, Nùng sáng tạo ra trong đời sống sinh hoạt tình cảm và quá trình
lao động sản xuất. Các làn điệu này thể hiện những tâm tư tình cảm cũng
như những ước muốn về một cuộc sống yên bình ấm no của người dân Tày,
Nùng. Mỗi một dân tộc lại mang màu sắc, bản sắc riêng không thể trộn lẫn
về nếp sống, sinh hoạt về tiếng nói, trang phục và cả âm nhạc, trong đó có
dân ca. Song vì cư trú trên cùng một địa bàn nên các dân tộc ấy cũng có sự
giao thoa đáng kể về đời sống và văn hoá nên dân ca Tày và dân ca Nùng
cũng có nhiều điểm tương đồng mà vẫn vô cùng độc đáo tạo nên màu sắc
phong phú đa dạng cho dân ca của toàn vùng. Trong luận văn này tôi xin
phép chọn lọc các làn điệu Hát Then, hát Lượn, hát Ru của người Tày,
Nùng vùng Việt Bắc tương đối phổ biến, quen thuộc và phù hợp với đặc
điểm của học sinh THCS để giới thiệu và luyện tập cho các em.
1.1.1.2. Dạy học hát dân ca
Dạy học là một khái niệm được rất nhiều các nhà khoa học trên thế
giới nghiên cứu và liên tục bổ sung, chỉnh sửa sao cho đúng đắn nhất với
từng giai đoạn, thời kì. Theo quan niệm của người Việt thì trồng người tức
là dạy người. Người thầy được coi là nhân tố đóng vai trò quan trọng, quyết
định như trong câu tục ngữ: “Không thầy đố mày làm nên” hay “Một chữ
là thầy, nửa chữ cũng là thầy”. Việt Nam đang bước vào thời kì “Công

cách thụ động mà vai trò chủ động tích cực, sáng tạo được đẩy mạnh. Thực
hiện theo chiến lược chung của toàn ngành giáo dục, bộ môn Âm nhạc


13

cũng có nhiều đổi mới sao cho phù hợp và đạt kết quả tích cực nhất. Khái
niệm dạy học hát từ đó cũng thay đổi. Dạy học hát không còn là hoạt động
của riêng người dạy mà bao gồm cả hoạt động dạy và hoạt động học.
Người dạy là chủ thể của hoạt động dạy. Người học là chủ thể của hoạt
động học. Hai hoạt động này có mối quan hệ chặt chẽ mật thiết với nhau.
Khác với dạy học hát nói chung là dạy bao gồm cả các làn điệu dân ca và
các ca khúc thì dạy học hát dân ca chỉ lựa chọn các bài dân ca để thực hiện
hoạt động dạy và học. Giáo viên sử dụng các phương pháp dạy học, kết
hợp phương tiện dạy học và tổ chức các hình thức dạy học khác nhau nhằm
hướng dẫn cho học sinh cách tiếp cận các bài dân ca. Từ đó, hình thành cho
học sinh các kiến thức, kĩ năng, thái độ và năng lực về các làn điệu dân ca
cũng như xây dựng ý thức yêu quý, trân trọng, giữ gìn và phát triển các làn
điệu dân ca các vùng miền. Tương tự như khái niệm dạy học, dạy học hát
cũng được nêu thành khái niệm như sau: Dạy học hát là quá trình người
dạy có vai trò hướng dẫn cho người học có thể lĩnh hội được kiến thức,
hình thành các kĩ năng, năng lực cần đạt như hát đúng lời ca, giai điệu, thể
hiện tốt tính chất sắc thái của bài hát, vận động sinh động theo nhạc và xây
dựng các ý thức tốt đẹp thông qua bài hát.
Từ ngàn xưa, dân ca được lưu truyền từ đời này sang đời khác bằng
phương thức truyền miệng. Người sau nghe người trước hát, thấy hay và
học hát theo hoặc biến đổi theo sở thích cũng như cảm nhận của mình để
tạo ra một dị bản khác so với nguyên bản. Cứ thế các làn điệu dân ca được
lưu truyền cũng như phát triển ngày một rộng rãi hơn. Xuất phát từ chính
phương thức lưu truyền mà dân ca luôn có một đặc điểm vô cùng độc đáo

Trong những năm gần đây, hoạt động ngoại khoá đã không còn lạ
lẫm mà trở thành một trong những nội dung vô cùng quan trọng, không thể
thiếu trong chương trình giảng dạy của các cấp học. Nội dung, cách thức đa
dạng và phong phú đã khiến cho các hoạt động ngoại khoá gây được nhiều


15

cảm tình đối với các em học sinh và đem lại nhiều kết quả tích cực cho giáo
dục hiện đại.
Hoạt động ngoại khoá là các hoạt động ở nhiều lĩnh vực khác nhau
như: âm nhạc, hội họa, thể dục thể thao, văn hoá, xã hội... được tổ chức
ngoài giờ học các môn văn hoá ở trên lớp. Các hoạt động ngoại khoá được
xây dựng trên cơ sở tự nguyện, tự bản thân học sinh lựa chọn dựa vào sở
trường, ý thích của các em nên tính tự giác của học sinh rất cao. Hơn nữa vì
là tự nguyện nên học sinh không mang tâm lý gò bó, áp lực mà luôn cảm
thấy thoải mái, vui vẻ khiến cho các hoạt động ngoại khoá luôn mang tính
chất nhẹ nhàng đầy sáng tạo. Các hoạt động ngoại khoá luôn được các thầy
cô giáo chuẩn bị kĩ lưỡng về nội dung cũng như tận tình chỉ bảo cách thức
thực hiện, chính vì vậy mà các hoạt động đó luôn đem lại nhiều kết quả tích
cực cho cả học sinh lẫn giáo viên thực hiện. Ngày nay, việc học của các em
học sinh luôn ở mức hết sức căng thẳng. Nhiều học sinh đến trường với áp
lực nặng nề, coi trường học không còn là nơi mà các em muốn tới. Hoạt
động ngoại khoá được triển khai nhằm giúp giảm stress, giải toả áp lực
nặng nề cho các em, tăng động lực để các em thêm yêu lớp yêu trường hơn.
Hoạt động ngoại khoá chính là sân chơi lành mạnh cho học sinh được thoả
sức thể hiện đam mê của bản thân cũng như hỗ trợ đắc lực cho các nội
dung giáo dục ở trên lớp, giúp các em có không gian và thời gian nhằm
thực hành các nội dung lý thuyết đã học trong chương trình chính khoá.
Giữa lí thuyết và thực tế thường có sự khác nhau nhất định. Nếu các em chỉ

Đây cũng là cơ hội để thực hành những gì được học trong trường và nhiều
em còn tỏ ý rất muốn được tham gia những hoạt động này thường xuyên
hơn nữa.
Chúng ta hãy cùng xây dựng cho trẻ một môi trường học tập thật
lành mạnh để giúp trẻ có thể phát huy hết mọi tài năng, năng lực cũng như
những tiềm năng còn đang bị che lấp. Giáo dục toàn diện cho trẻ nhằm hình


17

thành đầy đủ ở trẻ cả “Đức - Trí - Thể - Mỹ” đòi hỏi nhiều đổi mới trong
giáo dục. Hoạt động ngoại khoá cũng chính là một trong những nội dung
cần thực hiện một cách tích cực hơn nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
Nhà trường xây dựng một môi trường học tập lí thú cho trẻ thì trẻ sẽ coi
nhà trường chính là ngôi nhà thứ hai và luôn muốn gắn bó, yêu quí.
1.1.2. Đặc điểm âm nhạc của dân ca Tày, Nùng
Trong đời sống của người dân vùng núi cao phía Bắc, các làn điệu
hát Ru, hát Then, hát Lượn đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu
của người Tày, người Nùng. Trong dân gian còn luôn lưu truyền một câu
nói đề cao vai trò của Lượn, Then trong đời sống như sau:
“Ké quá tàng đẩy thỉnh lượn then
Mừa rườn táng piến pền báo ón”
Dịch nghĩa:
“Già qua đường nghe tiếng lượn then
Về nhà tự biến thành trai trẻ”
Có thể nói đây chính là những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp đa
dạng, phong phú và đặc sắc trong giá trị nghệ thuật. Tìm hiểu về những giá
trị nghệ thuật này đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu khoa học lớn.
Song trong phạm vi luận văn này, chúng tôi xin đưa ra một số những nét
đặc trưng cơ bản và phổ biến nhất về đặc điểm âm nhạc của các làn điệu


19

1.1.2.2. Giai điệu, tiết tấu
Giai điệu trong các làn điệu dân ca Tày, Nùng hết sức mềm mại uyển
chuyển. Giai điệu đó được tạo nên bởi rất nhiều các dấu luyến láy và đặc
biệt là các âm dựa, các âm hoa mỹ tô điểm. Các âm dựa được sử dụng rất
nhiều trong các loại hình dân ca này. Có khi là một âm dựa, có khi lại là 2,
3 hay nhiều âm dựa, luyến láy được sử dụng trong bài. Các âm dựa được
xuất hiện đồng thời cùng các phụ từ, hư từ, các từ đệm có nghĩa và cả
không có nghĩa tạo ra cho giai điệu sự mềm mại uyển chuyển và duyên
dáng hơn rất nhiều.
Ví dụ: 1 âm dựa tạo sự mềm mại, nhẹ nhàng cho nét nhạc trong làn
điệu Lượn nàng ới (dân ca Nùng)
Ví dụ 6:

[PL 4.6; 121]
Ví dụ: âm dựa, luyến láy nhiều nốt tạo ra sự uyển chuyển duyên dáng cho
giai điệu.
Ví dụ 7:

[PL 4.6; 121]



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status