Tổng hợp các bài viết về kế toán - Pdf 55

Các màn "phù phép" trong Báo cáo tài chính
Có nhiều lý do khiến các bản báo cáo tài chính không minh bạch và một trong số đó
là cổ phiếu bị đánh giá quá cao (overvaluation). Giá cổ phiếu cao đồng nghĩa với kỳ
vọng cao của nhà đầu tư về khả năng sinh lợi của công ty, từ đó gây sức ép lên các
nhà lãnh đạo buộc phải tạo ra mức lợi nhuận tương ứng nếu không muốn nhận phản
ứng tiêu cực từ thị trường. Mặt khác, các nhà lãnh đạo cũng nắm giữ một số lượng
lớn cổ phiếu, nên bản thân họ không muốn giá cổ phiếu bị sụt giảm.
Những lý do này khiến các nhà quản lý khó có lựa chọn nào khác hơn là tìm những
thủ thuật phù phép báo cáo tài chính. Tuy nhiên, những thủ thuật này chỉ là biện pháp
đối phó nhằm tạo ra ảo tưởng công ty đang làm ăn phát đạt. Vì thế, một khi nhà đầu tư phát hiện doanh
nghiệp thiếu minh bạch trong cung cấp thông tin, hậu quả sẽ khó lường. Lấy Enron làm ví dụ, chính kỳ
vọng quá lớn của thị trường đã đẩy các nhà lãnh đạo Enron tới hành vi gian lận tài chính. Sau khi bị phanh
phui, giá trị của Enron nhanh chóng bị tụt xuống dưới mức 1 tỷ USD so với giá trị thực khoản 30 tỷ và kết
cục sau cùng là phá sản.
Trong bài viết này, tác giả chỉ đề cập đến những thủ thuật hợp pháp, tuân thủ theo chuẩn mực kế toán, mà
các doanh nghiệp Mỹ thường sủ dụng, song cũng không mấy xa lạ với doanh nghiệp Việt Nam.
Phù phép thông qua các ước tính kế toán
Trong quá trình lập báo cáo tài chính, các công ty thường sử dụng rất nhiều các ước tính kế toán (Accrual
earnings management) có ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận trong kỳ của công ty. Vì không có một tiêu
chuẩn chính xác về giá trị các ước tính này, nên nó được xem là một công cụ đắc lực để phù phép lợi
nhuận. Một số thủ thuật làm tăng mức lợi nhuận thường gặp như giảm mức khấu hao, giảm mức dự phòng,
giảm giá hàng tồn kho, giảm dự phòng nơ khó đói, không ghi nhận chi phí khi tài sản bị giảm giá xuấng
dưới giá trị thuần, vốn hoá các khoản chi phí không đủ điều kiện...
Thủ thuật phù phép lợi nhuận dựa trên các ước tính kế toán thực chất không làm tăng lợi nhuận mà chỉ đơn
thuần chuyển lợi nhuận của kỳ sau sang kỳ hiện tại. Hậu quả tất yếu là lợi nhuận các năm sau sẽ bị giảm.
Để tiếp tục đáp ứng kỳ vọng ngày càng cao của thị trường, báo cáo tài chính các năm tiếp theo cũng phải
được phù phép. Tuy nhiên, càng về sau, mức lợi nhuận cần phù phép càng lớn khiến cho việc sử dụng các
ước tính kế toán trở lên vô hiệu. Đến khi “giấy không thể gói được lửa”, khủng hoảng là điều khó tránh
khỏi.
Phù phép thông qua các giao dịch thực
Ngoài phù phép thông qua các ước tính kế toán, doanh nghiệp còn có thể phù phép lợi nhuận thông qua

năng lực nội tại cũng như điều kiện thị trường Tuy nhiên, trong trường hợp cần tăng lợi nhuận, công ty có
thể quyết định sản xuất vượt mức công suất tối ưu. Điều này cho phép công ty giảm giá thành đơn vị sản
phẩm nhờ tận dụng chi phí cố định. Mặt trái của biện pháp này là máy mó, thiết bị phải làm việc quá mức
ảnh hưởng tiêu cự tới năng suất và độ bền. Ngoài ra, sản phẩm làm ra nhiều, nếu không bán được, sẽ phát
sinh chi phí bảo quản và hàng tồn kho lâu ngày sẽ bị giảm giá trị.
Cả hai biện pháp phù phép báo cáo tài chính (dựa trên các ước tính kế toán hay các giao dịch thực), về bản
chất, chỉ là chuyển lợi nhuận của các năm sau sang năm hiện tại. Điểm khác biệt là ở chỗ: trong khi sử
dụng các ước tính kế toán không làm thay đổi khả năng sinh lời đích thực của doanh nghiệp, thì việc sử
dụng các giao dịch thực để phù phép lợi nhuận sẽ gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng sinh lời
của công ty trong dài hạn. Xét về mặt này, làm tăng lợi nhuận thông qua các ước tính kế toán được ưa
chuộng hơn.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, sử dụng các ước tính kế toán không đủ sức giúp các doanh nghiệp đạt
được mức lợi nhuận kỳ vọng và có thể sẽ gặp trở ngại từ phía kiểm toán viên. Do đó, doanh nghiệp có thể
phải dùng đến các giao dịch thực để tăng lợi nhuận. Kiểm toán viên dù phát hiện các thủ thuật này nhưng
vì nó tuân thủ các chuẩn mực kế toán, nên cũng không thể yêu cầu doanh nghiệp điều chỉnh lại.
Tóm lại, dù áp dụng biện pháp nào, về lâu dài đều không có lợi cho nhà đầu tư cũng như cho chính công
ty. Xét trên phạm vi toàn xã hội, hậu quả còn nặng nề hơn, vì bê bối tài chính của một công ty không chỉ
ảnh hưởng riêng đến công ty đó, mà còn làm xói mòn lòng tin của nhà đầu tư đối với thị trường. Để ngăn
chặc những tác động tiêu cực của “Overvaluation”, các doanh nghiệp cần có ý thức cung cấp thông tin đầy
đủ và minh bạch cho nhà đầu tư. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư cũng cần tỉnh táo để không đẩy mọi việc đi
quá xa vượt tầm kiểm soát. Tuy nhiên, nhiều khi lợi ích ngắn hạn của “Overvaluation” quá hấp dẫn khiến
các doanh nghiệp khó có thể cưỡng lại được. Theo như nhận xét của Giáo sư M.C Jensen, Giám đốc công
ty Tư vấn Quản trị doanh nghiệp Monitor Group: “Overvaluation cũng giống như một loại heroin. Nó
mang cho ta cảm giác lâng lâng lúc ban đầu, nhưng không lâu sau đó sẽ là những nối đau không cùng.
……………………………………………………………….
Bảo toàn kế toán quản trị trong điều kiện không chắc chắn
Trong chỉ đạo và ra quyết định kinh doanh, các nhà quản trị doanh nghiệp
thường xuyên phải đối mặt với các điều kiện và tình huống kinh doanh không
chắc chắn. Đó là khả năng mà giá trị phát sinh thực tế của các yếu tố giá bán,
sản lượng tiêu thụ, chi phí lãi vay…. sẽ chênh lệch đáng kể với dự tính. Để

Giả sử rằng, dữ liệu về tình hình khối lượng tiêu thụ, giá bán và chi phí quảng cáo của mặt hàng này được
thống kê như sau:
Ta thiết lập mối quan hệ giữa sản lượng tiêu thụ với giá bán và chi phí quảng cáo qua phương trình hồi quy
sau:
Y = b0 + b1X1 + b2X2 , trong đó:
+ Y: sản lượng tiêu thụ
+ X1: giá bán sản phẩm
+ X2: chi phí quảng cáo
+ b0: số hạng cố định
+ b1: mức tác động đến lượng tiêu thụ khi giá bán thay đổi một đơn vị
+ b2: mức tác động đến lượng tiêu thụ khi chi phí quảng cáo thay đổi đơn vị
Ta có thể sử dụng công cụ Exel (Lệnh Tool/Data Analysis) để tính toán các giá trị thống kê đặc trưng và
kết quả hồi quy đa biến. Tóm tắt kết quả hồi quy cho bởi Exel như sau:
+ Mức độ tương quan: 0,987
+ Hệ số xác định: 0,974
+ Thông số độ dốc của biến giá cả: -34,56
+ Thông số độ dốc của biến chi phí quảng cáo: 1,31
+ Số hạng cố định: 326,06
Phương trình hồi quy biểu diễn mối quan hệ giữa sản lượng tiêu thụ với giá bán và chi phí quảng cáo:
Y = 326,06 -34,56X1 + 1,31X2
Bây giờ ta tính toán mức sản lượng tiêu thụ và mức tăng giảm lợi nhuận khi giảm giá bán 3.000 đ/sp, tăng
chi phí quảng cáo thêm 900.000 đ. Thay vào phương trình, ta có dự báo về lượng tiêu thụ:
Y = 326,06 – 34,56 x 47 + 1,31 x 4.805 = 4.996 sp
+ Số dư đảm phí tăng : (4.996 x 9.000) – 44.400.000 = 564.000 đ
+ Lợi nhuận tăng : 564.000 – 900.000 = - 336.000 đ (lợi nhuận giảm 336.000 đ)
Như vậy, không nên thực hiện phương án này.
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh, nhà quản trị doanh nghiệp thường xuyên đứng trước những tình
huống, những điều kiện kinh doanh không chắc chắn. Các mô hình ra quyết định trong các bài toán kế toán
quản trị hiện nay thường bỏ qua yếu tố rủi ro này hoặc thường chưa xác lập ảnh hưởng của nó một cách cụ
thể và đáng tin cậy.

thanh toán sẽ thay người mua trả tiền cho người bán. Khi người mua và người bán ở hai nước khác nhau
thì dịch vụ này được gọi là bao thanh toán quốc tế.
Theo Điều 1 Những quy định chung về hoạt động bao thanh toán quốc tế ấn bản tháng 06/2004 của FCI
(General Rules for International Factoring Verion FCI June 2004), hợp đồng bao thanh toán là một hợp
đồng, theo đó nhà cung cấp sẽ chuyển nhượng các khoản phải thu (hay một phần của các khoản phải thu)
cho một đơn vị bao thanh toán, có thể vì hoặc không vì mục đích tài trợ, để thực hiện ít nhất một trong các
chức năng sau đây:
- Kế toán sổ sách các khoản phải thu;
- Thu nợ các khoản phải thu;
- Phòng ngừa rủi ro nợ xấu.
Điều 2 Chương I Công ước UNIDROIT về bao thanh toán quốc tế (UNIDROIT Convention on
International Factoring) còn bổ sung thêm một chức năng nữa của bao thanh toán là tài trợ cho người bán,
bao gồm việc cho vay lẫn việc ứng tiền thanh toán trước.
Theo Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ban hành ngày 06/09/2004 của Thống đốc NHNN, bao thanh
toán là một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua bán các
khoản phải thu phát sinh từ việc mua bán hàng hóa giữa bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong
hợp đồng mua bán.
Bao thanh toán là sự tổng hợp tính chất của các hoạt động tài trợ cho người bán, tài trợ dựa trên hóa đơn,
tài trợ thương mại hay chiết khấu hóa đơn.
Về cơ bản, bao thanh toán là hình thức cho vay ngắn hạn, trong đó người cho vay được đảm bảo bằng cách
nắm giữ quyền được đòi khoản phải thu của người đi vay.
Nói tóm lại, bao thanh toán được hiểu là sự chuyển nhượng nợ của người mua hàng (con nợ) từ người bán
hay cung ứng dịch vụ (chủ nợ cũ) sang đơn vị bao thanh toán (chủ nợ mới). Đơn vị bao thanh toán đảm
bảo việc thu nợ, tránh các rủi ro không trả nợ hoặc không có khả năng trả nợ của người mua. Đơn vị bao
thanh toán có thể trả trước toàn bộ hay một phần các khoản nợ của người mua cùng với một khoản hoa
hồng tài trợ và phí thu nợ. Mọi rủi ro không thu được tiền hàng đều do người tài trợ gánh chịu.
Ngoài ra, nghiệp vụ bao thanh toán còn bao gồm một số dịch vụ như quản lý tài khoản phải thu của khách
hàng, cung cấp các thông tin kinh tế, tiền tệ, tín dụng và thương mại nhằm tăng thu và giữ tốt quan hệ với
khách hàng lâu dài.
Bao thanh toán mang lại lợi ích cho cả doanh nghiệp bán hàng và mua hàng. Cụ thể:

toán xuất khẩu..
3.Nhà xuất khẩu giao hàng cho nhà nhập khẩu.
4.Nhà xuất khẩu giao bộ chứng từ liên quan đến khoản phải thu cho ngân hàng thanh toán xuất khẩu..
5.Ngân hàng thanh toán xuất khẩu. ứng trước cho nhà xuất khẩu.
6.Nhà nhập khẩu thanh toán khoản phải thu cho ngân hàng thanh toán xuất khẩu. khi đến hạn thông qua
đơn vị bao thanh toán nhập khẩu – đối tác của ngân hàng thanh toán xuất khẩu..
7. Ngân hàng thanh toán xuất khẩu. thu phần ứng trước và chuyển phần còn lại cho nhà xuất khẩu.
Từ những vấn đề về bao thanh toán được trình bày ở trên, chúng tôi đi vào trình bày phương pháp hạch
toán.
* Trường hợp bao thanh toán trong nước:
+ Khi hạch toán trường hợp này cần chú ý một số nguyên tắc sau:
- Chi phí liên quan đến việc ký kết hợp đồng bao thanh toán được hạch toán vào chi phí tài chính.
- Phí bao thanh toán trả cho ngân hàng bao thanh toán được hạch toán vào chi phí tài chính.
- Chứng từ liên quan đến việc bán hàng được chuyển giao cho đơn vị bao thanh toán.
- Số tiền người mua thanh toán cho ngân hàng bao thanh toán khi đến hạn. Ngân hàng bao thanh toán thanh
toán phần còn lại cho doanh nghiệp.
- Số tiền mà ngân hàng bao thanh toán ứng trước cho doanh nghiệp mang tính chất của một khoản vay.
- Rủi ro liên quan đến việc thu hồi nợ từ người mua do ngân hàng bao thanh toán gánh chịu.
+ Phương pháp hạch toán:
- Phản ánh chi liên giao dịch ký kết hợp đồng bao thanh toán:
Nợ TK635 – Chi phí tài chính
Nợ TK133(1331) - Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ (nếu có)
Có TK111,112…
- Phản ánh chi phí bao thanh toán phải trả cho ngân hàng bao thanh toán:
Nợ TK635 – Chi phí bao thanh toán
Có TK111,112…
- Khi giao hàng cho bên mua:
• Phản ánh giá vốn:
Nợ TK632 – Giá vốn hàng bán
Có TK155,156

Nợ TK511
Có TK333(3333-XK) - Thuế xuất khẩu phải nộp Nhà nước
- Khi ngân hàng bao thanh toán ứng trước một phần số tiền cho doanh nghiệp:
Nợ TK111,112 - Số tiền ngân hàng bao thanh toán ứng trước. (Theo TG GDTT)
Có TK311 – Theo TG GDTT
Đồng thời: Nợ TK007 - Ngoại tệ các loại
- Đến hạn thanh toán, người mua thanh toán tiền hàng cho ngân hàng bao thanh toán. Ngân hàng bao thanh
toán thanh toán phần còn lại cho doanh nghiệp.
Nợ TK111,112 - Số tiền còn lại mà ngân hàng thanh toán (Theo TG GDTT)
Nợ TK311 - Số tiền ngân hàng bao thanh toán đã ứng trước (Theo TG GSKT)
Có TK131 - Số tiền bán chịu người mua (Theo TG GSKT)
(Chênh lệch tỷ giá hối đoái được hạch toán vào chi phí hoạch doanh thu tài chính.)
Đồng thời: Nợ TK007 - Ngoại tệ các loại
Trên đây là một số nội dung bàn về hạch toán nghiệp vụ bán hàng trong trường hợp áp dụng bao thanh
toán chúng tôi muốn chia sẻ cùng bạn đọc.
………………………………………………
Kế toán tại DNNVV: Đối phó và hệ lụy
Tầm quan trọng của công tác kế toán DN mới chỉ được xác định ở nước ta về mặt
lý thuyết. Trên thực tế, công tác kế toán DN đã và đang bị coi thường.
Trước hết, trong các DN, đặc biệt là các DN nhỏ và vừa, công tác kế toán chỉ là
"công cụ để đối phó" với việc kiểm tra, quyết toán thuế. Tình trạng "hai trong
một" - hai hệ thống sổ kế toán xảy ra khá phổ biến, nếu không muốn cho rằng, ở
tất cả các DN nhỏ và vừa.
Hai hệ thống cùng tồn tại
Hệ thống thứ nhất được gọi là "kế toán nội bộ" chỉ có chủ DN được biết. Đó là hệ thống "sổ chợ", không
theo bất kỳ quy định nào của pháp luật. Hệ thống thứ hai được gọi là "kế toán thuế". Hệ thống này, về hình
thức, theo đúng quy định của pháp luật nhưng thông tin, số liệu trong đó hoàn toàn không phản ánh đúng
thực tiễn hoạt động kinh doanh. Trong các DN ngoài quốc doanh, số liệu kế
toán phản ánh tình trạng "lãi thật, lỗ giả". Không ít DN, sau một số năm hoạt động số lỗ cộng dồn lớn hơn
nhiều lần vốn điều lệ nhưng chủ DN vẫn rất nhiều tiền để mua bán bất động sản và mua sắm các tài sản đắt

gây ra những hậu quả âm thầm
nhưng nghiêm trọng. Không ít DN,
sau hai ba năm, khi có thanh tra thuế
mới vội vàng "chạy" để lập lại các
sổ kế toán và báo cáo tài chính.
Nghiêm trọng hơn, có những DN,
mời đơn vị kiểm toán để kiểm toán
báo cáo tài chính nhằm thực hiện
"giấc mơ lên sàn" nhưng đơn vị
kiểm toán đã từ chối vì công tác kế
toán... chưa đạt yêu cầu!
………………………..
Sơ lược sự ra đời của hệ thống kế toán tài chính thế giới và Việt Nam
Kế toán là một công cụ hữu hiệu giúp cho không chỉ các nhà quản lý nắm
được thực trạng tài chính nhằm hoạch định kế hoạch phát triển cho tương lai
của công ty mà còn là mối quan tâm của các nhà đầu tư tài chính, các ngân
hàng, Nhà nước… nhằm phục vụ cho những mục đích của mình.
Hạch toán kế toán gắn liền với sản xuất do đó ngay từ thời kỳ nguyên thuỷ người
ta đã sử dụng hạch toán kế toán đẻ ghi chép theo dõi quá trình sản xuất.
Các bản ghi kế toán đã xuất hiện từ năm 8500 trước công nguyên ở Trung Á, viết
bằng đất sét thể hiện các hàng hoá như bánh mỳ, dê, quần áo... Bản ghi này được
gọi là bullae, một dạng hoá đơn ngày nay. Bullae được gửi cùng với hàng hoá nhằm giúp người nhận kiểm
tra lại chất lượng và giá cả của số hàng mình nhận được. Lúc này vẫn chưa có hệ số đếm khác nhau cho
đến năm 850 trước công nguyên, hệ số đếm Hindus-Arabic ra đời và được sử dụng cho đến ngày nay. Việc
giữ các bản ghi vẫn chưa được hình thức hoá cho tới mãi thế thứ 13, xuất phát từ các giao dịch kinh doanh
và ngân hàng tại Florence, Venice and Genoa. Tuy nhiên, các tài khoản không thực sự thể hiện được bản
chất nghiệp vụ giao dịch và hiếm khi cân đối.
Tuy nhiên phải đến năm 1299 con người mới phát triển hệ thống thông tin tài chính gồm tất cả các yếu tố
cấu thành của hệ thống kế toán kép và vào năm 1494 Luca Pacioli tác giả cuốn Summa hệ thống kế toán
kép mới được miêu tả một cách cụ thể và rõ nét. Sau đó 377 năm Josial Wedwood là người đầu tiên hoàn

"giấc mơ lên sàn" nhưng đơn vị
kiểm toán đã từ chối vì công tác kế
toán... chưa đạt yêu cầu!
địa lý khác nhau nhằm cố vấn cho IASB và đôi khi, cho các ủy thác viên.
* Các thành viên của IFRIC đến từ các khu vực địa lý rộng rãi, có trình độ giao dịch cao, đại diện của các
kế toán viên trong các ngành nghề và người sử dụng các báo cáo tài chính.
* Thêm vào đó, tất cả các thành viên của IASB có trách nhiệm liên hệ với các nhà thiết lập chuẩn mực
quốc gia không có thành viên của IASB trong tổ chức lập quy của họ. Ngoài ra, nhiều quốc gia này cũng
có mặt trong Hội đồng cố vấn chuẩn mực.
* Như vậy, trên thế giới hệ thống tài chính kế toán đã có được sự thống nhất cơ bản để các nước dựa vào
đó xây dựng các chuẩn mực tài chính kế toán của mình.
Tại Việt Nam hệ thống tài chính kế toán đã phát triển qua ba giai đoạn chính
accounting.gifTrước những năm 1990: Đây là giai đoạn mà nền kinh tế của nước ta là nền kinh tế bao cấp,
các thành phần kinh tế chỉ có quốc doanh, tập thể và cá thể mà giữ thành phần chủ đạo là thành phần kinh
tế quốc doanh và không có các hoạt động thương mại buôn bán tự do trên thị trường. Do đặc điểm này mà
hoạt động nghề nghiệp của các kế toán viên chủ yếu tuân thủ theo nội quy, quy định của Bộ Tài chính – cơ
quan cao nhất chịu trách nhiệm quản lý tài sản XHCN.
Từ năm 1991 đến năm 1994: Đất nước ta chuyển đổi nền kinh tế từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN. Sự xuất hiện của nền kinh tế nhiều thành phần đã tác động đến bản chất và
đặc thù của nghề kế toán. Nhiều thuật ngữ trong lĩnh vực kế toán ra đời như khái niệm lãi, lỗ, lợi nhuận…
mà đối với nhiều kế toán viên chỉ quen làm trong nền kinh tế bao cấp là khá trừu tượng và khó hiểu.
Do thực tế khách quan thay đổi nên giai đoạn từ năm 1995 đến nay chính là thời gian mà hệ thống kế toán
tài chính nước ta có những bước phát triển cao nhất và hoàn thiện nhất. Đặc biệt là từ năm 1995 đến nay hệ
thống kế toán toán tài chính nước ta đã hình thành và phát triển lĩnh vực kiểm toán. Sự phát triển vượt bậc
này được đánh dấu bởi sự ra đời của Luật kế toán Việt Nam do quốc hội khoá XI kỳ họp thứ 3 thông qua
cũng như các chuẩn mực về kế toán tài chính riêng của Việt Nam đã được ban hành.
Kế toán tài chính tại Việt Nam không còn phát triển một cách đơn lẻ tự phát nội bộ mà đã có hệ thống và
liên kết với thế giới. Đánh dấu bước phát triển quan trọng này là vào năm 1996 Hội kế toán Việt Nam
(VAA) ra đời và trở thành thành viên của Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) cũng như là thành viên của
Liên đoàn kế toán các nước ASEAN (AFA). Tính đến ngày 31/12/2006 ở Việt Nam đã có 120 công ty

chưa rõ ràng thậm chí còn rất mơ hồ đối với nhiều người, ngay cả với những người làm công tác kế toán.
Bài viết này nhằm giải quyết một trong những thách thức đối với người đọc và người lập báo cáo lưu
chuyển tiền tệ, đó là việc nhận diện các chỉ tiêu và phương pháp lập các chỉ tiêu của báo cáo lưu chuyển
tiền tệ theo quy định của chế độ kế toán áp dụng cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Như chúng ta đều biết, để lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ thì doanh nghiệp có thể lập theo một hoặc cả hai
phương pháp: phương pháp trực tiếp và phương pháp gián tiếp. Tương ứng với mỗi phương pháp có mẫu
báo cáo riêng, nhưng mẫu báo cáo của hai phương pháp chỉ khác nhau ở phần lưu chuyển tiền từ hoạt động
kinh doanh.
Sau đây lần lượt đi vào tìm hiểu báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo từng phương pháp.
- Theo phương pháp trực tiếp: Đặc điểm của phương pháp này là các chỉ tiêu được xác lập theo các dòng
tiền vào hoặc ra liên quan trực tiếp đến các nghiệp vụ chủ yếu, thường xuyên phát sinh trong các loại hoạt
động của doanh nghiệp. Tần số phát sinh và độ lớn của loại nghiệp vụ kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến lưu
chuyển tiền trong kỳ kế toán của doanh nghiệp.
+ Đối với hoạt động kinh doanh thì dòng tiền phát sinh chủ yếu liên quan đến hoạt động bán hàng, cung
cấp dịch vụ và việc thanh toán các khoản nợ phải trả liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Do vậy
các chỉ tiêu thuộc lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh thường bao gồm: tiền thu từ bán hàng, cung cấp
dịch vụ và doanh thu khác, tiền đã trả nợ cho người cung cấp hàng hóa, dịch vụ, tiền trả cho người lao
động, tiền đã nộp thuế….
+ Đối với hoạt động đầu tư thì dòng tiền phát sinh chủ yếu liên quan đến việc mua sắm, thanh lý, nhượng
bán TSCĐ; xây dựng cơ bản, hoạt động cho vay, mua bán các công cụ nợ của đơn vị khác, hoạt động đầu
tư vào các đơn vị khác. Do vậy, các chỉ tiêu thuộc lưu chuyển tiền từ hoạt động đầu tư thường bao gồm:
thu về thanh lý, nhượng bán TSCĐ, thu nợ cho vay, thu hồi các khoản vốn đầu tư vào đơn vị khác, chi mua
sắm TSCĐ, xây dựng cơ bản, chi cho vay, chi đầu tư vào các đơn vị khác.
+ Đối với hoạt động tài chính thì dòng tiền phát sinh chủ yếu liên quan đến các nghiệp vụ nhận vốn, rút
vốn từ các chủ sỡ hữu và các nghiệp vụ đi vay, trả nợ vay. Do vậy các chỉ tiêu thuộc lưu chuyển tiền từ
hoạt động tài chính thường bao gồm: tiền thu do chủ sở hữu góp vốn, tiền chi trả vốn góp cho chủ sở hữu,
tiền vay nhận được, tiền trả nợ vay…
Ngoài ra nếu doanh nghiệp có sử dụng ngoại tệ trong giao dịch thì khoản chênh lệch tỷ giá hối đoái do
đánh giá lại số dư cuối kỳ của tiền và tương tiền bằng ngoại tệ khi lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ cũng là
một chỉ tiêu nằm trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp. Có thể mô tả dòng tiền vào, ra từ các

= (Tiền + Nợ phải thu) - (Tiền + Hàng tồn kho + Chi phí trả trước phân bổ + Nợ phải trả + Khấu hao + Dự
phòng + Chi phí lãi vay).
= Tiền (lưu chuyển) + Nợ phải thu – Hàng tồn kho – Chi phí trả trước phân bổ - Nợ phải trả – Khấu hao –
Dự phòng – Chi phí lãi vay.
® Lưu chuyển tiền = Lợi nhuận trước thuế + Khấu hao + Dự phòng + Chí phí lãi vay + Hàng tồn kho – Nợ
phải thu + Nợ phải trả + Chi phí trả trước phân bổ.
Qua công thức này thấy rằng, lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh nếu được xác định bắt đầu từ lợi
nhuận trước thuế thì các chỉ tiêu điều chỉnh bao gồm: Khấu hao (điều chỉnh tăng), Dự phòng (điều chỉnh
tăng), Chi phí lãi vay (điều chỉnh tăng), con các chỉ tiêu: Hàng tồn kho, Nợ phải thu, Nợ phải trả và Chi phí
trả trước thì việc điều chỉnh tăng, giảm phụ thuộc vào số dư cuối kỳ và số dư đầu kỳ của các tài khoản nằm
trong các chỉ tiêu này:
+ Đối với hàng tồn kho:
° Nếu SDCK SDĐK tức là SDCK – SDĐK > 0: Điều chỉnh giảm (chứng tỏ có một bộphận tiền được
chuyển thành hàng tồn kho).
° Nếu SDCK SDĐK tức là SDCK – SDĐK < 0: Điều chỉnh tăng (chứng tỏ có một bộphận hàng tồn kho
được chuyển thành tiền).
+ Đối với Nợ phải thu:
° Nếu SDCK SDĐK tức là SDCK – SDĐK > 0: Điều chỉnh giảm (chứng tỏ có một bộphận tiền được
chuyển thành nợ phải thu).
° Nếu SDCK SDĐK tức là SDCK – SDĐK < 0: Điều chỉnh tăng (chứng tỏ có một bộphận nợ phải thu
được chuyển thành tiền).
+ Đối với Chi phí trả trước:
° Nếu SDCK SDĐK tức là SDCK – SDĐK > 0: Điều chỉnh giảm (chứng tỏ có một bộ phận tiền được
chuyển thành chi phí trả trước).
° Nếu SDCK SDĐK tức là SDCK – SDĐK < 0: Điều chỉnh tăng (chứng tỏ có một bộ phận chi phí trả
trước đã chuyển hóa thành tiền).
+ Đối với Nợ phải trả:
°Nếu SDCK SDĐK tức là SDCK – SDĐK > 0: Điều chỉnh tăng (chứng tỏ có một bộphận nợ phải trả được
chuyển thành tiền).
° Nếu SDCK SDĐK tức là SDCK – SDĐK < 0: Điều chỉnh giảm (chứng tỏ có một bộphận tiền được dùng

chưa rõ ràng thậm chí còn rất mơ hồ đối với nhiều người, ngay cả với những người làm công tác kế toán.
Bài viết này nhằm giải quyết một trong những thách thức đối với người đọc và người lập báo cáo lưu
chuyển tiền tệ, đó là việc nhận diện các chỉ tiêu và phương pháp lập các chỉ tiêu của báo cáo lưu chuyển
tiền tệ theo quy định của chế độ kế toán áp dụng cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Như chúng ta đều biết, để lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ thì doanh nghiệp có thể lập theo một hoặc cả hai
phương pháp: phương pháp trực tiếp và phương pháp gián tiếp. Tương ứng với mỗi phương pháp có mẫu
báo cáo riêng, nhưng mẫu báo cáo của hai phương pháp chỉ khác nhau ở phần lưu chuyển tiền từ hoạt động
kinh doanh.
Sau đây lần lượt đi vào tìm hiểu báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo từng phương pháp.
- Theo phương pháp trực tiếp: Đặc điểm của phương pháp này là các chỉ tiêu được xác lập theo các dòng
tiền vào hoặc ra liên quan trực tiếp đến các nghiệp vụ chủ yếu, thường xuyên phát sinh trong các loại hoạt
động của doanh nghiệp. Tần số phát sinh và độ lớn của loại nghiệp vụ kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến lưu
chuyển tiền trong kỳ kế toán của doanh nghiệp.
+ Đối với hoạt động kinh doanh thì dòng tiền phát sinh chủ yếu liên quan đến hoạt động bán hàng, cung
cấp dịch vụ và việc thanh toán các khoản nợ phải trả liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Do vậy
các chỉ tiêu thuộc lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh thường bao gồm: tiền thu từ bán hàng, cung cấp
dịch vụ và doanh thu khác, tiền đã trả nợ cho người cung cấp hàng hóa, dịch vụ, tiền trả cho người lao
động, tiền đã nộp thuế….
+ Đối với hoạt động đầu tư thì dòng tiền phát sinh chủ yếu liên quan đến việc mua sắm, thanh lý, nhượng
bán TSCĐ; xây dựng cơ bản, hoạt động cho vay, mua bán các công cụ nợ của đơn vị khác, hoạt động đầu
tư vào các đơn vị khác. Do vậy, các chỉ tiêu thuộc lưu chuyển tiền từ hoạt động đầu tư thường bao gồm:
thu về thanh lý, nhượng bán TSCĐ, thu nợ cho vay, thu hồi các khoản vốn đầu tư vào đơn vị khác, chi mua
sắm TSCĐ, xây dựng cơ bản, chi cho vay, chi đầu tư vào các đơn vị khác.
+ Đối với hoạt động tài chính thì dòng tiền phát sinh chủ yếu liên quan đến các nghiệp vụ nhận vốn, rút
vốn từ các chủ sỡ hữu và các nghiệp vụ đi vay, trả nợ vay. Do vậy các chỉ tiêu thuộc lưu chuyển tiền từ
hoạt động tài chính thường bao gồm: tiền thu do chủ sở hữu góp vốn, tiền chi trả vốn góp cho chủ sở hữu,
tiền vay nhận được, tiền trả nợ vay…
Ngoài ra nếu doanh nghiệp có sử dụng ngoại tệ trong giao dịch thì khoản chênh lệch tỷ giá hối đoái do
đánh giá lại số dư cuối kỳ của tiền và tương tiền bằng ngoại tệ khi lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ cũng là
một chỉ tiêu nằm trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp. Có thể mô tả dòng tiền vào, ra từ các

= (Tiền + Nợ phải thu) - (Tiền + Hàng tồn kho + Chi phí trả trước phân bổ + Nợ phải trả + Khấu hao + Dự
phòng + Chi phí lãi vay).
= Tiền (lưu chuyển) + Nợ phải thu – Hàng tồn kho – Chi phí trả trước phân bổ - Nợ phải trả – Khấu hao –
Dự phòng – Chi phí lãi vay.
® Lưu chuyển tiền = Lợi nhuận trước thuế + Khấu hao + Dự phòng + Chí phí lãi vay + Hàng tồn kho – Nợ
phải thu + Nợ phải trả + Chi phí trả trước phân bổ.
Qua công thức này thấy rằng, lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh nếu được xác định bắt đầu từ lợi
nhuận trước thuế thì các chỉ tiêu điều chỉnh bao gồm: Khấu hao (điều chỉnh tăng), Dự phòng (điều chỉnh
tăng), Chi phí lãi vay (điều chỉnh tăng), con các chỉ tiêu: Hàng tồn kho, Nợ phải thu, Nợ phải trả và Chi phí
trả trước thì việc điều chỉnh tăng, giảm phụ thuộc vào số dư cuối kỳ và số dư đầu kỳ của các tài khoản nằm
trong các chỉ tiêu này:
+ Đối với hàng tồn kho:
° Nếu SDCK SDĐK tức là SDCK – SDĐK > 0: Điều chỉnh giảm (chứng tỏ có một bộphận tiền được
chuyển thành hàng tồn kho).
° Nếu SDCK SDĐK tức là SDCK – SDĐK < 0: Điều chỉnh tăng (chứng tỏ có một bộphận hàng tồn kho
được chuyển thành tiền).
+ Đối với Nợ phải thu:
° Nếu SDCK SDĐK tức là SDCK – SDĐK > 0: Điều chỉnh giảm (chứng tỏ có một bộphận tiền được
chuyển thành nợ phải thu).
° Nếu SDCK SDĐK tức là SDCK – SDĐK < 0: Điều chỉnh tăng (chứng tỏ có một bộphận nợ phải thu
được chuyển thành tiền).
+ Đối với Chi phí trả trước:
° Nếu SDCK SDĐK tức là SDCK – SDĐK > 0: Điều chỉnh giảm (chứng tỏ có một bộ phận tiền được
chuyển thành chi phí trả trước).
° Nếu SDCK SDĐK tức là SDCK – SDĐK < 0: Điều chỉnh tăng (chứng tỏ có một bộ phận chi phí trả
trước đã chuyển hóa thành tiền).
+ Đối với Nợ phải trả:
°Nếu SDCK SDĐK tức là SDCK – SDĐK > 0: Điều chỉnh tăng (chứng tỏ có một bộphận nợ phải trả
được chuyển thành tiền).
° Nếu SDCK SDĐK tức là SDCK – SDĐK < 0: Điều chỉnh giảm (chứng tỏ có một bộphận tiền được dùng

Tại thời điểm xác định trong tương lai, người mua quyền có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền
mua (hay bán) các hàng hoá, ngoại tệ hay chứng khoán. Nếu người mua thực hiện quyền mua (hay bán),
thì người bán quyền buộc phải bán (hay mua).
Các loại quyền chọn
Quyền chọn cho phép được mua gọi là quyền chọn mua (call option), quyền chọn cho phép được bán gọi
là quyền chọn bán (put option).
Quyền chọn mua trao cho người mua (người nắm giữ) quyền, nhưng không phải nghĩa vụ, được mua các
hàng hoá, ngoại tệ hay chứng khoán vào một thời điểm (kiểu Châu Âu) hay trước một thời điểm (kiểu Mỹ)
trong tương lai với một mức giá xác định.
Quyền chọn bán trao cho người mua (người nắm giữ) quyền, nhưng không phải nghĩa vụ, được bán các
hàng hoá, ngoại tệ hay chứng khoán vào một thời điểm (kiểu Châu Âu) hay trước một thời điểm (kiểu Mỹ)
trong tương lai với một mức giá xác định.
Đối với quyền chọn mua sẽ có người mua quyền chọn mua và người bán quyền chọn mua. Đối với quyền
chọn bán, cũng sẽ có người mua quyền chọn bán và người bán quyền chọn bán.
Để có được quyền, người mua quyền (chọn mua hay chọn bán) phải trả một khoản tiền (gọi là giá của
quyền chọn) cho người bán quyền. Mức giá này được thanh toán ngay khi ký kết hợp đồng quyền chọn.
Giá trị nhận được của quyền chọn mua vào lúc đáo hạn
Gọi PT là giá trị thị trường của các hàng hoá, ngoại tệ, chứng khoán vào lúc đáo hạn, PHĐ là giá xác định
tại thời điểm thoả thuận hợp đồng và P là giá trị nhận được của quyền chọn vào lúc đáo hạn.
Mua quyền chọn mua:
Vào lúc đáo hạn, nếu thực hiện quyền, người mua sẽ mua với giá PHĐ. Nếu mua trên thị trường, người
mua sẽ trả với giá PT.
Trường hợp PT > PHĐ. Nếu thực hiện quyền người mua sẽ mua với giá PHĐ, trong khi nếu ra thị trường
thì phải mua với giá PT. Như vậy, nếu PT > PHĐ, người mua quyền chọn mua sẽ thực hiện quyền và nhận
được giá trị P = PT - PHĐ.
Trường hợp PT <= PHĐ. Nếu thực hiện quyền, người mua sẽ mua với giá PHĐ, trong khi hoàn toàn có thể
ra thị trường để mua với giá PT < PHĐ. Như vậy, nếu PT <= PHĐ, người mua quyền chọn mua sẽ không
thực hiện quyền và nhận được giá trị P = 0.
Tóm lại, giá trị nhận được đối với người mua quyền chọn mua vào lúc đáo hạn là:
P = max[(PT – PHĐ);0]


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status