Luận văn Thạc sĩ Khoa học T ỏi Lý Sơn
MỞ ĐẦU
Các nghiên cứu gần đây đã công bố Allicin: Có khả năng chống viêm nhiễm
mạnh, tăng cường hoạt tính của các tế bào trong quá trình thực bào, tăng cường
hoạt tính của các tế bào giết tự nhiên, ức chế sự phát triển của vi sinh vật gây
bệnh, ức chế sự phát triển của những tế bào ung thư [28, 44]. Rất nhiều công bố
và các công ty trên thế giới đã sản xuất Allicin từ việc tạo quá trình xúc tác giữa
Alliin với enzym allinase có sẵn trong tỏi. Bằng việc sử dụng Allicin chiết xuất
từ Alliin có sẵn trong tỏi, các công ty trên thế giới đã sản xuất được rất nhiều
loại thực phẩm chức năng cao cấp với nhiều tác dụng sinh học quí.
Dựa vào những tín hiệu của thụ thể Dectin1, một số hợp chất tách chiết từ
thực vật đã được chứng minh có khả năng điều hòa được đáp ứng viêm và điều
trị hiệu quả chuột bị nhiễm khuẩn nặng và choáng nhiễm trùng. Chẳng hạn, các
chất tách chiết từ nhân sâm Hàn Quốc như Rb1, Rb2, Rc, hợp chất K (CK) đã
được công bố có khả năng điều hòa các tín hiệu viêm như cytokine, quá trình
phosphoryl hóa MAPK (mitogen activated protein kinase), phản ứng oxy hóa
(ROS) thông qua tín hiệu của thụ thể Dectin1. Tuy nhiên, các chất này có nguồn
gốc từ nhân sâm nên rất đắt. Do vậy, việc tìm kiếm các chất có hoạt tính dược
học đối với khả năng chống viêm vẫn đang là vấn đề cấp bách để có thể thay
thế một số thuốc đang sử dụng hiện nay, cũng như góp phần làm giảm bớt tỷ lệ
tử vong và giá thành điều trị của bệnh nhiễm trùng nặng và choáng nhiễm trùng.
Tuy nhiên, kể cả trên thế giới và trong nước chưa có nghiên cứu nào đi sâu
vào đánh giá vai trò của Allicin đối với con đường tín hiệu thụ thể Dectin1 trong
quá trình điều hòa những phản ứng viêm quá mức ở vật chủ. Đặc biệt, Việt Nam
là một quốc gia có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng và ẩm, lượng dân số vào loại
cao nhất thế giới nên khả năng mắc các bệnh nhiễm trùng nặng và choáng nhiễm
trùng do viêm (inflammation) là rất cao. Cho đến nay, thì nhiễm trùng nặng và
choáng nhiễm trùng vẫn là một trong các nguyên nhân chính của những ca tử
Lớp cao học K20 1 Khóa 2011 2013
Đánh giá được hiệu quả của Allicin trong quá trình điều trị chuột bị nhiễm
trùng nặng và choáng nhiễm trùng
Lớp cao học K20 3 Khóa 2011 2013
Luận văn Thạc sĩ Khoa học T ỏi Lý Sơn
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG MIỄN DỊCH ĐỐI VỚI BẢO VỆ CƠ THỂ
Miễn dịch bẩm sinh và miễn dịch đáp ứng là hai loại đáp ứng miễn dịch bảo
vệ quan trọng đối với các động vật có xương sống. Miễn dịch đáp ứng bẩm sinh
có vai trò như hàng rào bảo vệ đầu tiên nhưng lại không có khả năng nhận dạng
lập lại các mầm bệnh và trợ giúp đáp ứng miễn dịch đặc hiệu. Miễn dịch đáp
ứng nhận dạng mầm bệnh dựa vào chọn lọc một vùng cụ thể nhờ vô số các tế
bào lymphocyte mang rất nhiều thụ thể đặc hiệu kháng nguyên mà cho phép hệ
thống miễn dịch có thể nhận dạng bất kỳ kháng nguyên bên ngoài xâm nhập vào
cơ thể. Hệ thống miễn dịch bẩm sinh sử dụng vô số các thụ thể để nhận dạng
và đáp ứng tới những mầm bệnh trong giai đoạn ban đầu của cơ thể. Quá trình
nhận dạng mầm bệnh của các thụ thể có một vai trò vô cùng quan trọng trong
quá trình truyền tín hiệu tới những đáp ứng viêm, sản xuất những tế bào hiệu
quả mới tham gia vào quá trình viêm cục bộ và bắt đầu những đáp ứng của quá
trình miễn dịch đáp ứng. Vô số các thụ thể nhận dạng mầm bệnh mẫu (PRR)
bao gồm thụ thể Tolllike (TLR), lectin, Dectin1 và các thụ thể scavenger quyết
định tới khả năng sống xót của vật chủ bằng quá trình nhận dạng những mẫu
phân tử ở trên mầm bệnh như vi khuẩn, virut, nấm có cấu trúc giống như trên
các thụ thể riêng biệt được gọi là PAMP (pathogenic associated molecules
pattern). Quá trình nhận dạng mầm bệnh bằng quá trình thực bào kích thích thực
Lớp cao học K20 4 Khóa 2011 2013
Lớp cao học K20 5 Khóa 2011 2013
Luận văn Thạc sĩ Khoa học T ỏi Lý Sơn
miễn dịch [7]. Thời kỳ đầu sẽ biểu hiện những đáp ứng viêm ồ ạt tới quá trình
nhiễm trùng. Hầu hết, đó là các cytokine tiền viêm như TNF, interleukine (IL)1,
IL6, IL12, và interferon gamma (IFN gamma). Sau đó, cơ thể sẽ điều hòa những
đáp ứng này bằng sản xuất những cytokine kháng viêm (IL10), các chất ức chế
của thụ thể TNF, thụ thể IL1 loại II, và IL1RA (một dạng bất hoạt của IL1)
[12]. Các lớp đáp ứng viêm hệ thống của vật chủ được bắt đầu bằng một số sản
phẩm vi khuẩn. Những sản phẩm vi khuẩn (vi khuẩn gram âm bao gồm nội độc
tố: lipopolysaccharide (LPS), formyl peptides, ngoại độc tố và proteases; các vi
khuẩn gram dương như ngoại độc tố, các siêu kháng nguyên, ngoại độc tố A của
streptococcal pyrogenic (SpeA), peptidoglycan, axít lipotechoic) và một số chất
của vỏ tế bào nấm (zymosan được phân tách từ Saccharomyces cerevisiae) liên
kết các thụ thể trên macrophage của vật chủ và kích hoạt những protein điều hòa
(yếu tố nhân Kappa B (NFқB)) [12]. Chẳng hạn, thụ thể Toll like 4 (TLR4) nhận
dạng LPS, còn thụ thể Dectin1 nhận dạng đối với zymosan [8,15]. Sau đó, các
thụ thể chuyển tín hiệu vào tế bào. Hiệu quả tích lũy của những lớp viêm hệ
thống này dẫn tới trạng thái mất cân bằng, cùng với quá trình viêm chiếm ưu thế
hơn quá trình kháng viêm và quá trình đông tụ chiếm ưu thế hơn quá trình phân
giải tơ huyết (fibrin). Quá trình nghẽn mạch, thiếu máu cục bộ, các mô bị tổn
thương sẽ là hậu quả tiếp sau dẫn tới nhiễm trùng nặng và choáng nhiễm trùng,
mất chức năng của đa cơ quan và tử vong [25, 21].
Lớp cao học K20 6 Khóa 2011 2013
Luận văn Thạc sĩ Khoa học T ỏi Lý Sơn
nhóm thụ thể PRR có các phối tử đặc hiệu của chính mình để có thể nhận
dạng một loại vi sinh vật nhất định [19]. Các thụ thể này có thể nhận dạng mầm
bệnh một cách trực tiếp (không thông qua opsonin) hoặc gián tiếp (thông qua
oposonin) [19]. Đối với In vivo, nhiều thụ thể có thể tham gia để nhận dạng vi
khuẩn thông qua đa phản ứng ở đa vị trí. Các phần có nguồn gốc từ nấm hay
mấm lớn được nhận bằng PRR giống như thụ thể TLR, thụ thể mannose, bổ thể
3 (CR3), và dectin1 [20]. Quá trình nhận dạng mầm bệnh của PRR kích thích quá
trình sản xuất cytokine và chemokine dẫn tới quá trình hoạt động và sinh ra các tế
bào khác tham gia tới vị trí đang trong quá trình bị viêm nhiễm. Từ đây, dẫn tới
những phản ứng của miễn dịch đáp ứng [12].
Lớp cao học K20 8 Khóa 2011 2013
Luận văn Thạc sĩ Khoa học T ỏi Lý Sơn
Hình 2: Các thụ thể RRP đối với nấm có thể nhận dạng ra phần cacbon.
Thụ thể Mannose nhận dạng thành phần mannan; TLR2 và TLR6, CR3,
dectin1 nhận dạng β glucans.
1.4.1.3. Thụ thể Toll like (TLR)
Thụ thể Toll like (TLR) là một protein màng mà nhận dạng ra các phân tử có
sẵn ở trên mầm bệnh (PAMP) [20]. Trong động vật có vú, họ thụ thể TLR bao
gồm ít nhất 10 loại khác nhau. Chúng có một vai trò cơ bản tới nhận dạng các
phối tử có nguồn gốc từ mầm bệnh [20]. TLR2 có thể nhận dạng lipoproteins
các gốc đường có gắn lipid(lipoarabinomannan) từ thành tế bào của vi khuẩn
và nấm [13]. TLR4 nhận dạng lipopolysaccharide (LPS) từ thành tế bào của vi
khuẩn gram âm [15,35,37]. TLR9 có thể nhận dạng deoxycytidylatephosphate
deoxyguanylate (CpG) có trong deoxyribonucleic acid (DNA) của vi khuẩn [13].
Một vi sinh vật có thể được nhận bởi rất nhiều TLR. Thực tế, tổ hợp của TLR
có thể tham gia vào các đáp ứng viêm do macrophage hoặc tế bào dendritic
Nito hóa (RNS) kích thích tăng cường khả năng thực bào của cơ thể [43]. Ngoài
ra, nhiều kết quả nghiên cứu khoa học đã công bố vai trò của Dectin1 trong quá
trình sản xuất cytokine tiền viêm để ức chế sự phát triển của Mycobacterium
tuberculosis [36].
Lớp cao học K20 10 Khóa 2011
2013
Luận văn Thạc sĩ Khoa học T ỏi Lý Sơn
Hơn nữa, dựa vào những tín hiệu của thụ thể Dectin1, một số hợp chất tách
chiết từ thực vật đã được chứng minh có khả năng điều hòa được đáp ứng viêm
và điều trị hiệu quả chuột bị nhiễm trùng nặng và choáng nhiễm trùng. Chẳng
hạn, các chất tách chiết từ nhân sâm Hàn Quốc như Rb1, Rb2, Rc, hợp chất K
(CK) đã được công bố có khả năng điều hòa các tín hiệu viêm như cytokine, quá
trình phospho hóa yếu tố tự phân bào (MAPK (mitogen activated protein kinase)),
phản ứng oxy hóa (ROS) thông qua tín hiệu của thụ thể Dectin1 [24].
1.4.1.5. Thụ thể Dectin1 hoạt động cùng với TLR2 để nhận dạng các phối
tử có nguồn gốc từ vi sinh vật
Zymosan là một hợp chất mà lượng βglucan trong thành tế bào của
Saccharomyces cerevisiae chiếm phần chính [8,16]. Thành phần của zymosan có
β glucan, mannan, và chitin. Thành phần này được nhận dạng bằng một số thụ
thể chẳng hạn như TLR2, TLR6, Dectin1, thụ thể mannose, và CR3 [16, 45].
Chất này đã được chứng minh là kích thích quá trình đại thực bào và quá trình
viêm cả ở in vivo và in vitro [16].
Dectin1 hoạt động cùng với một số TLR để nhận dạng ra nấm [16]. Thụ
thể này cùng với TLR2, Dectin1 nhận dạng ra zymosan hoặc nấm Candida
albicans truyền tín hiệu điều hòa hoạt động của yếu tố nhân kích hoạt tế bào
T (NFAT) và quá trình sản xuất interleukin (IL)2, IL10, và IL12 p70 trong
tế bào dendritic [16,29]. Dectin1 cũng tham gia vào quá trình thực bào, hoạt
động của yếu tố tự phân bào (ERK)1/2 (extracellular signalregulated kinase), và
biệt là quá trình phiên mã của các gen sinh cytokine [11]. Hơn nữa,
glucocorticoid có thể ức chế quá trình sản xuất các cytokine tiền viêm như
TNFα, IL6, IL1, và làm giảm quá trình tiết gốc nito và quá trình hoạt hóa các
yếu tố mô trong tế bào macrophage [23,39,40]. Do vậy, glucocorticoid đã được
sử dụng trong điều trị một số bệnh viêm nhiễm và các bệnh mẫn cảm miễn
dịch. Hơn nữa, chúng có tiềm năng vô cùng to lớn trong hoạt động kháng
viêm và giảm quá trình miễn dịch không có lợi cho cơ thể [9,17,22].
Nhìn chung, quá trình viêm hệ thống mất kiểm soát được xem như là các
đặc trưng của nhiễm trùng, của triệu chứng viêm cấp tính đường hô hấp. Một
chất được biết đó Hydrocortisone, là một glucocorticoid, có thể làm giảm đi
đáng kể mức plasma của protein C, phospholipase A2, và loại bỏ bớt các tế bào
neutrophil trong các bệnh nhân bị nhiễm trùng nặng và choáng nhiễm trùng
[23,41]. Những nghiên cứu gần đây cũng chỉ ra chất này có thể điều hòa hầu hết
các cytokine tiền viêm [11], bao gồm ức chế các cytokine có vai trò quan trọng
trong miễn dịch bẩm sinh và nhiễm trùng [23]. Hiệu quả của glucocorticoid đã
được chứng minh trong các bệnh nhiễm trùng nặng như nhiễm vi khuẩn
meningitis, pneumocystis pneumonia, typhoid fever, và những trường hợp nhiễm
H5N1 [11].
1.4.1.7. ROS
ROS (reactive oxygen species) là một đại diện nhỏ của phản ứng oxy hóa,
bao gồm superoxide (O2 ) anion, hydrogen peroxide (H2O2), peroxyl (ROO )
Lớp cao học K20 13 Khóa 2011
2013
Luận văn Thạc sĩ Khoa học T ỏi Lý Sơn
radical, acid (HOCl), ozone (O3) [14]. ROS được tạo ra thông qua một loạt các
phản ứng mà bắt đầu bằng quá trình tạo ra superoxide [14,10]. Quá trình tạo ra
Luận văn Thạc sĩ Khoa học T ỏi Lý Sơn
nitric oxide (NO) vàc các phân tử dính kết tế bào dẫn đến làm tăng qúa trình viêm.
Như vậy , việc kiểm soát sản xuất các chất này có thể làm giảm khả năng viêm.
Macrophage là tế bào có kích thước tương đối lớn và có khả năng đáp ứng nhanh
với các kích thích viêm tạo ra bởi Zymosan. Ngoài ra , các TLR ở macrophage
được biểu hiện mạnh hơn so với các tế bào bạch cầu khác (Hình 4) nên nó
thường được lựa chọn trong các mô hình sàng lọc và nghiên cứu cơ chế kháng
viêm in vitro.
Hình 4: Biểu hiện của các thụ thể ở các tế bào bạch cầu
1.5. Mô hình nghiên cứu viêm thực nghiệm in vivo sử dụng Zymosan
Khả năng kháng viêm của một chất nghiên cứu, đặc biệt là sau bư ớc sàng lọc
in vitro, chỉ được khẳng định khi tiến hành thử nghiệm trên mô hình động vật
thực nghiệm. Đối với chất kháng viêm, các nghiên cứ u thường sử dụng chuột vì
Lớp cao học K20 15 Khóa 2011
2013
Luận văn Thạc sĩ Khoa học T ỏi Lý Sơn
hệ gen chuột và người có mức độ tương đồng khá cao (85%) [18]. Ngoài ra, sử
dụng chuột sẽ ít tốn kém và dễ thực hiện hơn so với các động vật thực nghiệm
khác. Các nghiên cứu trước đây thường sử dụng trực tiếp các mô hình gây viêm
thực nghiệm in vivo để sàng lọc và nghiên cứu cơ chế kháng viêm của chất cần
nghiên cứu. Các mô hình này thường là: i) sử dụng carrageenan, một
polysaccharide tách từ tảo đỏ, để gây viêm ở chân chuột (caageenan induced
hind paw edema) trong điều kiện có mặt và vắng mặt của chất cần nghiên cứu và
sau đó so sánh thể tích bàn chân viêm với đối chứng [48, 49]; ii) gây viêm xoang
bụng (peritroneal inflammation ) bằng cách tiêm carrageenan vào bụng chuột
trong điều kiện có mặt và vắng mặt của chất nghiên cứu. Lượng dịch viêm tiết
trong xoang bụng chuột sẽ được thu lại và so sánh với đối chứng về thể tích cũng
sự hình thành PG ở màng nhày dạ dày. Tuy nhiên, salysilate, một chất kháng
viêm thuộc nhóm này cũng có tác dụng ức chế sự sinh tổng hợp của PG nhưng lại
không làm bào mòn màng nhày dạ dày như aspirin. Lý do tại sao lại có sự khác
nhau về cơ chế tác dụng giữa aspirin và salisylate là vấn đề chưa giải thích được
[46].
1.6.1.2. Các chất kháng viêm có bản chất steroid
Steroid là một hợp chất hữu cơ có cấu trúc mang một vòng 4 cycloalkane.
Thuộc về nhóm chất này có các chất corticoid. Chúng tác dụng thông qua ức chế
enzyme phospholipases A2, là enzyme xúc tác cho phản ứng chuyển hóa
phospholipase A2 thành axit arachidonic . Như vậy , cuối cùng thì corticoid cũng
ức chế sự sinh tổng hợp của PG , TX và LT . Các chất kháng viêm có bản chất
steroid ức chế phospholipase A2 một cách gián tiếp thông qua việc giải phóng
các chất ức chế protein có tên gọi là macrocortin, lipomodulin hay renocortin có
khối lượng phân tử đạt khoảng 15, 30 và 40 kDa. Đại diện nhóm chất này là
lipocortin đã được tinh sạch, thương mại và được xem là một trong những chất
kháng viêm mạnh [46]. Các chất có bản chất steroid thường là phối tử của thụ
thể glucocorticoid.
1.6.1.3. Các chất khác
Thuộc về nhóm này có vàng và colchicine. Trong trường hợp của colchichine,
chất này ức chế sự hình thành tinh thể urate trong khớp của bệnh nhân gout
Lớp cao học K20 17 Khóa 2011
2013
Luận văn Thạc sĩ Khoa học T ỏi Lý Sơn
thông qua việc làm giảm sự tiết các chất chemotaxis của bạch cầu đa nhân và
giải phóng enzyme lysosom. Colchicine có tác dụng ức chế đặc hiệu sự giải
phóng một glycoprotein có trọng lượng phân tử 8400 Da. Đây là một chất
chemotaxis của bạch cầu đa nhân đối với các bạch cầu trung tính và monocytes
có khả năng thực bào các thể urate [46].
trên thị trường Việt Nam và quốc tế. Các nghiên cứu về viêm được thực hiện
chủ yếu ở Viện Dược liệu Trung ương, các trường Đại học Dược, trường Đại
học Y Hà Nội và Học viện Quân y 103. Các nghiên cứu ở những cơ sở này mới
chỉ dừng ở mức tạo được mô hình gây viêm thực nghiệm in vivo cổ điển như đã
trình bày ở trên . Cụ thể là các thí nghiệm được thực hiện trên chuột thông qua
sử dụng chất gây viêm carrageenan để tạo mô hình viêm cấp dưới hình thức
gây phù bàn chân chuột và gây viêm màng bụng chuột sau khi tiêm chất gây viêm
này. Việc gây viêm mãn tính sử dụng chất amiant để tạo u hạt trong cơ thể
chuột. Việc đánh giá tác dụng kháng viêm được thực hiện bằng cách đo thể tích
bàn chân, đo thể tích dịch viêm ổ bụng, đo trọng lượng khối u hạt tách ra, đếm
số lượng bạch cầu so với mẫu đối chứng, từ đó đánh giá tác dụng kháng viêm
của các chất nghiên cứu. Ngoài ra, việc đánh giá tác dụng kháng viêm cũng chủ
yếu được thực hiện với các cao chiết thô của thực vật.
Điển hình như các nghiên cứu của Đặng Diễm Hồng và cộng sự với các dịch
chiết rong tảo biển Việt Nam [1]. Nhóm nghiên cứu đã phát hiện thấy dịch chiết
methanol của hai loài tảo biển là Sargassum swartzii và Ulva reticulata thể hiện
hoạt tính kháng viêm cao mà không gây độc với động vật thử nghiệm [1]. Hàng
loạt các nghiên cứu khác trong thời gian gần đây cũng chỉ sử dụng các mô hình
nghiên cứu này để đánh giá tác dụng kháng viêm của các dịch chiết thực vật
nghiên cứu. Ví dụ như Hà Vân Oanh và cộng sự (2010) trên cao lỏng của rễ cây
bạch đồng nữ (Clerodendrum chinense) [4], Đỗ Thị Oanh và cộng sự (2010)
trên cao sói rừng (Sapium sebiferum) [3] hay Nguyễn Thị Bích Hằng (2009) trên
cao lỏng lá vọng cách (Premna corymbosa) [5]... Như vậy có thể nói rằng, mô
hình nghiên cứu viêm và đánh giá tác dụng kháng viêm ở Việt Nam hiện nay là
đơn giản, cổ điển, tốn nhiều thời gian và thiếu tin cậy . Như vậy, chúng ta còn
thiếu các nghiên cứu hiện đại với các mô hình gây viêm đạt chuẩn quốc tế hay
Lớp cao học K20 19 Khóa 2011
2013
Luận văn Thạc sĩ Khoa học T ỏi Lý Sơn
Tỏi được sử dụng phổ biến trong đời sống hàng ngày của con người. Từ lâu
đời con người đã biết sử dụng tỏi để chữa bệnh, nhưng hiểu biết những tác
dụng huyền bí của tỏi thì ít người biết.
Việt Nam ta có nhiều vùng trồng tỏi, nhưng nổi tiếng thơm ngon nhất là
“Vương quốc tỏi huyện đảo Lý Sơn”. Điều làm nên sự khác biệt của tỏi Lý Sơn
là củ của nó không quá to, không quá cay lại có mùi thơm đặc biệt. Mùi thơm
nồng ấy là do người dân Đảo đã dùng cát biển để “lót” khi gieo trồng. Và việc
khai thác cát để trồng tỏi đã tạo điều kiện cho triều cường lấn át đất đai nơi đây.
1.7.1.1. Phân loại thực vật – Đặc điểm sinh thái
1.7.1.1.1. Phân loại thực vật
Tên khoa học: Allium sativum L.
Thuộc họ Hành tỏi Alliaceae.
1.7.1.1.2. Phát sinh tên gọi:[ 33]
Các nhà thực vật học gọi cây tỏi là Allium Sativum [ 33], (URL4, 5, 6). Tiếng
La tinh gọi tỏi là Olere – có nghĩa là “ngửi thấy”, tiếng Hy lạp là Hallestai là
“nhảy vọt ra” để mô tả sự tăng trưởng nhanh chóng các tép tỏi trong một củ.
Một nhà thơ La mã Plaupus (250 – 184 trước CN) dùng thuật ngữ Allium để gọi
cây tỏi, nên người ta cho rằng đó là một từ phát sinh từ chữ Arya cổ áluh hoặc
álukám qua alum mà ra, vì người xưa dùng từ đó với nghĩa là một gia vị. Một
cách giải thích khác Allium là phát sinh từ alare hoặc halare có nghĩa là “thở”,
“thở ra” đều liên quan đến mùi ngửi thấy. Ngoài ra từ Celtic all có nghĩa là “ấm
áp”, “làm nóng, đốt nóng” cũng được coi là nguồn gốc phát sinh của tên gọi cây
tỏi.
1.7.1.1.3. Khái quát chung về họ hành tỏi: [38]
Tỏi, “gia vị của cuộc đời”, là loại độc nhất vô nhị trong vương quốc thảo
mộc có nguồn gốc sâu xa, huyền bí gắn liền với những truyền thuyết xa xưa của
nhiều dân tộc khác nhau trên thế giới. Tỏi cùng y học dân gian hay những tập
thân trên, một cán hoa dài 55cm hay hơn. Bao hoa màu trắng hay hồng bao bởi
nhiều tán, rơi rụng thành mũi nhọn dài. Hoa mọc thành cụm trên đầu một trục
Lớp cao học K20 22 Khóa 2011
2013
Luận văn Thạc sĩ Khoa học T ỏi Lý Sơn
hình trụ từ thân củ kéo dài ra. Cụm hoa là một tán giả hình cầu, màu trắng, đỏ
hoặc xanh nhạt.
Hình 5: Cây tỏi
1.7.2. Allicin và các sản phẩm chứa Allicin
Đối với hàng nghìn năm trước tỏi đã được biết đến có nhiều tiềm năng y học
đặc biệt. Trong lịch sử, tỏi đã được sử dụng để chữa bệnh thương hàn, bệnh
dại. Thực sự, sau khi Cavallito phát hiện ra Allicin – một hoạt chất được hình
thành từ Alliin thành phần quan trọng của tỏi năm 1944 đã có tới 1500 công bố
khoa học và vô số các nghiên cứu khác xung quanh vấn đề dược học của tỏi
(ULR1). Vì vậy, người xưa đã đặt cho tỏi những biệt hiệu: thần dược, thuốc
bách bệnh. Trong những thập niên gần đây, cùng với sự phát triển của 2 loại
bệnh tim mạch và ung thư, các nhà khoa học đặc biệt quan tâm đến tác dụng
chống oxy hóa, chống đột biến tế bào, hạ độ mỡ trong máu và làm giảm nguy cơ
máu đông của một số hoạt chất thiên nhiên. Trong đó, tỏi là một gia vị có hoạt
chất quan trọng tổng hợp nên Allicin chất có khả năng chống oxy hóa mạnh
Lớp cao học K20 23 Khóa 2011
2013
Luận văn Thạc sĩ Khoa học T ỏi Lý Sơn
nhất, có thể ngăn chặn các quá trình trên (ULR2). Tỏi có 3 hoạt chất chính: alliin,
Luận văn Thạc sĩ Khoa học T ỏi Lý Sơn
1.7.3. Sản xuất Allicin từ alliin có trong tỏi
Allinase là enzym có trong tỏi giúp cho quá trình chuyển alliin thành Allicin.
Nhưng lượng Alliin thường có ở trong tỏi khoảng 0,4 đến 0,9% thành phần phụ
thuộc vào điều kiện trồng tỏi. Trên thực tế với phương pháp sử dụng lượng
allinase có trong tỏi để sản xuất Allicin thì cần alliin chiếm khoảng từ 1%15%
[36]. Do vậy, để sản xuất Allicin từ Alliin của tỏi cần bổ sung thêm alliin từ tinh
thể deoxyalliin. Sau đó, lượng alliin này sẽ được tiếp xúc với tỏi đã được nghiền
để quá trình phản ứng giữa alliin và allinase xảy ra dễ dàng cho ra sản phẩm là
Allicin. Với nồng độ alliin, nhiệt độ, pH và thời gian tối ưu để phản ứng xảy ra
triệt để sẽ thu được lượng Acillin nhiều nhất.
Để sản xuất Allicin từ Alliin của tỏi cho mục đích làm thực phẩm chức năng
và một dạng thuốc dùng cho điều trị một số bệnh cũng như các ứng dụng khác
trong dược học các nhóm nghiên cứu mạnh hiện nay ở Mỹ, cộng đồng Châu Âu
đã có patent sử dụng alliin để sản xuất Allicin tự nhiên từ thực vật thuộc họ tỏi
hành. Nguyên nhân chủ yếu là để đảm bảo Allicin sản xuất ra hoàn toàn không
liên quan đến nguyên liệu chuyển gen và tổng hợp bằng con đường hóa học.
Tóm lại, để sản xuất Allicin có khả năng kích thích miễn dịch từ tỏi, các tác
giả thường dùng phối hợp alliin với allinase để sản xuất Allicin và một số dung
môi hữu cơ không phân cực để tinh sạch Allicin trong điều kiện thích hợp về pH,
nhiệt độ và thời gian.
Trong nước có một số công trình nghiên cứu về tỏi theo hướng điều trị bệnh
dựa vào các phương pháp điều trị dân gian và chưa sản xuất Allicin theo phương
pháp sử dụng bổ sung thêm alliin vào tỏi để tổng hợp Allicin. Mới đây, Viện Các
Hợp chất tự nhiên đã thực hiện đề tài cấp cơ sở do Trần Văn Sung và cộng sự
thực hiện cũng đã nghiên cứu tách chiết tỏi dưới dạng tinh dầu. Trên cơ sở này,
công ty thuốc Tuệ Linh cũng đã sản xuất ra chế phẩm bán trên thị trường với tên
gọi là Oil Garlic. Tuy nhiên, với sản phẩm này, tỏi vẫn chỉ tách chiết dưới dạng
Lớp cao học K20 25 Khóa 2011