Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vai trò của Allicin tách từ tỏi Việt Nam trong quá trình điều hoà đáp ứng viêm thông qua thụ thể Dectin – 1 - Pdf 59

Luận văn Thạc sĩ Khoa học                                                                      T ỏi Lý Sơn
 MỞ ĐẦU

     Các nghiên cứu gần đây đã công bố Allicin: Có khả năng chống viêm nhiễm 
mạnh, tăng cường hoạt tính của các tế  bào trong quá trình thực bào, tăng cường  
hoạt tính của các tế  bào giết tự  nhiên,  ức chế  sự  phát triển của vi sinh vật gây 
bệnh, ức chế sự phát triển của những tế bào ung thư [28, 44]. Rất nhiều công bố 
và các công ty trên thế giới đã sản xuất Allicin từ việc tạo quá trình xúc tác giữa 
Alliin với enzym allinase có sẵn trong tỏi. Bằng việc sử dụng Allicin chiết xuất 
từ  Alliin có sẵn trong tỏi, các công ty trên thế  giới đã sản xuất được rất nhiều 
loại thực phẩm chức năng cao cấp với nhiều tác dụng sinh học quí. 
     Dựa vào những tín hiệu của thụ  thể Dectin­1, một số hợp chất tách chiết từ 
thực vật đã được chứng minh có khả năng điều hòa được đáp ứng viêm và điều  
trị  hiệu quả chuột bị nhiễm khuẩn nặng và choáng nhiễm trùng. Chẳng hạn, các 
chất tách chiết từ  nhân sâm Hàn Quốc như  Rb1, Rb2, Rc, hợp chất K (C­K) đã 
được công bố  có khả  năng điều hòa các tín hiệu viêm như  cytokine, quá trình 
phosphoryl   hóa   MAPK   (mitogen   activated   protein   kinase),   phản   ứng   oxy   hóa 
(ROS) thông qua tín hiệu của thụ thể Dectin­1. Tuy nhiên, các chất này có nguồn  
gốc từ nhân sâm nên rất đắt. Do vậy, việc tìm kiếm các chất có hoạt tính dược  
học đối với khả  năng chống viêm vẫn đang là vấn đề  cấp bách để  có thể  thay 
thế một số thuốc đang sử dụng hiện nay, cũng như góp phần làm giảm bớt tỷ lệ 
tử vong và giá thành điều trị của bệnh nhiễm trùng nặng và choáng nhiễm trùng.
      Tuy nhiên, kể cả  trên thế  giới và trong nước chưa có nghiên cứu nào đi sâu  
vào đánh giá vai trò của Allicin đối với con đường tín hiệu thụ thể Dectin­1 trong  
quá trình điều hòa những phản ứng viêm quá mức ở vật chủ. Đặc biệt, Việt Nam 
là một quốc gia có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng và ẩm, lượng dân số vào loại  
cao nhất thế giới nên khả năng mắc các bệnh nhiễm trùng nặng và choáng nhiễm 
trùng do viêm (inflammation) là rất cao. Cho đến nay, thì nhiễm trùng nặng và 
choáng nhiễm trùng vẫn là một trong các nguyên nhân chính của những ca tử 
Lớp cao học K20                                             1                                        Khóa 2011 ­ 2013


­ Đánh giá được hiệu quả  của Allicin trong quá trình điều trị  chuột bị  nhiễm 
trùng nặng và choáng nhiễm trùng

Lớp cao học K20                                             3                                        Khóa 2011 ­ 2013


Luận văn Thạc sĩ Khoa học                                                                      T ỏi Lý Sơn

Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG MIỄN DỊCH ĐỐI VỚI BẢO VỆ CƠ THỂ
       Miễn dịch bẩm sinh và miễn dịch đáp ứng là hai loại đáp ứng miễn dịch bảo 
vệ quan trọng đối với các động vật có xương sống. Miễn dịch đáp ứng bẩm sinh 
có vai trò như hàng rào bảo vệ đầu tiên nhưng lại không có khả năng nhận dạng 
lập lại các mầm bệnh và trợ  giúp đáp  ứng miễn dịch đặc hiệu. Miễn dịch đáp 
ứng nhận dạng mầm bệnh dựa vào chọn lọc một vùng cụ  thể  nhờ  vô số  các tế 
bào lymphocyte mang rất nhiều thụ thể đặc hiệu kháng nguyên mà cho phép hệ 
thống miễn dịch có thể nhận dạng bất kỳ kháng nguyên bên ngoài xâm nhập vào  
cơ thể. Hệ thống miễn dịch bẩm sinh sử dụng vô số  các thụ  thể  để  nhận dạng  
và đáp  ứng tới những mầm bệnh trong giai đoạn ban đầu của cơ  thể. Quá trình 
nhận dạng mầm bệnh của các thụ  thể  có một vai trò vô cùng quan trọng trong  
quá trình truyền tín hiệu tới những đáp  ứng viêm, sản xuất những tế  bào hiệu  
quả mới tham gia vào quá trình viêm cục bộ và bắt đầu những đáp ứng của quá 
trình miễn dịch đáp  ứng. Vô số  các thụ  thể  nhận dạng mầm bệnh mẫu (PRR) 
bao gồm thụ thể Toll­like (TLR), lectin, Dectin­1 và các thụ thể scavenger quyết 
định tới khả  năng sống xót của vật chủ  bằng quá trình nhận dạng những mẫu 
phân tử   ở  trên mầm bệnh như   vi khuẩn, virut, nấm có cấu trúc giống như  trên  
các   thụ   thể   riêng   biệt   được   gọi   là   PAMP   (pathogenic   associated   molecules 
pattern). Quá trình nhận dạng mầm bệnh bằng quá trình thực bào kích thích thực 
Lớp cao học K20                                             4                                        Khóa 2011 ­ 2013


Lớp cao học K20                                             5                                        Khóa 2011 ­ 2013


Luận văn Thạc sĩ Khoa học                                                                      T ỏi Lý Sơn
miễn dịch [7]. Thời kỳ đầu sẽ  biểu hiện những đáp ứng viêm ồ  ạt tới quá trình  
nhiễm trùng. Hầu hết, đó là các cytokine tiền viêm như TNF, interleukine (IL)­1,  
IL­6, IL­12, và interferon gamma (IFN gamma). Sau đó, cơ thể sẽ điều hòa những 
đáp ứng này bằng sản xuất những cytokine kháng viêm (IL­10), các chất ức chế 
của thụ  thể TNF, thụ thể IL­1 loại II, và IL­1RA (một dạng bất hoạt của IL­1)  
[12]. Các lớp đáp ứng viêm hệ thống của vật chủ được bắt đầu bằng một số sản 
phẩm vi khuẩn. Những sản phẩm vi khuẩn (vi khuẩn gram âm bao gồm nội độc 
tố: lipopolysaccharide (LPS), formyl peptides, ngoại độc tố  và proteases; các vi 
khuẩn gram dương như ngoại độc tố, các siêu kháng nguyên, ngoại độc tố A của 
streptococcal pyrogenic (SpeA), peptidoglycan, axít lipotechoic) và một số  chất 
của vỏ tế bào nấm (zymosan  được phân  tách  từ  Saccharomyces cerevisiae)  liên 
kết các thụ thể trên macrophage của vật chủ và kích hoạt những protein điều hòa  
(yếu tố nhân Kappa B (NFқB)) [12]. Chẳng hạn, thụ thể Toll like 4 (TLR4) nhận 
dạng LPS, còn thụ  thể  Dectin­1 nhận dạng đối với zymosan [8,15]. Sau đó, các 
thụ  thể  chuyển tín hiệu vào tế  bào. Hiệu quả  tích lũy của những lớp viêm hệ 
thống này dẫn tới trạng thái mất cân bằng, cùng với quá trình viêm chiếm ưu thế 
hơn quá trình kháng viêm và quá trình đông tụ  chiếm  ưu thế hơn quá trình phân 
giải tơ  huyết (fibrin). Quá trình nghẽn mạch, thiếu máu cục bộ, các mô bị  tổn 
thương sẽ là hậu quả tiếp sau dẫn tới nhiễm trùng nặng và choáng nhiễm trùng, 
mất chức năng của đa cơ quan và tử vong [25, 21].

Lớp cao học K20                                             6                                        Khóa 2011 ­ 2013


Luận văn Thạc sĩ Khoa học                                                                      T ỏi Lý Sơn


nhóm   thụ    thể  PRR có các phối   tử  đặc hiệu của chính mình để  có thể  nhận  
dạng một loại vi sinh vật nhất định [19]. Các thụ thể này có thể nhận dạng mầm 
bệnh một cách trực tiếp (không thông qua opsonin) hoặc gián tiếp (thông qua 
oposonin) [19]. Đối với In vivo, nhiều  thụ  thể có  thể  tham gia để nhận dạng vi  
khuẩn  thông qua đa phản  ứng  ở đa vị   trí. Các phần có nguồn gốc  từ  nấm hay  
mấm lớn được nhận bằng PRR giống như thụ thể TLR, thụ thể mannose, bổ thể 
3 (CR3), và dectin­1 [20]. Quá trình nhận dạng mầm bệnh của PRR kích thích quá 
trình sản xuất cytokine và chemokine dẫn tới quá trình hoạt động và sinh ra các tế 
bào khác tham gia tới vị  trí đang trong quá trình bị  viêm nhiễm. Từ  đây, dẫn tới  
những phản ứng của miễn dịch đáp ứng [12].     

Lớp cao học K20                                             8                                        Khóa 2011 ­ 2013


Luận văn Thạc sĩ Khoa học                                                                      T ỏi Lý Sơn

Hình 2: Các thụ  thể  RRP đối với nấm có thể  nhận dạng ra phần cacbon.  
Thụ  thể  Mannose nhận dạng thành phần mannan; TLR2 và TLR6, CR3, 
dectin­1 nhận dạng β ­glucans.  
1.4.1.3. Thụ thể Toll­ like (TLR) 
     Thụ thể Toll­ like (TLR) là một protein màng mà nhận dạng ra các phân tử có  
sẵn  ở  trên mầm bệnh (PAMP) [20]. Trong động vật có vú, họ  thụ  thể  TLR bao  
gồm ít nhất 10 loại khác nhau. Chúng có một vai trò cơ  bản tới nhận dạng các 
phối tử  có nguồn gốc từ  mầm  bệnh  [20]. TLR2 có thể  nhận dạng lipoproteins  
các gốc đường  có  gắn  lipid­(lipoarabinomannan) từ thành tế  bào của vi khuẩn  
và nấm [13]. TLR4  nhận dạng lipopolysaccharide (LPS) từ thành tế  bào của vi 
khuẩn gram âm [15,35,37]. TLR9 có thể  nhận dạng deoxycytidylate­phosphate­
deoxyguanylate (CpG) có trong deoxyribonucleic acid (DNA) của vi khuẩn [13].  
Một vi sinh vật có thể được nhận bởi rất nhiều TLR. Thực tế, tổ  hợp của TLR  
có thể   tham gia vào các đáp  ứng viêm  do macrophage  hoặc  tế  bào dendritic  

Nito hóa (RNS) kích thích tăng cường khả  năng thực bào của cơ thể [43]. Ngoài 
ra, nhiều kết quả nghiên cứu khoa học đã công bố vai trò của Dectin­1 trong quá  
trình sản xuất cytokine tiền viêm để   ức chế  sự  phát triển của Mycobacterium  
tuberculosis [36].
Lớp cao học K20                                             10                                        Khóa 2011 ­ 
2013


Luận văn Thạc sĩ Khoa học                                                                      T ỏi Lý Sơn
     Hơn nữa, dựa vào những tín hiệu của thụ thể Dectin­1, một số hợp chất tách  
chiết từ thực vật đã được chứng minh có khả năng điều hòa được đáp ứng viêm 
và điều trị  hiệu quả  chuột bị  nhiễm trùng nặng và choáng nhiễm trùng. Chẳng 
hạn, các chất tách chiết từ  nhân sâm Hàn Quốc như  Rb1, Rb2, Rc, hợp chất K  
(C­K) đã được công bố có khả năng điều hòa các tín hiệu viêm như cytokine, quá 
trình phospho hóa yếu tố tự phân bào (MAPK (mitogen activated protein kinase)),  
phản ứng oxy hóa (ROS) thông qua tín hiệu của thụ thể Dectin­1 [24]. 
1.4.1.5.  Thụ thể  Dectin­1 hoạt động cùng với TLR2 để nhận dạng các phối 
tử có nguồn gốc từ vi sinh vật
         Zymosan  là  một  hợp  chất  mà  lượng  β­glucan  trong  thành  tế  bào  của 
Saccharomyces cerevisiae chiếm phần chính [8,16]. Thành phần của zymosan có 
β­ glucan, mannan, và chitin. Thành phần này được  nhận dạng bằng một số thụ 
thể  chẳng hạn  như  TLR2,  TLR6,  Dectin­1,  thụ  thể  mannose,  và CR3  [16, 45]. 
Chất này  đã  được  chứng  minh  là  kích  thích  quá  trình  đại  thực  bào  và  quá  trình 
viêm cả ở in vivo và in vitro [16].
      Dectin­1 hoạt  động  cùng với  một  số  TLR để  nhận dạng ra  nấm [16]. Thụ 
thể  này cùng  với  TLR2,  Dectin­1 nhận  dạng  ra  zymosan hoặc  nấm  Candida 
albicans truyền tín hiệu  điều  hòa  hoạt  động  của  yếu  tố  nhân  kích  hoạt  tế  bào 
T  (NFAT)  và  quá  trình  sản xuất  interleukin  (IL)­2,  IL­10,  và  IL­12  p70  trong 
tế  bào  dendritic  [16,29].  Dectin­1 cũng tham  gia  vào  quá  trình  thực  bào,  hoạt 
động của yếu tố tự phân bào (ERK)1/2 (extracellular signal­regulated kinase), và 

biệt  là  quá   trình   phiên  mã  của  các  gen  sinh  cytokine  [11].  Hơn  nữa, 
glucocorticoid  có  thể  ức  chế  quá trình  sản  xuất  các  cytokine  tiền  viêm  như 
TNF­α, IL­6, IL­1, và làm giảm quá trình tiết gốc nito và quá trình hoạt hóa các 
yếu  tố  mô  trong  tế  bào  macrophage [23,39,40].  Do  vậy, glucocorticoid đã được 
sử  dụng  trong  điều  trị  một  số  bệnh  viêm  nhiễm  và  các  bệnh  mẫn cảm  miễn 
dịch.  Hơn  nữa,  chúng  có  tiềm  năng  vô  cùng  to  lớn  trong  hoạt  động  kháng 
viêm và giảm quá trình miễn dịch không có lợi cho cơ thể [9,17,22].
     Nhìn  chung,  quá  trình  viêm  hệ  thống  mất  kiểm  soát  được xem  như  là  các 
đặc  trưng  của  nhiễm trùng,  của  triệu  chứng  viêm  cấp  tính  đường  hô  hấp.  Một 
chất  được  biết đó  Hydrocortisone, là  một  glucocorticoid,  có  thể  làm  giảm  đi 
đáng kể mức plasma của protein C,  phospholipase A2, và loại bỏ bớt các tế bào 
neutrophil  trong  các  bệnh  nhân  bị   nhiễm   trùng  nặng  và  choáng  nhiễm  trùng 
[23,41]. Những nghiên cứu gần đây cũng chỉ ra chất này có thể điều hòa hầu hết 
các cytokine tiền viêm [11], bao gồm ức chế các cytokine có  vai trò quan trọng 
trong  miễn dịch bẩm sinh và  nhiễm trùng [23].  Hiệu quả  của  glucocorticoid đã 
được  chứng  minh  trong  các  bệnh  nhiễm  trùng  nặng  như  nhiễm  vi   khuẩn 
meningitis, pneumocystis pneumonia,  typhoid  fever,  và  những  trường hợp  nhiễm 
H5N1 [11].
1.4.1.7.  ROS
      ROS  (reactive oxygen  species)  là  một  đại  diện  nhỏ  của  phản  ứng  oxy hóa, 
­
­
bao   gồm  superoxide   (O2 )  anion,  hydrogen  peroxide  (H2O2),  peroxyl  (ROO ) 
Lớp cao học K20                                             13                                        Khóa 2011 ­ 
2013


Luận văn Thạc sĩ Khoa học                                                                      T ỏi Lý Sơn
radical,  acid (HOCl), ozone  (O3) [14].  ROS  được  tạo  ra  thông  qua  một  loạt  các 
phản ứng mà bắt đầu bằng quá trình tạo ra superoxide [14,10]. Quá trình tạo ra 

Luận văn Thạc sĩ Khoa học                                                                      T ỏi Lý Sơn
nitric oxide (NO) vàc các phân tử dính kết tế bào dẫn đến làm tăng qúa trình viêm. 
Như vậy ,  việc kiểm soát sản xuất các chất này có thể làm giảm khả năng viêm. 
Macrophage là tế bào có kích thước tương đối lớn và có khả  năng đáp ứng nhanh 
với  các  kích  thích  viêm  tạo  ra  bởi  Zymosan.  Ngoài  ra  ,  các  TLR  ở  macrophage 
được  biểu  hiện  mạnh  hơn  so  với  các  tế  bào  bạch  cầu khác  (Hình  4)  nên  nó 
thường  được  lựa  chọn  trong  các  mô  hình  sàng  lọc  và nghiên  cứu  cơ  chế  kháng 
viêm in vitro.

                    Hình 4: Biểu hiện của các thụ thể ở các tế bào bạch cầu
1.5. Mô hình nghiên cứu viêm thực nghiệm in vivo sử dụng Zymosan
     Khả năng kháng viêm của một chất nghiên cứu, đặc biệt là sau bư ớc sàng lọc 
in vitro,  chỉ  được  khẳng  định  khi  tiến  hành  thử  nghiệm  trên  mô  hình  động  vật 
thực nghiệm. Đối với chất kháng viêm, các nghiên cứ u thường sử dụng chuột vì 
Lớp cao học K20                                             15                                        Khóa 2011 ­ 
2013


Luận văn Thạc sĩ Khoa học                                                                      T ỏi Lý Sơn
hệ gen chuột và người có mức  độ tương  đồng khá cao  (85%)  [18].  Ngoài ra,  sử 
dụng chuột  sẽ ít tốn kém và dễ  thực hiện hơn so với các động vật thực nghiệm 
khác.  Các nghiên cứu trước  đây thường sử  dụng trực tiếp các mô hình gây viêm 
thực nghiệm  in vivo để sàng lọc và nghiên cứu cơ chế kháng viêm của chất cần 
nghiên  cứu.  Các  mô  hình  này  thường  là:  i)  sử  dụng   carrageenan,  một 
polysaccharide  tách  từ  tảo  đỏ,  để  gây  viêm  ở  chân  chuột  (caageenan­ induced 
hind paw edema) trong điều kiện có mặt và vắng mặt của chất cần nghiên cứu và 
sau đó so sánh thể tích bàn chân viêm với đối chứng [48, 49];  ii)  gây viêm xoang 
bụng   (peritroneal  inflammation  )  bằng  cách  tiêm  carrageenan  vào  bụng  chuột 
trong điều kiện có mặt và vắng mặt của chất nghiên cứu.  Lượng  dịch viêm tiết 
trong xoang bụng chuột sẽ được thu lại và so sánh với đối chứng về thể tích cũng 

sự  hình  thành  PG  ở  màng  nhày dạ  dày.  Tuy  nhiên,  salysilate,  một  chất  kháng 
viêm thuộc nhóm này cũng có tác dụng ức chế sự sinh tổng hợp của PG nhưng lại 
không làm bào mòn màng nhày dạ dày như  aspirin.  Lý do tại sao lại có sự  khác 
nhau về cơ chế tác dụng giữa aspirin  và salisylate là vấn đề chưa giải thích được 
[46].
1.6.1.2. Các chất kháng viêm có bản chất steroid
      Steroid  là  một  hợp  chất  hữu  cơ  có  cấu  trúc  mang  một vòng  4  cycloalkane. 
Thuộc về nhóm chất này có các chất corticoid.  Chúng tác dụng thông qua ức chế 
enzyme   phospholipases  A2,  là  enzyme  xúc  tác  cho  phản  ứng  chuyển  hóa 
phospholipase A2 thành axit arachidonic .  Như  vậy ,  cuối cùng thì corticoid cũng 
ức chế sự sinh tổng hợp của PG ,  TX  và LT .  Các chất kháng viêm có  bản chất 
steroid  ức  chế  phospholipase  A2  một  cách  gián  tiếp  thông  qua  việc  giải  phóng 
các chất ức  chế protein có tên gọi là macrocortin, lipomodulin hay renocortin có 
khối  lượng  phân  tử  đạt  khoảng  15,  30  và  40 kDa.  Đại  diện  nhóm  chất  này  là 
lipocortin  đã được  tinh sạch,  thương mại  và được  xem là một  trong  những  chất 
kháng viêm mạnh  [46]. Các chất có bản chất steroid thường là phối tử  của thụ 
thể glucocorticoid.
1.6.1.3. Các chất khác
     Thuộc về  nhóm này có vàng và colchicine. Trong trường hợp của colchichine, 
chất này  ức  chế  sự  hình  thành  tinh  thể  urate  trong  khớp  của  bệnh  nhân  gout 
Lớp cao học K20                                             17                                        Khóa 2011 ­ 
2013


Luận văn Thạc sĩ Khoa học                                                                      T ỏi Lý Sơn
thông  qua  việc  làm  giảm  sự  tiết  các  chất  chemotaxis  của  bạch  cầu  đa  nhân  và 
giải  phóng  enzyme lysosom.  Colchicine  có  tác  dụng  ức  chế  đặc  hiệu  sự  giải 
phóng  một  glycoprotein  có  trọng  lượng  phân  tử  8400  Da.  Đây  là  một  chất 
chemotaxis của bạch cầu đa nhân đối với các bạch cầu trung tính và monocytes 
có khả năng thực bào các thể urate [46].

trên  thị  trường  Việt Nam  và  quốc tế.  Các  nghiên  cứu  về  viêm  được  thực  hiện 
chủ yếu ở Viện Dược  liệu Trung ương,  các trường Đại  học  Dược, trường Đại 
học Y Hà Nội và Học viện Quân y 103. Các nghiên cứu ở những cơ sở này mới 
chỉ dừng ở mức tạo được  mô hình gây viêm thực nghiệm in vivo cổ điển như đã 
trình bày ở trên  .  Cụ thể là các thí nghiệm được thực hiện trên chuột thông  qua 
sử  dụng  chất  gây  viêm  carrageenan  để  tạo  mô  hình  viêm  cấp  dưới  hình  thức 
gây phù bàn chân chuột và gây viêm màng bụng chuột sau khi tiêm chất gây viêm 
này. Việc  gây  viêm  mãn  tính  sử  dụng  chất  amiant  để  tạo  u  hạt  trong  cơ  thể 
chuột. Việc đánh giá tác dụng kháng viêm được  thực hiện bằng cách đo thể tích 
bàn chân, đo thể tích dịch viêm ổ bụng, đo trọng lượng  khối u hạt tách ra, đếm 
số  lượng  bạch  cầu  so  với  mẫu đối chứng, từ đó đánh giá tác dụng kháng viêm 
của các chất nghiên cứu. Ngoài ra, việc đánh giá tác dụng kháng viêm cũng chủ 
yếu được thực hiện với các cao chiết thô của thực vật.
     Điển hình như các nghiên cứu của Đặng Diễm Hồng và cộng sự với các dịch 
chiết  rong tảo biển Việt Nam [1]. Nhóm nghiên cứu đã phát hiện thấy dịch chiết 
methanol của hai loài tảo biển là  Sargassum swartzii và Ulva reticulata thể hiện 
hoạt tính kháng viêm cao mà không gây độc với động vật thử nghiệm  [1].  Hàng 
loạt các nghiên cứu khác trong thời gian gần đây cũng chỉ  sử  dụng các mô hình 
nghiên  cứu  này  để  đánh    giá  tác  dụng kháng  viêm  của  các  dịch  chiết  thực  vật 
nghiên cứu. Ví dụ như Hà Vân Oanh và cộng sự (2010)  trên  cao  lỏng  của  rễ  cây 
bạch  đồng  nữ  (Clerodendrum  chinense)  [4],  Đỗ  Thị  Oanh  và  cộng  sự  (2010) 
trên cao sói rừng (Sapium sebiferum) [3] hay Nguyễn Thị Bích Hằng (2009) trên 
cao  lỏng  lá  vọng  cách  (Premna  corymbosa)  [5]...  Như  vậy  có  thể  nói rằng, mô 
hình nghiên cứu viêm và đánh giá tác dụng kháng viêm ở Việt Nam hiện nay là 
đơn giản, cổ điển, tốn nhiều thời gian và thiếu tin cậy . Như vậy, chúng ta còn 
thiếu các nghiên cứu hiện đại với các mô hình gây viêm đạt chuẩn quốc tế hay 
Lớp cao học K20                                             19                                        Khóa 2011 ­ 
2013





Luận văn Thạc sĩ Khoa học                                                                      T ỏi Lý Sơn
     Tỏi được sử dụng phổ biến trong đời sống hàng ngày của con người. Từ lâu 
đời con người đã biết sử  dụng tỏi để  chữa bệnh, nhưng hiểu biết những tác  
dụng huyền bí của tỏi thì ít người biết.
         Việt Nam ta có nhiều vùng trồng tỏi, nhưng nổi tiếng thơm ngon nhất là  
“Vương quốc tỏi­ huyện đảo Lý Sơn”. Điều làm nên sự khác biệt của tỏi Lý Sơn 
là củ  của nó không quá to, không quá cay lại có mùi thơm đặc biệt. Mùi thơm 
nồng  ấy là do người dân Đảo đã dùng cát biển để  “lót” khi gieo trồng. Và việc 
khai thác cát để trồng tỏi đã tạo điều kiện cho triều cường lấn át đất đai nơi đây.
1.7.1.1. Phân loại thực vật – Đặc điểm sinh thái
1.7.1.1.1.  Phân loại thực vật
     Tên khoa học: Allium sativum L.
     Thuộc họ Hành tỏi Alliaceae.
1.7.1.1.2.  Phát sinh tên gọi:[ 33] 
     Các nhà thực vật học gọi cây tỏi là Allium Sativum [ 33], (URL4, 5, 6). Tiếng 
La tinh gọi tỏi là Olere – có nghĩa là “ngửi thấy”, tiếng Hy lạp là Hallestai là 
“nhảy vọt ra” để  mô tả  sự  tăng trưởng nhanh chóng các tép tỏi trong một củ.  
Một nhà thơ La mã Plaupus (250 – 184 trước CN) dùng thuật ngữ Allium để gọi 
cây tỏi, nên người ta cho rằng đó là một từ  phát sinh từ  chữ  Arya cổ  áluh hoặc 
álukám qua alum mà ra, vì người xưa dùng từ  đó với nghĩa là một gia vị. Một  
cách giải thích khác Allium là phát sinh từ  alare hoặc halare có nghĩa là “thở”,  
“thở ra” đều liên quan đến mùi ngửi thấy. Ngoài ra từ  Celtic all có nghĩa là “ấm  
áp”, “làm nóng, đốt nóng” cũng được coi là nguồn gốc phát sinh của tên gọi cây  
tỏi.
1.7.1.1.3.  Khái quát chung về họ hành tỏi: [38]
         Tỏi, “gia vị  của cuộc đời”, là loại độc nhất vô nhị  trong vương quốc thảo 
mộc có nguồn gốc sâu xa, huyền bí gắn liền với những truyền thuyết xa xưa của  
nhiều dân tộc khác nhau trên thế  giới. Tỏi cùng y học dân gian hay những tập 

thân trên, một cán hoa dài 55cm hay hơn. Bao hoa màu trắng hay hồng bao bởi  
nhiều tán, rơi rụng thành mũi nhọn dài. Hoa mọc thành cụm trên đầu một trục  

Lớp cao học K20                                             22                                        Khóa 2011 ­ 
2013


Luận văn Thạc sĩ Khoa học                                                                      T ỏi Lý Sơn
hình trụ  từ  thân củ  kéo dài ra. Cụm hoa là một tán giả  hình cầu, màu trắng, đỏ 
hoặc xanh nhạt.

                                                     Hình 5: Cây tỏi
1.7.2. Allicin và các sản phẩm chứa Allicin
     Đối với hàng nghìn năm trước tỏi đã được biết đến có nhiều tiềm năng y học 
đặc biệt. Trong lịch sử, tỏi đã được sử  dụng để  chữa bệnh thương hàn, bệnh 
dại. Thực sự, sau khi Cavallito phát hiện ra Allicin  – một hoạt chất được hình 
thành từ  Alliin thành phần quan trọng của tỏi năm 1944 đã có tới 1500 công bố 
khoa học và vô số  các nghiên cứu khác xung quanh vấn đề  dược học của tỏi 
(ULR1). Vì vậy, người xưa đã đặt cho tỏi những biệt hiệu: thần dược, thuốc  
bách bệnh. Trong những thập niên gần đây, cùng với sự  phát triển của 2 loại 
bệnh tim mạch và ung thư, các nhà khoa học đặc biệt quan tâm đến tác dụng 
chống oxy hóa, chống đột biến tế bào, hạ độ mỡ trong máu và làm giảm nguy cơ 
máu đông của một số  hoạt chất thiên nhiên. Trong đó, tỏi là một gia vị  có hoạt  
chất  quan trọng tổng hợp nên Allicin ­ chất có khả  năng  chống oxy hóa mạnh 
Lớp cao học K20                                             23                                        Khóa 2011 ­ 
2013


Luận văn Thạc sĩ Khoa học                                                                      T ỏi Lý Sơn
nhất, có thể ngăn chặn các quá trình trên (ULR2). Tỏi có 3 hoạt chất chính: alliin, 

Luận văn Thạc sĩ Khoa học                                                                      T ỏi Lý Sơn

1.7.3. Sản xuất Allicin từ alliin có trong tỏi 
      Allinase là enzym có trong tỏi giúp cho quá trình chuyển alliin thành Allicin.  
Nhưng lượng Alliin thường có ở  trong tỏi khoảng 0,4 đến 0,9% thành phần phụ 
thuộc vào điều kiện trồng tỏi. Trên thực tế  với phương pháp sử  dụng lượng  
allinase có trong tỏi để  sản xuất Allicin thì cần alliin chiếm khoảng từ 1%­15% 
[36]. Do vậy, để sản xuất Allicin từ Alliin của tỏi cần bổ sung thêm alliin từ tinh  
thể deoxyalliin. Sau đó, lượng alliin này sẽ được tiếp xúc với tỏi đã được nghiền 
để  quá trình phản  ứng giữa alliin và allinase xảy ra dễ dàng cho ra sản phẩm là  
Allicin. Với nồng độ alliin, nhiệt độ, pH và thời gian tối  ưu để phản ứng xảy ra 
triệt để sẽ thu được lượng Acillin nhiều nhất. 
     Để sản xuất Allicin từ Alliin của tỏi cho mục đích làm thực phẩm chức năng 
và một dạng thuốc dùng cho điều trị  một số  bệnh cũng như  các ứng dụng khác  
trong dược học các nhóm nghiên cứu mạnh hiện nay  ở Mỹ, cộng đồng Châu Âu 
đã có patent sử dụng alliin để sản xuất Allicin tự nhiên từ  thực vật thuộc họ tỏi  
hành. Nguyên nhân chủ  yếu là để  đảm bảo Allicin sản xuất ra hoàn toàn không  
liên quan đến nguyên liệu chuyển gen và tổng hợp bằng con đường hóa học.
     Tóm lại, để sản xuất Allicin có khả năng kích thích miễn dịch từ tỏi, các tác  
giả thường dùng phối hợp alliin với allinase để sản xuất Allicin và một số dung  
môi hữu cơ không phân cực để tinh sạch Allicin trong điều kiện thích hợp về pH,  
nhiệt độ và thời gian.
     Trong nước có một số công trình nghiên cứu về tỏi theo hướng điều trị  bệnh 
dựa vào các phương pháp điều trị dân gian và chưa sản xuất Allicin theo phương  
pháp sử dụng bổ sung thêm alliin vào tỏi để tổng hợp Allicin. Mới đây, Viện Các  
Hợp chất tự  nhiên đã thực hiện đề  tài cấp cơ  sở  do Trần Văn Sung và cộng sự 
thực hiện cũng đã nghiên cứu tách chiết tỏi dưới dạng tinh dầu. Trên cơ sở này,  
công ty thuốc Tuệ Linh cũng đã sản xuất ra chế phẩm bán trên thị trường với tên 
gọi là Oil Garlic. Tuy nhiên, với sản phẩm này, tỏi vẫn chỉ tách chiết dưới dạng  
Lớp cao học K20                                             25                                        Khóa 2011 ­ 


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status