THỰC TIỄN ÁP DỤNG LUẬT DOANH NGHIỆP 1999 NHỮNG NĂM QUA - Pdf 63

Thực tiễn áp dụng Luật Doanh nghiệp 1999 những năm
qua
I. Công tác tổ chức triển khai thi hành Luật Doanh nghiệp.
1. Phổ biến, tuyên truyền Luật Doanh nghiệp.
Để Luật Doanh nghiệp thực sự phát huy hiệu lực trong thực tiễn thì việc
cần làm đầu tiên là tổ chức tốt công tác phổ biến, tuyên truyền Luật Doanh nghiệp
cho các đối tợng có liên quan. Sau khi Luật Doanh nghiệp đợc ban hành các cơ
quan nhà nớc có thẩm quyền, đặc biệt là Bộ T Pháp và Bộ Kế hoạch và Đầu T đã
phối hợp đẩy mạnh việc tập huấn, tuyên truyền và phổ biến các quy định của Luật
cho ba đối tợng chủ yếu. Các đối tợng đó bao gồm:
Thứ nhất, là các doanh nghiệp, bao gồm Công ty trách nhiệm hữu hạn,
Công ty cổ phần, Công ty hợp danh và Doanh nghiệp t nhân kể từ khi có Luật
Doanh nghiệp sẽ chịu sự điều chỉnh của một Luật duy nhất với nhiều điểm mới
về thành lập, tổ chức hoạt động doanh nghiệp, nên chính các doanh nghiệp này sẽ
là đối tợng bị ảnh hởng hơn cả khi luật đi vào áp dụng. Do vậy, các loại hình
doanh nghiệp này đã đợc tuyên truyền phổ biến những nội dung mới của Luật để
các doanh nghiệp thấy đợc những u điểm của Luật Doanh nghiệp so với các văn
bản pháp luật đơn lẻ trớc đây và cũng nhằm tránh cho hoạt động các loại hình
doanh nghiệp kểv trên không bị gián đoạn.
Thứ hai, các nhà đầu t tiềm năng. Các nội dung mới của Luật Doanh
nghiệp mở ra nhiều cơ hội cho các nhà đầu t với việc da dạng hoá hình thức kinh
doanh cũng nh các hình thức góp vốn kinh doanh và quyền lợi của họ cũng đợc
đảm bảo hơn. Chính vì vậy, các cơ quan có liên quan đã nhanh chóng tuyên
truyền, phổ biến các quy định mới của Luật Doanh nghiệp để các nhà đầu t nắm
bắt kịp thời các u điểm của Luật Doanh nghiệp và tiến hành đầu t , tổ chức sản
xuất kinh doanh.
Thứ ba, các cán bộ quản lý Nhà nớc có liên quan. Đây là các cán bộ làm
trong các cơ quan trực tiếp quản lý việc thành lập, tổ chức hoạt động của các
doanh nghiệp chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp 1999. Do vậy để tăng c-
ờng cho công tác quản lý của các cán bộ này và cũng nhằm đảm bảo lợi ích cho
các cơ công ty, các cơ quan chức năng cũng đã tiến hành tập huấn và phổ biến các

Trên cơ sở xem xét về tiến độ, nội dung các văn bản hớng dẫn thi hành
Luật và công tác chỉ đạo thực hiện có thể rút ra một số kết luận sau:
Thứ nhất, các văn bản của Chính phủ và Thủ tớng Chính phủ hớng dẫn thi
hành Luật Doanh nghiệp đợc ban hành tơng đối kịp thời, đồng bộ và đầy đủ hơn
so với các Luật khác. Nói chung về căn bản khắc phục đợc tình trạng Luật chờ
Nghị định, Nghị định chờ thông t vv
Thứ hai, nội dung các văn bản hớng dẫn, nhất là Nghị định của Chính
phủ và Quyết định chỉ thị của Thủ tớng Chính phủ, rõ ràng, nhất quán với nội
dung và tinh thần của Luật Doanh nghiệp. Hiện tợng Luật thông thoáng, thuận
lợi; Nghị định của Chính phủ hạn chế dần; Thông t và Quyết định của Bộ trởng
tiếp tục hạn chế, thu hẹp nội dung của Luật và Nghị định theo cơ chế xin cho
đã đợc khắc phục về căn bản.
Thứ ba, cùng với những đổi mới trong việc ban hành văn bản hớng dẫn thi
hành, công tác chỉ đạo thực hiện cũng đã tập trung, nhất quán và sát với yêu cầu
thực tế hơn. Tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp đã thờng xuyên theo dõi tình
hình, định kỳ báo cáo Thủ tớng và Phó Thủ tớng Chính phủ. Nhờ đó đã kịp thời
uốn nắn những biểu hiện sai lệch và giải quyết đợc một phần không nhỏ các vớng
mắc phát sinh trong triển khai thực hiện Luật. Trong phiên họp tháng 10 năm
2000, Chính phủ đã đợc báo cáo sơ bộ về kết quả 10 tháng thi hành Luật Doanh
nghiệp, đồng thời đã ra quyết định về tiếp tục đẩy mạnh thi hành Luật Doanh
nghiệp.
Thứ t, so với các Luật khác, thì việc thi hành Luật Doanh nghiệp đã thu hút
đợc sự tham gia tích cực của công chúng, của cộng đồng doanh nghiệp và các ph-
ơng tiện thông tin đại chúng vào việc giám sát, theo dõi thực hiện, phát hiện và
phản ánh kịp thời các vớng mắc, cản trở đối với việc thực thi Luật. Thực tế cho
thấy đó cũng là một yếu tố quan trọng, có ý nghĩa góp phần làm cho hiệu lực của
Luật đợc phát huy nhanh và đầy đủ trong thực tế.
Nhìn chung, các văn bản hớng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp ở cấp
Chính phủ và một số Bộ đã đợc ban hành tơng đối kịp thời, đã hớng dẫn đợc phần
các nội dung cơ bản của Luật Doanh nghiệp. Nội dung hớng dẫn nhất quán, phù

doanh.
Luật Doanh nghiệp đã trở thành một khâu đột phá về cải cách hành chính,
thể hiện trên ba mặt cơ bản sau:
Một là, đơn giản hoá đợc trình tự, thủ tục và hồ sơ thành lập doanh nghiệp.
Nhờ đó, theo số liệu điều tra nhiều nguồn khác nhau, thời gian thành lập doanh
nghiệp đã giảm từ khoảng hơn 90 ngày trớc đây xuống trung bình còn khoảng 7
ngày, kể từ khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ. ở nhiều tỉnh, thời gian đăng ký kinh doanh
đã rút xuống còn 2 đến 4 ngày. ở thành phố Hồ Chí Minh đã thử nghiệm đăng ký
kinh doanh qua mạng, rút ngắn thời hạn đăng ký kinh doanh xuống chỉ còn một
giờ. Chi phí cho việc đăng ký kinh doanh cũng đã giảm đáng kể, từ khoảng trung
bình 10 triệu đồng, xuống còn khoảng 5 trăm ngàn đồng.
Hai là, tạo đợc cơ sở pháp lý phân định rõ quyền của Nhà nớc, của cán bộ
công chức Nhà nớc, với quyền của ngời đầu t và của doanh nghiệp, từng bớc xoá
bỏ thói quen ôm đồm, làm thay và gây phiền hà, khó khăn cho doanh nghiệp từ
phía cơ quan Nhà nớc.
Ba là, đã bãi bỏ đợc 150 loại giấy phép kinh doanh, qua đó, xoá bỏ đợc
một phần không nhỏ những cản trở hành chính bất hợp lý đối với hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
Luật Doanh nghiệp đã mở rộng quyền tự chủ, sáng tạo cho hoạt động kinh
doanh, đồng thời tạo cơ sở pháp lý đảm bảo tính ổn định về chính sách của Nhà
nớc, tính minh bạch trong quan hệ giữa cơ quan Nhà nớc và doanh nghiệp. Hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp trong nhiều ngành, nghề trở nên ổn định và
chắc chắn hơn, không còn bị giới hạn bởi nội dụng hạn hẹp, cứng nhắc và thời
hạn ngặt nghèo của giấy phép. Nhờ đó, đã giảm đợc đáng kể những rủi ro và chi
phí kinh doanh phát sinh trong việc xin phép, xin ra hạn giấy phép.
Chính vì những yếu tố trên mà doanh nghiệp có thể an tâm và tự tin hơn
trong việc khởi sự kinh doanh, trong đầu t mở rộng phạm vi và quy mô kinh
doanh.
Thứ hai, Góp phần tăng nhanh số lợng doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá
thể mới thành lập.

khích tính sáng tạo tự chủ trong kinh doanh, làm cho cộng đồng doanh nghiệp tự
tin hơn trong hoạt động đầu t và kinh doanh, tăng thêm sự tin tởng của nhân dân
vào đờng lối và chính sách đổi mới của Đảng, Nhà nớc.
Nh thế, nhân dân nói chung và cộng đồng doanh nghiệp nói riêng đã ủng
hộ, hởng ứng và đón nhận "luồng sinh khí mới" một cách tích cực trên phạm vi
toàn quốc. Đa số doanh nghiệp đã nhận thức đợc sự thay đổi về quyền kinh doanh
và nhanh chóng phát huy sáng kiến, tận dụng các cơ hội kinh doanh, trên nguyên
tắc đợc kinh doanh tất cả những gì mà pháp luật không cấm. Rõ ràng, Luật Doanh
nghiệp là một trong các điển hình về "ý Đảng hợp lòng dân", nhanh chóng phát
huy tác dụng trong thực tế cuộc sống.
Tuy nhiên số lợng doanh nghiệp mới đăng ký hơn hai năm qua mới chỉ đa
tỷ lệ bình quân đầu ngời trên doanh nghiệp đạt đến gần 1000 ngời/ doanh nghiệp.
Đây là tỷ lệ rất thấp so với mức bình quân ở nhiều nớc khác (50 ngời/ một doanh
nghiệp, thậm chí có nơi nh Hồng Kông thì 5 ngời/ một doanh nghiệp). Nh vậy, chỉ
xét riêng về số lợng, thì tổng số doanh nghiệp hiện nay ở nớc ta còn rất nhỏ bé so
với yêu cầu phát triển kinh tế và yêu cầu tạo công ăn việc làm cho ngời lao động.
Do đó vấn đề chủ yếu quan trọng ở nớc ta là khuyến khích, hỗ trợ, thúc đẩy ngời
dân thành lập thêm nhiều doanh nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả
để làm ra nhiều của cải cho xã hội, tạo ra nhiều công ăn việc làm ổn định cho ngời
lao động, chứ không phải lo ngại về có quá nhiều doanh nghiệp mới đờc thành
lập.
Thứ ba, Góp phần huy động thêm đợc vốn đầu t xã hội.
Trong hai năm 2000-2001, các doanh nghiệp đã đăng ký mới và bổ sung
tổng cộng gần 55.000 tỷ đồng vốn (khoảng gần 4 tỷ đô la Mỹ), không thấp hơn số
vốn đăng ký đầu t của các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài trong cùng thời
kỳ. Năm 2000 tổng số vốn đăng ký của các doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp
và hộ kinh doanh cá thể đạt khoảng 24.000 tỷ đồng (tơng đơng khoảng 1,65 tỷ đô
la Mỹ), trong đó có 17.000 tỷ đồng là vốn đăng ký mới và 7.000 tỷ đồng vốn đăng
ký bổ sung, gấp khoảng gần 5 lần so với năm 1999. Năm 2001 là 35.500 tỷ đồng,
trong đó vốn mới đăng ký là 26.500 tỷ đồng, và số vốn đăng ký mới bổ sung là

100 doanh nghiệp thành lập mới, và hầu hết đều hoạt động trong lĩnh vực công
nghiệp chế biến. Chủ tịch khẳng định việc thực hiện Luật Doanh nghiệp đợc coi là
một trong hai nguyên nhân cơ bản thúc đẩy tăng trởng kinh tế của tỉnh trong năm
2000.
Và ở thành phố Hồ Chí Minh, theo điều tra sơ bộ 32% số doanh nghiệp
đăng ký sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và công nghiệp chế biến; 39% số
doanh nghiệp đăng ký kinh doanh dịch vụ thơng mại; cà 29% đăng ký kinh doanh
các dịch vụ khác.
Từ thực tế nói trên có rút ra hai điểm lu ý: Một là, số doanh nghiệp đăng ký
kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất có xu hớng tăng lên. Đó là dấu hiệu tích cực
chứng tỏ ngời đầu t đã tin tởng và yên tâm hơn về tính ổn định và môi trờng kinh
doanh ở nớc ta. Hai là, số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh các loại dịch vụ khác
ngoài dịch vụ thơng mại đã tăng lên gấp nhiều lần so với trớc. Điều đó chứng tỏ
đã có nhiều loại dịch vụ mới xuất hiện trong nền kinh tế, loại hình dịch vụ kinh
doanh đã đa dạng hơn nhiều so với trớc đây.
Tóm lại, Luật Doanh nghiệp đã có tác động tích cực, lâu dài đối với phát
triển kinh tế đất nớc. Việc thực hiện Luật Doanh nghiệp có tác động tích cực đối
với phát triển khu vực kinh tế dân doanh. Năm 2000, tốc độ tăng giá trị sản xuất
công nghiệp khu vực ngoài quốc doanh đạt 18,3% (năm 1999 chỉ 10%); và đạt
mức cao nhất trong 10 năm qua. Năm 2001 là 20,3% và quý I năm 2002 là 23%,
cao hơn hẳn so với khu vực doanh nghiệp Nhà nớc và đầu t nớc ngoài.
Thứ sáu, Việc triển khai thực hiện Luật Doanh nghiệp còn có tác dụng
không nhỏ về mặt đối ngoại.
Những nội dung có tính đột phá của Luật Doanh nghiệp kết hợp với sự chỉ
đạo triển khai thực hiện thể hiện rõ sự nhất quán và quyết tâm mạnh mẽ của Đảng
và Chính phủ tiếp tục đổi mới xây dựng cơ chế thị trờng định hớng xã hội chủ
nghĩa; đợc d luận trong nớc và cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Điều đó đã thúc
đẩy họ cam kết hỗ trợ mạnh mẽ và nhiều hơn đối với tiến trình cải cách kinh tế ở
nớc ta. Tổ chức phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), Ngân hàng thế giới (WB)
và một số nhà tài trợ khác đã đánh giá Luật Doanh nghiệp là một điểm sáng trong

Hai là, nhận thức đợc cần có sự kết hợp đổi mới chính sách kinh tế và cải
cách hành chính trong triển khai thi hành Luật. Thực tế cho thấy việc thực hiện các
nội dung đổi mới kinh tế trong Luật Doanh nghiệp khó đạt đợc, nếu không có
những cải cách hành chính cần thiết, dứt khoát kèm theo.
b. Những nguyên nhân từ nội dung Luật
Luật có nội dung đầy đủ, phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn, điều này thể
hiện trên một số điểm chủ yếu sau đây.
Thứ nhất, Nội dung của Luật xuất phát từ đòi hỏi của tình hình đất nớc, và
phù hợp với đờng lối đổi mới của Đảng và Nhà nớc. Nội dung của Luật hớng về
trao quyền, đề cao và tôn trọng quyền hợp pháp của ngời dân và doanh nghiệp để
họ tự quyết định, tự chủ và sáng tạo trong đầu t và kinh doanh, thay vì chỉ quy
định chính sách u đãi, u tiên nh một số Luật khác.
Thứ hai, Nội dung Luật Doanh nghiệp phù hợp với các nguyên tắc của
kinh tế thị trờng, các thông lệ thơng mại quốc tế.
Thứ ba, Nội dung của Luật Doanh nghiệp về cơ bản rõ ràng, cụ thể, có
nhiều điều quy định có thể thực hiện đợc ngay mà không cần có sự hớng dẫn.
Nội dung của Luật thể hiện rõ nguyên tắc công bằng, bình đẳng không bị chi
phối bởi các nhóm lợi ích cục bộ ngành, địa phơng hay doanh nghiệp, phân biệt
rõ nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nớc của công chức các cấp với quyền kinh
doanh của ngời dân.
c. Những nguyên nhân từ việc hớng dẫn thi hành.
Thật vậy, theo đánh giá của d luận cũng nh cộng đồng các doanh nghiệp
thì việc hớng dẫn thi hành các nội dung của Luật Doanh nghiệp đợc thực hiện
một cách kịp thời và đầy đủ. Nội dung các văn bản hớng dẫn thi hành luật nhìn
chung phù hợp, tơng thích với nội dung và tinh thần của Luật, không có hiện t-
ợng Luật thông thoáng, nhng Nghị định hớng dẫn bó hẹp lại, đến thông t lại
"bó" thêm một lần nữa nh đối với một số luật khác.
d. Những nguyên nhân từ việc chỉ đạo thực hiện.
Sự chỉ đạo thực hiện Luật Doanh nghiệp là quyết liệt, tập trung và kịp thời
ngay từ đầu. Trớc hết, bản thân Thủ tớng, các Phó Thủ tớng rất quan tâm và đã

Bên cạnh việc công nhận những kết quả, tiến bộ đã đạt đợc nh trình bày
ở trên đây, chúng ta cũng phải ghi nhận một thực tế là vẫn còn không ít khó
khăn, cản trở cần tháo gỡ. Những khó khăn cản trở đó bao gồm những nội dung
sau.
a. Về văn bản hớng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp.
Từ thực tế hơn hai năm thực hiện Luật Doanh nghiệp có thể rút ra hai vấn
đề trong công tác ban hành văn bản hớng dẫn thi hành Luật nh sau.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status