CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NHTM - Pdf 68

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HOẠT ĐỘNG
TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
TẠI NHTM
1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NHTM:
1.1. Khái niệm:
NHTM là một tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế, là doanh nghiệp
đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng. Một tổ chức cung ứng vốn
chủ yếu và hữu hiệu. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các
dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Có rất nhiều khái
niệm về NHTM, nhưng khái niệm có thể nói là chung nhất là: NHTM là tổ chức
tài chính cung cấp một doanh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt
là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính
nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào khác trong nền kinh tế.
1.2. Các hoạt động chủ yếu của NHTM:
a. Huy động vốn:
Vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ vốn
kinh doanh của NHTM. Đây là hoạt động đóng một vai trò quan trọng ảnh
hưởng đến chất lượng hoạt động, đến khả năng mở rộng kinh doanh của ngân
hàng. Vốn huy động của NHTM dưới hình thức bằng tiền tệ (nội tệ và ngoại tệ)
và bằng vàng được hình thành từ hai bộ phận là vốn huy động từ tiền gửi và vốn
huy động thông qua phát hành các giấy tờ có giá.
- Vốn huy động từ tiền gửi:
Để huy động vốn, các NHTM đã cung cấp rất nhiều loại tiền gửi khác
nhau cho khách hàng lựa chọn. Các NHTM nhận tiền gửi từ các tổ chức kinh tế,
tiền gửi của dân cư và tiền gửi khác.
+ Tiền gửi của tổ chức kinh tế gồm tiền gửi không kỳ hạn và tiền
gửi có kỳ hạn.
+ Tiền gửi của dân cư gồm tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi thanh toán.
+ Tiền gửi khác như: Tiền gửi của tổ chức tín dụng khác, tiền gửi
của Kho bạc Nhà nước, tiền gửi của tổ chức đoàn thể xã hội…
Một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi thanh toán và

trợ bởi cho vay tiêu dùng. Lãi suất cho vay tiêu dùng thường cao hơn so với lãi
suất cho vay thương mại.
+ Cho vay dự án: Các ngân hàng tài trợ cho xây dựng những nhà máy
mới đặc biệt là trong các ngành công nghệ cao.
Nhưng hoạt động cho vay luôn tiềm ẩn rủi ro. Để đảm bảo an toàn trong
hiệu quả và cho vay, tránh rủi ro đổ vỡ đối với từng ngân hàng và hệ thống các
tổ chức tín dụng thì các NHTM đã đưa ra các biện pháp đảm bảo trong cho vay,
phòng ngừa rủi ro là cho vay có bảo đảm bằng tài sản và cho vay không bảo
đảm bằng tài sản. Đây là điều kiện rang buộc đối với mỗi khách hàng khi đến
vay vốn ngân hàng.
- Đầu tư: Ngân hàng thường đầu tư bằng cách nắm giữ chứng khoán và
tham gia góp vốn với các tổ chức khác như: hùn vốn vào các ngân hàng liên
doanh, các công ty... Nhưng chứng khoán mà ngân hàng nắm là chứng khoán
Chính phủ, chứng khoán của các ngân hàng khác, các công ty tài chính và
chứng khoán của các công ty khác. Ngân hàng giữ chứng khoán vì chúng đem
lại thu nhập cao và có thể bán đi để gia tăng ngân quỹ khi cần thiết. Chứng
khoán thường chia thành chứng khoán thanh khoản và kém thanh khoản. Chứng
khoán có tính thanh khoản cao là chứng khoán an toàn, dễ bán, ít giảm giá
nhưng có sinh lời thấp; còn chứng khoán kém thanh khoản thì có mức độ rủi ro
cao nhưng đem lại tỷ lệ sinh lời cao. Ngân hàng nên nắm giữ hợp lý loại chứng
khoán và đầu tư sao cho hiệu quả để vừa sinh lời vừa đảm bảo tính thanh khoản
khi có lượng tiền mặt rút ra.
c. Các hoạt động khác:
- Mua bán ngoại tệ:
Đây là một trong những dịch vụ đầu tiên mà ngân hàng thực hiện, tức là
mua một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Trong thị
trường tài chính hiện nay mua bán ngoại tệ thường là do các ngân hàng lớn nhất
thực hiện. Bởi vì những giao dịch này có mức độ rủi ro cao, yêu cầu phải có
trình độ chuyên môm cao.
- Bảo quản vật có giá:

hay quy mô của các doanh nghiệp, bởi vì khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ
chỉ có ý nghĩa trong phạm vi một nước tại một thời điểm nhất định. Một doanh
nghiệp đặt trong môi trường kinh tế của nước mình được xem là DNVVN
nhưng trong môi trường kinh tế của quốc gia khác thì lại là doanh nghiệp lớn,
hoặc doanh nghiệp cực nhỏ. Song, khái niệm chung nhất về DNVVN như sau:
DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân kinh doanh vì mục
đích lợi nhuận, có quy mô doanh nghiệp trong những giới hạn nhất định tính
theo các tiêu thức vốn, lao động, doanh thu, giá trị gia tăng thu được theo thời
kỳ theo quy định của quốc gia.
Còn đối với DNVVN ở Việt Nam, Ngày 23/11/2001 Chính Phủ đã ban
hành nghị định số 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNVVN. Theo quy
định của nghị định này: DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng
ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng
và số lao động trung bình hang năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình
hình kinh tế xã hội cụ thể của từng ngành, địa phương, trong quá trình thực
hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời
cả hai tiêu chí vốn và lao động hoặc một trong hai tiêu chí nói trên.
Theo khái niệm này, cũng như các nước khác, để phân biệt DNVVN với
doanh nghiệp lớn, Việt Nam quan tâm tới hai tiêu thức chính là vốn và lao động.
Như vậy, vốn và lao động là hai tiêu thức cơ bản để đánh giá quy mô và phân
loại doanh nghiệp. Tuy nhiên do đặc điểm của các ngành nghề khác nhau dẫn
đến nhu cầu lao động , nhu cầu về vốn của mỗi doanh nghiệp rất khác nhau và
tùy thuộc vào từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế.
2.2 Đặc điểm của DNVVN:
DNVVN không chỉ mang nhũng đặc trưng vốn có của một doanh nghiệp
mà nó còn có những đặc điểm riêng biệt sau đây:
- Thứ nhất: DNVVN có vốn đầu tư ban đầu thấp, thu hồi vốn nhanh.
Là loại hình doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ nên việc đầu tư vốn sản suất
không yêu cầu quá lớn, hơn nữa chu kỳ sản suất của các doanh nghiệp này
thường vào các DNVVN sẽ tăng khả năng thu hồi vốn, tiếp tục tái cấp tín dụng

mới, DN cần có nguồn vốn mang tính chất ổn định và mang tính dài hạn. Hầu
hết các doanh nghiệp được thành lập mới trong những năm gần đây, chưa xây
dụng được hình ảnh riêng, chưa có uy tín nên việc vay vốn ngân hang còn gặp
nhiều khó khăn. Bởi vậy nguồn vốn và công nghệ còn hạn chế, thu nhập thấp.
Các doanh nghiệp này hoạt động chủ yếu dựa vào nguồn vốn tự có và vay trên
thị trường tài chính phi chính thức, ít tiếp cận với nguồn vay của ngân hang do
không đảm bảo được các điều kiện cần thiết đặc biệt là tài sản đảm bảo.
- Thứ tư: Trình độ người quản lý còn yếu kém, tay nghề của người lao
động chưa cao.Các doanh nghiệp được thành lập chủ yếu là các doanh nghiệp
gia đình. Do vậy trình độ quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh thường theo
thói quen làm việc và dựa vào mối quan hệ tray ỳ trông công việc, không có
nguyên tắc làm việc,… kỹ năng chuyên môn. Hơn nữa quản lý theo thị trường
hiện đại đang thiếu. Các doanh nhân, các nhà quản lý DN chưa được đào tạo,
thiếu nhiều về hiểu biết quản lý doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế.
Người lao động trong DNVVN có tay nghề kém, ít qua trường lớp đào
tạo cơ bản, chủ yếu được chuyền nghề theo kiểu cha truyền con nối, lao động
phổ thong, trình độ tay nghề đơn giản, chưa được đào tạo chiếm 60-70R lực
lượng lao động trong các DNVVN. Người lao động chưa chưa được đào tạo tác
phong công nghiệp nên thường phải đào tạo lại.
Bảng 1: Trình độ học vấn, đào tạo của lao động doanh nghiệp năm
1995.
(Đơn vị:%)
Bởi vậy, DNVVN muốn khắc phục những hạn chế này, bản than doanh
nghiệp phải tự vận động kế hợp với hỗ trợ của Nhà nước trong việc đào tạo, đào
tạo lại cán bộ công nhân, thợ lành nghề kỹ thuật cao, đội ngũ cán bộ quản lý
giỏi mới có thể vươn lên, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh, hôi nhập trong thời kỳ
hội nhập kinh tế mới.
- Thứ năm: Các DNVVN hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ,
gia công chế biến, thủ công mỹ nghệ là chủ yếu.

các loại hình doanh nghiệp khác, tạo việc làm và nâng cao đời sống cho người
lao động. Chính điều này giúp các ngân hang mở rộng tín dụng một cách dễ
dàng hơn.
2.3 Nguồn vốn của DNVVN:
Vốn là điều kiện không thể thiếu được để một doanh nghiệp được thành
lập và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn của doanh
nghiệp chia làm hai bộ phận: vốn chủ sở hữu và nợ.
a. Vốn chủ sở hữu:
Vốn chủ sở hữu gồm vốn góp ban đầu, lợi nhuận không không chia và
tăng vốn bằng phát hành cổ phiếu mới.
- Vốn góp ban đầu: Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ doanh
nghiệp cũng phải có một số vốn ban đầu nhất định do các cổ đông- chủ sở hữu
góp. Xét về hình thức sở hữu doanh nghiệp thì:
Đối với doanh nghiệp nhà nước, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của
Nhà nước. Chủ sở huux của doanh nghiệp Nhà nước là Nhà nước.
Đối với các doanh nghiệp, theo luật doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp phải
có một số vốn ban đầu cần thiết để xin đăng ký thành lập doanh nghiệp. Ví dụ
đối với công ty cổ phần vốn do các cổ đông đóng góp, mỗi cổ đông là một chủ
sở hữu của công ty và chịu trách nhiệm hữu hạn trên giá trị số cổ phần mà họ
nắm giữ.
- Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia:
Nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận không chia là bộ phận lợi nhuận được sử
dụng tái đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia- nguồn vốn nội bộ là một phương
thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của các doanh nghiệp, vì
doanh nghiệp giảm được chi phí, bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Nhiều doanh
nghiệp coi trọng chính sách tái đầu tư lợi nhuận để lại, nguồn vốn tái đầu tư từ
lợi nhuận để lại chỉ có thể thực hiện được nếu như doanh nghiệp đã và đang


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status