Phát triển du lịch sinh thái tại khu dự trữ sinh quyển rừng ngập mặn cần giờ - Pdf 85

PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Từ xa xưa, con người với trí tuệ và ham muốn tìm kiếm và khám phá
những chân trời mới đã không ngừng mở rộng phạm vi ảnh hưởng của
mình trên toàn thế giới. Theo tạp chí Người Đưa Tin của UNESSCO đã
viết: “Cuộc phiêu lưu giờ đây không còn những chân trời địa lý, không còn
những lục địa trinh bạch, không còn những đại dương chưa ai biết tới,
không còn những hòn đảo bí ẩn. Vậy mà, về nhiều mặt, các dân tộc vẫn
còn xa lạ với nhau và những phong tục, những niềm hy vọng ẩn giấu,
những xác tin sâu kín của mỗi dân tộc vẫn tiếp tục là thứ mà những dân tộc
khác chẳng mấy biết đến…”(12/1989). Các nhà du lịch thời nay vẫn mang
nguyên vẹn trong mình trái tim nóng bỏng lòng đam mê khám phá những
chân trời xa lạ, những núi cao, vực thẳm, những sông dài, biển rộng…
Tiếng gọi của thiên nhiên hùng vĩ, của rừng vàng biển bạc vẫn còn vang
vọng và lôi kéo bước chân của những “kẻ lang thang” trên bước đường du
ngoạn. Thêm vào đó, con người luôn bị quyến rũ bởi những gì đối lập với
thực tế mình đang sống, họ khao khát một cảm giác mới lạ, một chất xúc
tác mới cho cuộc sống và sự hiểu biết của mình. Khi ống khói của các nhà
máy, các xí nghiệp ngày một vươn cao chiếm lĩnh dần khoảng xanh của
bầu trời, dân số không ngừng gia tăng, đô thị hóa trở thành xu hướng
chung, các khu công nghiệp tập trung, các nhà cao tầng và khói bụi giao
thông tràn ngập khắp nơi thì nhu cầu tìm về với tự nhiên là một tất yếu.
Chính vì vậy, trào lưu du lịch sinh thái đã và đang phát triển mạnh ở nhiều
quốc gia dưới góc độ tiếp cận này.
1
Du lịch sinh thái ra đời vào cuối những năm 80 và phát triển mạnh
mẽ trong vài năm trở lại đây. Đối với một số quốc gia như Kenya, Ecuado,
Nepal, Costarica, Madagasxca,… du lịch sinh thái không phải là hoạt động
bên lề nữa, nó thực sự là một nguồn lợi quốc gia đem về một khoản ngoại
tệ lớn cho nguồn ngân sách quốc gia.
Du lịch sinh thái không chỉ đơn thuần là hoạt động tổ chức du lịch

trung gian với rất nhiều loài động thực vật khác nhau. Có một số loài có
tên trong sách đỏ Việt Nam như: Tắc kè, trăn đất, cá sấu hoa cà, rắn cạp
nong,…Từ năm 2000, khu du lịch sinh thái Vàm Sát nằm trong vùng lõi
của khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ được thành lập. Đến tháng 2/2003 tổ
chức du lịch thế giới công nhận khu du lịch Vàm Sát là một trong hai khu
du lịch sinh thái phát triển của thế giới.
Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng và phát triển khu du lịch sinh
thái rừng ngập mặn Cần Giờ có nhiều vấn đề đặt ra, như: môi trường, giao
thông vận tải, nhân lực…Vì vậy, đề tài “ PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH
THÁI TẠI KHU DỰ TRỮ SINH QUYỂN RỪNG NGẬP MẶN CẦN
GIỜ” trên cơ sở phân tích hiên trạng du lịch sinh thái tại rừng ngập mặn
Cần Giờ đưa ra một số kiến nghị nhằm giải quyết các vấn đề đặt ra trước
yêu cầu phát triển du lịch bền vững như vấn đề bảo vệ môi trường đặc thù,
3
xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý và các vấn đề về cộng đồng xã hội tại nơi
xây dựng khu du lịch sinh thái….Qua đề tài lần này hy vọng sẽ mang đến
một con đường phát triển mới trên nguyên tắc bảo tồn thiên nhiên cho rừng
ngập mặn Cần Giờ. Đồng thởi góp phần quảng bá cho du lịch Cần Giờ -
Thành Phố Hồ Chí Minh nói riêng và du lịch sinh thái nước ta nói chung.
2. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
2.1. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
- Nghiên cứu tổng quan về du lịch sinh thái rừng ngập mặn ở huyện
Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đánh giá thực trạng phát triển du lịch sinh thái rừng ngập mặn ở
Cần Giờ.
- Đề ra những giải pháp cho sự phát triển du lịch sinh thái nói
chung và du lịch sinh thái rừng ngập mặn ở Cần Giờ nói riêng.
2.2. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
- Tìm kiếm và thu thập thông tin chính xác và đầy đủ để phục vụ
cho việc trình bày và làm sáng tỏ đề tài.

nghiên cứu của Hội Du lịch sinh thái ( 1992-1993 ); chương trình môi
trường Liên hợp quốc ( 1979 ), Tổ chức du lịch thế giới ( 1994 ), đặc biệt
là các công trình nghiên cứu của Burns, Holden ( 1995 ); PATA ( 1993 );
5
Cater ( 1993 ); Glaser ( 1996 ); wright ( 1993 ). Đáng chú ý là công trình
nghiên cứu “ Du lịch sinh thái hướng dẫn cho các nhà lập kế hoạch và
quản lý “ của Kreg Lindberg ( 1999 ) và các chuyên gia của Hội Du lịch
sinh thái quốc tế. Những công trình nghiên cứu trên đã tạo cơ sở khoa học
và mở hướng cho việc nghiên cứu du lịch sinh thái ở Việt Nam.
5.2. Ở VIỆT NAM
Ngành du lịch ở Việt Nam chỉ thực sự phát triển trong khoảng 20
năm trở lại đây. Chính vì vậy việc nghiên cứu về các vấn đề du lịch vẫn
còn hạn chế, đặc biệt là vấn đề du lịch sinh thái.
Trong những năm qua, các công trình nghiên cứu như “ Đánh giá
tài nguyên du lịch Việt Nam “ do Viện nghiên cứu và Phát triển Du lịch;
công trình “ Đánh giá và khai thác các điều kiện tự nhiên và tài nguyên
thiên nhiên huyện Ba Vì ( Hà Tây ) phục vụ mục đích du lịch “ của Phó
tiến sĩ Đặng Duy Lợi( 1992 ); công trình “ Những định hướng lớn về phát
triển du lịch Việt Nam theo các vùng lãnh thổ “ của Tổng cục du lịch
( 1993 ); và công trình “ Thiết kế các tuyến điểm du lịch trong và ngoài
TP. Hồ Chí Minh đến năm 2010 “ của công ty Du lịch Sài Gòn Tourist
(1995 ) chỉ mới phác họa lên bức tranh du lịch ở Việt Nam và một phần
nào đó đánh giá chung hiện trạng phát triển du lịch ở trong nước, nhưng
chưa nói rõ về loại hình du lịch sinh thái.
Bên cạnh đó, trong những năm gần đây,ở nước ta đã xuất hiện các
công trình nghiên cứu về du lịch sinh thái.
• Năm 1995, Viện nghiên cứu Phát triển du lịch đã thực hiện
đề tài “ Hiện trạng và những định hướng cho công tác qui
6
hoạch phát triển du lịch vùng ĐBSCL ( 1996-2010 ) với mục

nhiều dự án đầu tư phát triển Vườn Quốc Gia, các khu Bảo
tồn thiên nhiên nhằm bảo tồn giá trị đa dạng sinh học và khai
thác du lịch sinh thái ở vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và
ĐBSCL, trong đó có các Vườn Quốc Gia Tràm Chim
( 1999 ), Phú Quốc ( 2001 ), U Minh Thượng ( 2001 ), khu
Bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng ( 2002 ). Các dự án
này đã phác thảo các sản phẩm du lịch sinh thái cần được
đưa vào khai thác du lịch sinh thái.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đã phần nào thể hiện
được hiện trạng du lịch sinh thái ở Việt Nam. Tuy nhiên, các công trình
nghiên cứu này chưa đi sâu vào mô hình du lịch sinh thái, bên cạnh đó
cũng chưa nghiên cứu rõ về du lịch sinh thái ,đặc biệt ở Cần Giờ.8
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ DU LỊCH VÀ DU LỊCH
SINH THÁI
1.1. DU LỊCH
1.1.1. KHÁI NIỆM DU LỊCH
Khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển, xã hội có nhiều tiến bộ hơn
trước, chính vì vậy việc thỏa mãn nhu cầu của con người trong cuộc sống
ngày nay là rất cao và cần thiết. Sau khoảng thời gian làm viêc và học tập
căng thẳng, con người muốn tự thưởng cho mình những chuyến du lịch. Từ
xa xưa, du lịch đã được xem là một sở thích, hay niềm đam mê của con
người. Đó là sự khám phá những vùng đất mới, những nền văn hóa mới
hay đơn giản chỉ là sự nghỉ dưỡng. Tuy nhiên, trước đây du lịch có thể chỉ
dành cho những người trong giới quý tộc, thượng lưu. Nhưng ngày nay, du
lịch đã được phát triển rộng hơn, nó không chỉ dành cho một tầng lớp nào
cả, mà nó đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống văn hóa

đầu về kinh tế và tài chính, người Mỹ cho rằng những cuộc khủng hoảng
về mặt chính trị, kinh tế, xã hội như các cuộc nội chiến, các cuộc chiến
tranh trong khu vực, nạn khủng bố, việc tăng giá xăng dầu, cùng với những
10
thiên tai như bão lụt, động đất, núi lửa… đều có tác động trực tiếp đến du
lịch, vì thế mà học gọi du lịch là “ ngành công nghiệp béo bệu “. Còn
người Nam Tư thì xem du lịch là “ tấm hộ chiếu đi đến một thế giới hòa
bình “. Mỗi quan niệm của mỗi quốc gia là mỗi khía cạnh của du lịch.
Nhung nếu nhìn một cách tổng quát, tập hợp những quan niệm này thi ta sẽ
thấy rõ hơn về khái niệm du lịch.
Tuy nhiên trong vòng 6 thập kỉ vừa qua, kể từ khi thành lập Hiệp
hội quốc tế các tổ chức du lịch IUOTO ( International of Union Official
Travel Organization ) năm 1925 tại Hà Lan, khái niệm du lịch luôn luôn
được tranh luận. Trong những hoàn cảnh ( thời gian, không gian ) khác
nhau, dưới mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau, mỗi quốc gia và mỗi nhà
nghiên cứu đều có những cách hiểu khac nhau về khái niệm du lịch. Một
người nghiên cứu về du lịch đã từng nhận định rằng :” Đối với du lịch có
bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy nhiêu định nghĩa”. Đầu tiên du lịch
được hiểu là việc đi lại của một cá nhân hay một nhóm người rời khỏi chỗ
ở của mình để đi đến những khu vực xung quanh để nghỉ ngơi, thư giãn,
khám phá những điều mới lạ hay để chữa bệnh. Bên cạnh đó cũng còn rất
nhiều những khái niệm khác nhau. Nhà nghiên cứu học Ausher và Viện sĩ
Nguyễn Khắc Viện đã đưa ra những khái niệm về du lịch khá ngắn gon và
xúc tích. Ausher định nghĩa rằng “ du lịch là nghệ thuật đi chơi của các cá
nhân “, còn Viện sĩ Nguyễn Khắc Viện thì cho rằng “ du lịch là sự mở rộng
không gian văn hóa của con người “. Trong quyển sách “ Du lịch và kinh
doanh du lịch “, PTS Trần Nhạn đã đưa ra khái niệm về du lịch như sau “
Du lịch là quá trình hoạt động của con người rời khỏi quê hương mình đến
11
một nơi khác với mục đích chủ yếu là được thẩm nhận những gái trị vật

*Du lịch mạo hiểm ( Adventure tourism ): là loại hình du lịch liên
quan đến hoạt động khám phá những miền đất xa xôi hẻo lánh, hứa hẹn
những cuộc phiêu lưu và những điều bất ngờ. Khi giới trẻ có khuynh
hướng muốn trải qua những cảm giác mạnh, những kinh nghiệm bất
ngờ, khác với những kì nghỉ truyền thống thì du lịch mạo hiểm là lựa
chon số một cho họ. Ngày nay, loại hình du lịch nay đang được phát
triển rộng trên thế giới, đặc biệt là ở các nước Phương Tây. Tuy nhiên
du lịch mạo hiểm cũng rất kén các du khách, nó đòi hỏi ở du khách khả
năng chịu đựng và một mức độ dũng cảm nào đó vì nó rất nguy hiểm
cho tính mạng của những du khách.
*Du lịch nông trại hay làng quê ( Agritourism ): là những tour du
lịch mà điểm đến của nó là những nông trại hay một làng quê diển hình.
Tham gia tour du lịch này sẽ giúp cho bạn hiểu rõ về cuộc sống cũng
như công việc của những bác nông dân.
*Du lịch ghế bành ( Amchair Tourism ) hay còn gọi là du lịch ảo
(virtual Tourism ) là hình thức mà ban không phải đi đâu khỏi chỗ ở của
bạn. Nếu bạn có một chiếc ti vi hay một chiếc may vi tính nối mạng bạn
13
sẽ có thể có những chuyến du lịch đến những nơi ban muốn ngay tại nhà
của bạn.
*Du lịch văn hóa ( Cultural tourism ) là loại hình phổ biến trong du
lịch, tập trung mối quan tâm đến một quốc gia hay một vùng đất nào đó
chủ yếu dưới góc độ văn hóa. Du lịch văn hóa bao gồm các tuyến du
lịch đến một đô thị có một bề dày lịch sử hoặc những thành phố lớn
cùng các công trình văn hóa của nó như các viện bảo tàng, nhà hát…
Hình thức này cũng bao gồm, mặc dù không phổ biến lắm, việc đưa các
du khách đến những vùng hẻo lánh để dự các lễ hội ngoài trời, đi thăm
những nơi ở của các danh nhân văn hóa, những công trình kiến trúc hay
những thắng cảnh thiên nhiên được biết đến và ca ngợi qua văn chương
hội họa. Thông thường, du khách có hứng thú thưởng thức các giá trị

*Du lịch thể thao ( Sport tourism ) gắn liền với các sự kiên thể
thao.
*Du lịch vũ trụ (Space tourism ) là một loại hình du lịch mới nổi
lên trong những năm gần đây do nhu cầu của một số nhà tỷ phú. Họ
muốn được tận hưởng những điều khác thường khi được bay lên các vì
sao và các hành tinh khác trong vũ trụ. Mỗi tour du lịch này khá là tốn
kém.
15
* Du lịch thời trang (Fashion tourism ) thường được tổ chức ở Pari
(Pháp) hay Bắc Kinh (Trung Quốc), những tour du lịch này thường kết
hợp với những sự kiện thời trang, và kết hợp với việc mua sắm ‘hàng
hiệu’.
* Điện ảnh đi trước du lịch theo sau: thăm trường quay, rạp chiếu
phim công nghệ cao, gặp gỡ thần tượng điện ảnh…
Ngoài các du lịch trên, ở mỗi quốc gia đều có cho mình những đặc
trưng của các loại hình du lịch.
1.1.2.2. Ở VIỆT NAM
Đối với nhiều quốc gia, nhiều địa phương, ngành du lịch đã và
đang trở thành kinh tế mũi nhọn. Hoạt động của du lịch phát triển theo
hướng bền vững mang lại những lợi ích thiết thực cho cộng đồng, chẳng
những không phá hủy hoặc làm suy thoái các nguồn tài nguyên du lịch,
mà còn đóng góp vào sự tăng trưởng về kinh tế, xã hội và môi trường.
Chính vì vậy, việc đa dạng hóa các loại hình du lịch đang là nỗ lực
của các nước trên thế giới nhằm hấp dẫn du khách, trong đó Việt Nam
cũng không ngoại lệ, nhất là khi chúng ta đang nhắm tới những mục tiêu
vào năm 2010: Thủ đô cùng cả nước long trọng kỷ niệm 1000 năm
Thăng Long - Hà Nội
Nằm trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam được thiên nhiên ban
tặng nguồn tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng với những danh lam,
thắng cảnh nổi tiếng. Bên cạnh đó, lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và

*Du lịch thể thao: dù lượn ở Nha Trang, Tuần Châu, sân gôn Đồng
Mô…
1.2. DU LỊCH SINH THÁI
1.2.1. KHÁI NIỆM DU LỊCH SINH THÁI
Du lịch sinh thái là một loại hình du lịch thiên nhiên. Du lịch sinh
thái đã và đang trên đà chuyển mình và trở nên phổ biến đối với những
người yêu thiên nhiên, thích khám phá những điều mới mẻ trong thiên
nhiên. Có thể nói du lịch sinh thái xuất phát từ những trăn trở về môi
trường, kinh tế-xã hội – một trong những cách thức để trả nợ cho môi
trường tự nhiên và làm tăng giá trị của các khu bảo tồn thiên nhiên còn lại.
Du lịch sinh thái (ecotourism) là khái niệm tương đối mới và đã
nhanh chóng thu hút được sự quan tâm của nhiều người hoạt động trong
nhiều lĩnh vực khác nhau. Đây là một khái nhiệm rộng được hiểu theo
những cách khác nhau từ những góc độ tiếp cận khác nhau.
Du lịch sinh thái bắt nguồn từ thiên nhiên và du lịch ngoài trời. Có
người quan niệm du lịch sinh thái là loại hình du lịch có lợi cho sinh thái, ít
có những tác động tiêu cực đến sự tồn tại và phát triển của sinh thái, nơi
diễn ra các hoạt động du lịch. Cũng có ý kiến cho rằng: Du lịch sinh thái
đồng nghĩa với du lịch đạo lý, du lịch có trách nhiệm, du lịch xanh, du lịch
có lợi cho môi trường hay có tính bền vững.
18
Ở Việt Nam, trong lần hội thảo về “Xây dựng chiến lược phát triển
Du lịch sinh thái ở Việt Nam” từ ngày 7/9/1999 đến 9/9/1999 đã đưa ra
định nghĩa về du lịch sinh thái là: “Du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa
vào thiên nhiên và văn hóa bản địa, gắn với giáo dục môi trường, có đóng
góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững, với sự tham gia tích cực của
cộng đồng địa phương.
Ngoài những khái niệm và định nghĩa trên còn có một số định
nghĩa rộng hơn về du lịch sinh thái
“ Du lịch sinh thái là một loại hình du lịch lấy các hệ sinh thái đặc

trường sinh thái : tài nguyên sinh vật đa dạng sinh học và đang bị đe dọa
đến mức báo động, các dạng tài nguyên môi trường đất, nước, không khí
cũng đang trên đà suy thái và ô nhiễm.
Cho đến nay, khái niệm Du lịch sinh thái vẫn còn được hiểu dưới
nhiều góc độ khác nhau, với những tên gọi khác nhau. Mặc dù, những
tranh luận vẫn còn đang diễn tiến nhằm tìm ra một định nghĩa chung nhất
về Du lịch sinh thái, nhưng đa số các ý kiến của các chuyên gia hàng đầu
về Du lịch sinh thái đều cho rằng Du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa
vào thiên nhiên, hỗ trợ cho các hoạt động bảo tồn và được nuôi dưỡng,
20
quản lý theo hướng bền vững về mặt sinh thái. Du khách sẽ được hướng
dẫn tham quan với những diễn giải cần thiết về môi trường để nâng cao
hiểu biết, cảm nhận được giá trị thiên nhiên và văn hóa mà không gây ra
những tác động không thể chấp nhận đối với các hệ sinh thái và văn hóa
bản địa. Du lịch sinh thái nói theo một nghĩa nào chăng nữa thì nó phải hội
tụ các yếu tố cần, đó là: sự quan tâm tới thiên nhiên và môi trường; trách
nhiệm với xã hội và cộng đồng.
Cứu thiên nhiên bằng cách du lịch hóa vào trong điều kiện thiên
nhiên đó không còn là cách thức mới mẻ đối với các doanh nghiệp lữ hành.
Tuy nhiên, để cứu nó đúng nghĩa đang là vấn đề làm đau đầu nhiều nhà
điều hành và quản lý du lịch. Du lịch sinh thái chú trọng vào tài nguyên và
nhân công địa phương, đây là một sự thu hút hấp dẫn đối với các nước
đang phát triển. Du lịch sinh thái tạo nên những khao khát và sự thõa mãn
về thiên nhiên, kích thích lòng yêu mến thiên nhiên và từ đó mới thôi thúc
được ý thức bảo tồn và phát triển nhằm ngăn ngừa các tác động tiêu cực
lên tự nhiên, văn hóa và thẩm mỹ.
1.2.2. CÁC TÀI NGUYÊN DU LỊCH SINH THÁI
Tài nguyên du lịch sinh thái được phân thành tài nguyên tự nhiên và
tài nguyên nhân văn có quan hệ mật thiết với các nhân tố con người và xã
hội. Nói đến tài nguyên du lịch sinh thái, ta không thể không kể đến tài

- Trình độ tổ chức quản lý đối với việc khai thác tài nguyên du
lịch sinh thái.
Nói chung tài nguyên du lịch sinh thái rất đa dạng và phong phú.
Một số loại tài nguyên du lịch sinh thái chính thường được khai thác và
phục vụ nhu cầu của khách du lịch sinh thái bao gồm:
- Các hệ sinh thái tự nhiên đặc thù, đặc biệt là nơi có tính đa
dạng sinh học cao với nhiều loại sinh vật đặc hữu, quý hiếm
( các vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên, các khu dự
trữ sinh quyển…)
- Các hệ sinh thái nông nghiệp ( vườn cây ăn trái, làng hoa…)
- Các giá trị văn hóa bản địa có sự hình thành và phát triển gắn
liền với sự tồn tại và phát triển của hệ sinh thái tự nhiên như:
các phương thức canh tác, các lễ hội, sinh hoạt truyền thống
dân tộc…
1.2.3. DU LỊCH SINH THÁI Ở CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
Trên thế giới hiện nay đã có rất nhiều dự án về du lịch sinh thái,
dưới đây chúng tôi xinh đưa ra một số dự án điển hình:
• “Khu dự trữ Khỉ đột ở Rừng Không thể băng qua Bwindi”
ở Uganda. Đây là nơi có chứa khoảng một nữa (300) của
số khỉ đột
23
miền núi còn lại, khu dự trữ này trích ra 60% thu nhập
ròng của mình cho phát triển cộng đồng mà tương hợp với
việc bảo tồn. Du lịch thưởng ngoạn này kiếm được vào
khoảng 400000 USD/năm, làm cho khu Bwindi trở thành
khu kiếm được doanh thu cao nhất trong các khu công viên
của Uganda. (Honey-80).
• “Khu bảo tồn Annapuma” ở Nepal. Khởi đầu vào năm
1985 để chống chọi với các tác động về môi trường của
những người tiên hành các cuộc hành trình bằng xe bò và

xinh đẹp, rất gần gũi nhưng tinh khôi, rất độc đáo lại hiền hòa, duyên
dáng…là điểm du lịch sinh thái đầy háp dẫn, quyến rũ du khách trong
và ngoài nước. Nhưng mỗi nơi mỗi vẻ, thích hợp cho các loại hình du
lịch sinh thái, du khách có thể đến tham quan, nghiên cứu, hội họp, giải
trí…
(4). Du lịch sinh thái, Lê Huy Bá, 2006, Tr 185, 186, 187
Một số loại hình du lịch sinh thái phổ biến ở Việt Nam như :
25

Trích đoạn GIÁ TRỊ KINH TẾ TỪ HOẠT ĐỘNG SINH THÁ VỀ BẢO VỆ YẾU TỐ SINH THÁI MÔI TRƯỜNG ĐẶC THÙ CỦA RỪNG NGẬP MẶN ĐỐI VỚI NHỮNG CƯ DÂN ĐỊA PHƯƠNG VỀ VIỆC XÂY DỰNG VÀ QUẢNG BÁ THƯƠNG HIỆU PHẦN KẾT LUẬN
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status