Hoàn thiện quy trình đánh giá rủi ro trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán do Công ty TNHH kiểm toán An Phú thực hiện - Pdf 88

trờng đại học kinh tế quốc dân
KHOA Kế TOáN
---------***---------
KHểA LUN TT NGHIP
Đề tài:
HON THIN QUY TRèNH NH GI RI RO KIM
TON TRONG GIAI ON LP K HOCH KIM TON
DO CễNG TY TNHH KIM TON AN PH THC HIN
GVHD : GS.TS NGUYN QUANG QUYNH
H v tờn sinh viờn : V TH PHNG LIấN
Chuyờn ngnh : KIM TON
Lp : KIM TON 46B
Khúa : 46
H : CHNH QUY

Hà Nội 6/ 2008
V Th Phng Liờn Kim toỏn 46B

Trường Đại học Kinh tế quốc dân Khoa Kế toán
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trung bình ...................................................................................................18
Thấp.............................................................................................................18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................99
Vũ Thị Phương Liên Kiểm toán 46B
i
Trường Đại học Kinh tế quốc dân Khoa Kế toán
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Tiếng Việt:
Số thứ tự Từ viết tắt Viết đầy đủ
1 BCTC Báo cáo tài chính

đánh giá rủi ro kiểm soát.................................................................29
Sơ đồ 2.1: Tổ chức bộ máy quản lý của Công ty TNHH Kiểm toán An Phú 40
Sơ đồ 2.2: Quy trình kiểm toán tại Công ty TNHH Kiểm toán An phú..........44
Vũ Thị Phương Liên Kiểm toán 46B
iii

Trường Đại học Kinh tế quốc dân Khoa Kế toán
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Từ khi nước ta thực hiện công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến nay, các doanh nghiệp lớn nhỏ ở Việt
Nam ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Cùng với sự
đòi hỏi tính minh bạch của báo cáo tài chính thì nhu cầu sử dụng các dịch vụ
kiểm toán của các công ty và các doanh nghiệp càng cao. Hiện nay, xã hội đã
từng bước nhận thức được tầm quan trọng của kiểm toán độc lập gắn liền với
sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Từ đó, đã tạo ra một môi trường rất
thuận lợi cho các Công ty kiểm toán phát triển, mở rộng tầm hoạt động. Mặt
khác, nó cũng đặt ra một thách thức lớn đối với các Công ty kiểm toán. Chất
lượng kiểm toán phải không ngừng được nâng cao. Chất lượng cuộc kiểm
toán phải có được thông qua việc kiểm toán viên tuân thủ chuẩn mực kiểm
toán, hiểu biết đầy đủ về khách hàng, đánh giá rủi ro tổng thể và chi tiết. Vì
vậy để có được một cuộc kiểm toán hữu hiệu và hiệu quả thì cần thiết phải
tiếp cận kiểm toán dựa trên rủi ro. Việc thực hiện đánh giá rủi ro được thực
hiện xuyên suốt trong quá trình kiểm toán. Trong đó quan trọng nhất là giai
đoạn lập kế hoạch kiểm toán. Công ty TNHH Kiểm toán An Phú là một Công
ty kiểm toán trong nước, mới được thành lập trong thời gian chưa lâu nên việc
xây dựng một quy trình chuẩn để đánh giá rủi ro vẫn còn nhiều hạn chế.
Chính vì nhận thấy tầm quan trọng của việc đánh giá rủi ro trong giai
đoạn lập kế hoạch kiểm toán báo cáo tài chính nên Em đã chọn Đề tài Khóa
luận tốt nghiệp của mình là: "Hoàn thiện quy trình đánh giá rủi ro trong giai

kiến thức còn nhiều hạn chế nên Khóa luận của Em không thể tránh được
những sai sót nhất định. Em rất mong các thầy cô giáo và các bạn đóng góp ý
kiến để Khóa luận của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn
Thầy Nguyễn Quang Quynh, cùng các anh chị tại Công ty TNHH kiểm toán
An Phú đã nhiệt tình hướng dẫn em hoàn thành Khóa luận này.
Vũ Thị Phương Liên Kiểm toán 46B
Trường Đại học Kinh tế quốc dân Khoa Kế toán
Chương I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÁNH GIÁ RỦI RO
KIỂM TOÁN TRONG GIAI ĐOẠN LẬP KẾ HOẠCH
KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1 Lý luận cơ bản về rủi ro kiểm toán
1.1.1 Kiểm toán với rủi ro
Kiểm toán là một quá trình một người độc lập có nghiệp vụ tập hợp và
đánh giá các bằng chứng về thông tin có thể lượng hóa được, có liên quan tới
một thực thể kinh tế riêng biệt nhằm mục đích xác định và báo cáo mức độ
phù hợp giữa thông tin có thể lượng hóa được và những tiêu chuẩn đã được
thiết lập. Kiểm toán tài chính là hoạt động đặc trưng nhất của kiểm toán bởi
nó chứa đựng đầy đủ các sắc thái kiểm toán ngay từ khi ra đời cũng như trong
quá trình phát triển. Kiểm toán tài chính là quá trình sử dụng các phương
pháp kĩ thuật nghiệp vụ và các thủ tục kiểm toán nhằm thu thập các bằng
chứng kiểm toán cần thiết làm cơ sở cho việc xác minh và bày tỏ ý kiến về
tính trung thực và hợp lí của các bảng khai tài chính đã lập so với những
chuẩn mực chung được chấp nhận. Đối tượng trực tiếp của kiểm toán tài
chính là bảng khai tài chính. Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam Số 700 đoạn
07: “Ý kiến của kiểm toán viên đưa ra trên báo cáo kiểm toán một sự đảm báo
chắc chắn rằng báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các
khía cạnh trọng yếu; Nhưng không đảm bảo tuyệt đối rằng không có bất kì một
sai sót nào trên báo cáo tài chính đã được kiểm toán. Kiểm toán viên chỉ quan
tâm đến các yếu tố trọng yếu của các báo cáo tài chính”.
(3)

Đã có rất nhiều các quan điểm khác nhau về rủi ro. Có quan điểm cho
rằng rủi ro chỉ liên quan đến các thiệt hại đã thực tế xảy ra (rủi ro không đối
xứng). Có quan điểm lại cho rằng rủi ro không chỉ liên quan đến các thiệt hại
đã thực tế xảy ra mà còn liên quan đến may mắn (rủi ro đối xứng). Theo một
cách chung nhất thì rủi ro chỉ những sự kiện có thể xảy ra nằm ngoài ý muốn
và khi xảy ra sẽ mang lại kết quả không có lợi. Rủi ro còn được hiểu là sự sai
Vũ Thị Phương Liên Kiểm toán 46B
Trường Đại học Kinh tế quốc dân Khoa Kế toán
lệch giữa dự kiến và thực tế đã xảy ra. Rủi ro không những chỉ sự ngờ vực sẽ
xảy ra những hậu quả xấu trong tương lai mà nó còn ám chỉ những hậu quả có
thể xảy ra ở hiện tại và dẫn đến những khó khăn hoặc sự bất lợi ở hiện tại.
Trong cuốn sách “Bảo hiểm quốc tế về nguyên tắc và thực hành” do Học viện
Hoàng gia Anh xuất bản năm 1993 có định nghĩa cho rằng: “Rủi ro là khả
năng xảy ra một sự cố không may; Rủi ro là sự không đoán trước được một
tình huống, một khuynh hướng dẫn đến kết quả thực tế khác với kết quả dự
đoán; rủi ro là sự kết hợp các nguy cơ; rủi ro là sự không chắc chắn về những
tổn thất; Rủi ro là khả năng xảy ra những tổn thất
(4)
. Các quan điểm đều đề
cập đến các sự việc không chắc chắn xảy ra trong tương lai. Nhìn chung các
quan điểm đều cho rằng hậu quả xảy ra do một hoặc nhiều nguyên nhân gây
nên. Từ điển Tiếng việt cho rằng: ” Rủi ro là điều không lành, không tốt bất
ngờ xảy đến
(9)
. Từ điển Bách khoa Việt Nam đưa ra định nghĩa về rủi ro như
sau: ”Rủi ro là hậu quả gây thiệt hại ít nhiều có thể dự kiến được của một hành
vi mà việc thực hiện không chỉ phụ thuộc vào ý chí của bên đương sự. Người
thực hiện hành vi phải chịu trách nhiệm về thiệt hại gây nên cho người kia”
(10)
.

toán công việc của các KTV đó là đánh giá rủi ro kiểm toán. Việc đánh giá rủi
ro kiểm toán cần được quan tâm và thực hiện ngay từ trước khi chấp nhận
kiểm toán và đặc biệt là trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán.
Từ điển Thuật ngữ Kế toán - Kiểm toán do TS Thịnh Văn Vinh và Đỗ
Đức Quốc Trị biên soạn, đã định nghĩa như sau: “Rủi ro kiểm toán là một
phạm trù dùng để chỉ trường hợp kiểm toán viên đã đưa ra một ý kiến kiểm
toán không phù hợp với báo cáo tài chính. Báo cáo tài chính đã kiểm toán vẫn
chứa đựng những sai lầm nghiêm trọng ”
(12)
.
Theo định nghĩa của Nguyên tắc chỉ đạo kiểm toán quốc tế IAG 25,
”Trọng yếu và rủi ro” : “Rủi ro kiểm toán là những rủi ro mà KTV có thể mắc
phải khi đưa ra nhận xét không xác đáng về các thông tin tài chính và nó là sai
Vũ Thị Phương Liên Kiểm toán 46B
Trường Đại học Kinh tế quốc dân Khoa Kế toán
sót nghiêm trọng”
(6)
. Những nhận xét không xác đáng chủ yếu theo hướng
KTV sẽ kết luận là các BCTC được trình bày trung thực và hợp lí, do đó công
bố một ý kiến chấp nhận toàn phần trong khi chúng bị sai sót trọng yếu.
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam Số 400 (VSA 400) giải thích về rủi ro kiểm
toán như sau: “Rủi ro kiểm toán là rủi ro do KTV và công ty kiểm toán đưa ra
ý kiến nhận xét không thích hợp trong khi BCTC đã được kiểm toán vẫn còn
chứa đựng những sai sót trọng yếu. Rủi ro kiểm toán bao gồm ba bộ phận: rủi
ro tiềm tàng; rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện”
(3)
. Nói tóm lại đã có nhiều
định nghĩa khác nhau về rủi ro kiểm toán. Các định nghĩa nhìn chung đều chỉ
ra rằng rủi ro kiểm toán là những nhận xét không xác đáng chủ yếu theo
hướng kiểm toán viên sẽ kết luận là các BCTC được trình bày trung thực và

kiểm toán đã đủ thì rủi ro kiểm toán vẫn có khả năng xảy ra. Chi phí kiểm
toán và rủi ro kiểm toán có mối quan hệ tỉ lệ nghịch với nhau. Ví dụ số lượng
bằng chứng kiểm toán càng nhiều thì rủi ro kiểm toán càng thấp và ngược lại.
Mối quan hệ giữa rủi ro kiểm toán và chi phí kiểm toán được minh họa qua sơ
đồ sau:
Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa chi phí kiểm toán và rủi ro kiểm toán
Rủi ro đạt tới
Rủi ro mong muốn
Bằng chứng kiểm toán (Chi phí)
Vũ Thị Phương Liên Kiểm toán 46B
M

c

r

i

r
o

k
i

m

t
o
á
n

có nói: “Rủi ro tiềm tàng là những yếu điểm của số dư tài khoản hoặc của một
loại nghiệp vụ, đối với những sai sót này có thể đơn lẻ hoặc có thể kết hợp với
các sai sót ở những số dư, các nghiệp vụ khác (ở đây giả định là không có các
quy chế kiểm soát nội bộ có liên quan). Rủi ro tiềm tàng nằm trong chức năng
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, trong môi trường kinh doanh cũng
như nằm trong bản chất của số dư tài khoản hoặc các nghiệp vụ”
(6)
.
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam Số 400 (VSA 400) cho rằng: “ Rủi ro
tiềm tàng là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản
mục trong BCTC chứa đựng những sai sót trọng yếu khi tính riêng rẽ hoặc tính
gộp, mặc dù có hay không có hệ thống kiểm soát nội bộ”
(3)
.
Như vậy, theo một cách chung nhất rủi ro tiềm tàng là sự nghi ngờ về
một số dư tài khoản nào đó trong một khoản mục hay nghiệp vụ nào đó mà
sai sót có thể xảy ra giả sử rằng không có một bước kiểm soát nội bộ liên
quan nào. Rủi ro tiềm tàng có quy mô lớn hay nhỏ phụ thuộc vào đặc điểm
tình hình kinh doanh của khách thể kiểm toán, loại hình kinh doanh của khách
thể kiểm toán.
Trong thực tế, để đánh giá rủi ro tiềm tàng KTV có thể dựa vào nhiều
nguồn thông tin khác nhau. Chẳng hạn, KTV có thể dựa vào kết quả của cuộc
kiểm toán trước. Ví dụ, nếu kết quả cuộc kiểm toán năm trước chỉ ra rằng
không phát hiện bất kì một sai phạm trọng yếu nào thì KTV nên đánh giá khả
năng tiềm ẩn rủi ro tiềm tàng sẽ lớn và phải chú ý nhiều. Hoặc thông qua việc
thu thập các thông tin về ngành nghề kinh doanh của khách thể kiểm toán, về
chính sách kinh tế, tài chính kế toán của đơn vị được kiểm toán, KTV có thể
hiểu được bản chất kinh doanh của đơn vị, hiểu được tính chất phức tạp của
các nghiệp vụ… và từ đó có thể đưa ra dự đoán của mình về rủi ro tiềm tàng.
Rủi ro kiểm soát (Control Risk) – CR là khả năng hệ thống kiểm soát

(3)
.
Như vậy, một cách chung nhất rủi ro kiểm soát là sự đánh giá về cơ cấu
Vũ Thị Phương Liên Kiểm toán 46B
Trường Đại học Kinh tế quốc dân Khoa Kế toán
của hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng có hiệu quả với việc ngăn
chặn, phát hiện các sai sót hay không. Mục đích của KTV là đánh giá rủi ro
kiểm soát của khách hàng ở một mức nhỏ hơn mức tối đa trong khi lập kế
hoạch kiểm toán. Kiểm toán viên đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của
khách hàng hoạt động không hiệu quả trong việc ngăn ngừa và phát hiện các
sai phạm thì sẽ phân bổ 100% yếu tố rủi ro cho rủi ro kiểm soát. Kiểm toán
viên xét thấy hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng hoạt động có hiệu quả
thì yếu tố rủi ro được phân bổ cho rủi ro kiểm soát ở mức thấp.
Rủi ro kiểm soát có mối quan hệ tỉ lệ thuận với số lượng bằng chứng
kiểm toán cần thu thập và quan hệ tỉ lệ nghịch với rủi ro phát hiện. Thí dụ,
nếu KTV kết luận là hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng hoạt động có
hiệu quả, rủi ro phát hiện có thể tăng lên và do đó rủi ro kiểm soát giảm
xuống. Rủi ro kiểm soát giảm xuống thì số lượng bằng chứng kiểm toán cần
thu thập sẽ giảm xuống. Kiểm toán viên có thể tăng mức rủi ro phát hiện (tức
là giảm rủi ro kiểm soát) khi xét thấy hệ thống kiểm soát nội bộ của khách
hàng hoạt động tốt, bởi vì khi hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động tốt thì sẽ
làm giảm các sai sót trong BCTC.
Do những hạn chế cố hữu của hệ thống kiểm soát nội bộ nên rủi ro
kiểm soát luôn xuất hiện và khó tránh khỏi.
Rủi ro phát hiện (Detection Risk) – DR là khả năng mà các thủ tục
kiểm toán không phát hiện được các sai phạm trọng yếu. Văn bản chỉ đạo
Kiểm toán Quốc tế Số 25 cho rằng: “Rủi ro phát hiện là những rủi ro mà kiểm
tóan không phát hiện ra các sai sót hiện có trong các số dư tài khoản, các loại
nghiệp vụ. Các sai sót này có thể là các sai sót nghiêm trọng xảy ra đơn lẻ
hoặc có thể kết hợp với các sai sót trong số dư các nghiệp vụ khác. Mức rủi ro

dụng là không phù hợp, hoặc áp dụng sai phương pháp kiểm toán đã chọn,
hoặc khi đã có kết quả thực tế của cuộc kiểm toán thì KTV lại đưa ra các đánh
giá và nhận xét sai lầm. Các nguyên nhân xảy ra rủi ro phát hiện có thể khái
quát như sau:
Thứ nhất: Kiểm toán viên áp dụng các bước kiểm toán không phù hợp.
Vũ Thị Phương Liên Kiểm toán 46B
Trường Đại học Kinh tế quốc dân Khoa Kế toán
Điều này xảy ra với các KTV mới vào nghề, thiếu kinh nghiệm hoặc quá trình
lập kế hoạch kiểm toán không được thực hiện một cách đúng đắn, khiến cho
việc thực hiện các quy trình kiểm toán đối với mỗi phần hành trở nên không
hợp lí.
Thứ hai: Kiểm toán viên đã tìm được bằng chứng, nhưng không tìm
được nguyên nhân gây sai sót dẫn đến kết luận sai về bản chất của khoản
mục hoặc nghiệp vụ đó cũng như BCTC.
Thứ ba: Các BCTC bản thân cũng chứa đựng các sai sót, nhưng sự sai
sót đó là do bên trong doanh nghiệp đã có sự thông đồng để làm sai các chính
sách và chế độ của Ban quản trị đề ra nên KTV rất khó phát hiện ra gian lận
và sai sót.
Như vậy thông qua các định nghĩa trên có thể rút ra: rủi ro phát hiện là
mức độ mà KTV sẵn sàng chấp nhận do không thể tìm ra các sai sót nghiêm
trọng trong các BCTC bằng các phương pháp kiểm toán, với giả định rằng hệ
thống kiểm soát nội bộ của khách hàng có hoạt động nhưng không thể phát
hiện và sửa chữa các sai sót. Thông qua mức rủi ro phát hiện xác định kiểm
toán viên có thể xác định số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập. Khi
rủi ro phát hiện là thấp, KTV không chấp nhận những rủi ro của những bằng
chứng không phát hiện ra sai sót và cần phải thu thập một số lượng bằng
chứng đáng kể. Khi KTV chấp nhận rủi ro phát hiện tăng lên thì số lượng
bằng chứng kiểm toán sẽ giảm đi.
1.1.3 Mối quan hệ giữa các loại rủi ro - Mô hình rủi ro kiểm toán
Trong kiểm toán thường đề cập đến ba loại rủi ro chính là rủi ro tiềm

DR = AR/(IR*CR) (2)
Trong đó:
AR: Mức rủi ro kiểm toán mong muốn
IR: Mức rủi ro tiềm tàng do KTV đánh giá
CR: Mức rủi ro kiểm soát do KTV đánh giá
DR: Mức rủi ro phát hiện
Mô hình (1) biểu thị mối quan hệ giữa các loại rủi ro kiểm toán. Mô
hình này được kiểm toán viên sử dụng để điều chỉnh mức rủi ro phát hiện để
có mức rủi ro kiểm toán mong muốn. Hay nói cách khác, mô hình (1) dùng để
đánh giá tính hợp lí của kế hoạch kiểm toán đã được lập. Thí dụ: KTV muốn
thực hiện một cuộc kiểm toán cụ thể và muốn rủi ro kiểm toán đạt được ở
mức tương đối thấp (ví dụ là 0.05 có nghĩa là bình quân có khoảng 5% các
quyết định kiểm toán là không chính xác). Tất cả các rủi ro tiềm tàng và rủi ro
kiểm soát đều được đánh giá dựa trên kinh nghiệm và nhận định nghề nghiệp
của kiểm toán viên và có minh chứng cụ thể. Giả sử trong trường hợp này,
KTV cho rằng rủi ro tiềm tàng đối với đối tượng kiểm toán là rât lớn (KTV
đánh giá mức rủi ro tiềm tàng là 0.9). Qua nghiên cứu, KTV cho rằng hệ
thống kiểm soát nội bộ của khách hàng hoạt động không hiệu quả lắm nên
KTV đánh giá mức độ rủi ro kiểm soát ở mức 0.7. Nếu như, KTV muốn đạt
được mức rủi ro kiểm toán ở mức thấp như mong muốn (AR= 0.05) thì các
thủ tục kiểm toán cần phải được KTV thiết lập hợp lí sao cho rủi ro phát hiện
không được vượt quá 0.08.
Theo mô hình rủi ro (1), với những dự kiến đã nêu ta có kết quả như sau:
AR = IR * CR * DR
0.05 = 0.9 * 0.7 * DR  DR = 0.08
Nếu KTV nhận thấy mức rủi ro phát hiện là cao thì KTV có thể điều
Vũ Thị Phương Liên Kiểm toán 46B
Trường Đại học Kinh tế quốc dân Khoa Kế toán
chỉnh mức rủi ro kiểm toán mong muốn để giảm mức rủi ro phát hiện xuống.
nhưng rủi ro kiểm toán phải ở mức thấp cho phép.

không cần đến các bước thu thập bằng chứng kiểm toán.
AR = IR ( = 0) *CR*DR = 0
Thứ hai, KTV không thể đặt niềm tin tuyệt đối vào hệ thống kiểm soát
nội bộ để không cần đến các bước thu thập bằng chứng kiểm toán:
AR = IR*CR (=0)*DR =0
Thứ ba, KTV không thể được xem là đã thận trọng nghề nghiệp thích
đáng nếu như rủi ro của việc không phát hiện các sai phạm trọng yếu trong
đối tượng kiểm toán ở mức quá cao
Mối quan hệ giữa các loại rủi ro còn được minh họa bằng bảng sau:
Bảng 1.1: Mối quan hệ giữa các loại rủi ro
Rủi ro phát hiện được KTV
tính toán
Đánh giá của kiểm toán viên về
rủi ro kiểm soát
Cao Trung bình Thấp
Đánh giá của
kiểm toán viên về
rủi ro tiềm tàng
Cao Thấp nhất Thấp Trung bình
Trung bình Thấp Trung bình Cao
Thấp Trung bình Cao Cao nhất
Trong bảng trên:
Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được chia thành ban mức: thấp,
trung bình và cao.
Rủi ro phát hiện được chia ra làm năm mức: thấp nhất, thấp, trung bình,
cao và cao nhất. Tương ứng với mỗi mức độ đánh giá về rủi ro tiềm tàng, rủi
ro kiểm soát, thì KTV sẽ đánh giá được rủi ro phát hiện sao cho mức rủi ro
kiểm toán mong muốn ở mức thấp nhất.
Từ các mô hình rủi ro, các KTV có thể xác định được mối quan hệ giữa
Vũ Thị Phương Liên Kiểm toán 46B

4 Trung bình Trung bình Trung bình Trung bình Trung bình
5 Cao Thấp Trung bình Trung bình Trung bình
Thứ hai: Mô hình rủi ro kiểm toán vẫn chỉ mang tính kế hoạch. Một khi
các loại rủi ro đã được đánh giá theo kế hoạch thì mức độ của chúng sẽ ít bị
thay thế dựa trên các bằng chứng được thu thập khi tiến hành kiểm toán. Giả
sử KTV lập kế hoạch kiểm toán dựa trên mô hình rủi ro sau:
DAR =0.05
IR = 0.75  DR = 0.05 / (0.5 * 0.3) = 0.22
CR = 0.3
Khi khảo sát quá trình kiểm toán nội bộ, KTV phát hiện hệ thống kiểm
soát nội bộ hoạt động không hiệu quả như KTV đã đánh giá ban đầu. Như vậy
KTV sẽ phải thay đổi mức độ của rủi ro kiểm soát dựa trên bằng chứng kiểm
toán và khi đó phải tính toán lại mức độ rủi ro phát hiện.
Trong lập kế hoạch kiểm toán, cần sử dụng mô hình kiểm toán để đánh
Vũ Thị Phương Liên Kiểm toán 46B


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status