Hoàn thiện quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán trong Giai đoạn Lập Kế hoạch Kiểm toán Báo cáo tài chính do Công ty TNHH Ernst & Young Việt Nam thực hiện - Pdf 87

Luận văn tốt nghiệp
MỤC LỤC
1. Tên lớp nghiệp vụ/quy trình: ............................................................................................. 41
2. Bộ phận thực hiện lớp nghiệp vụ: .................................................................................... 41
1. Những nhân viên đã từng làm cho Ernst & Young đã chuyển sang ngân hàng XYZ làm
trong vòng năm 5năm lại đây có giữ những vị trí quan trọng về quản lý, kế toán và lập báo
cáo tài chính không? (như: Thành viên ban quản trị, Chủ tịch, Giám đốc điều hành, Giám
đốc tài chính, Kế toán trưởng, Nhân viên ban Kiểm soát, ban Tài chính, thành viên của bộ
phận Kiểm toán nội bộ, người Cố vấn…)? ........................................................................... 50
2. Ban quản trị có phong cách sống và làm việc không tốt. ................................................. 50
4. Ngân hàng cố gắng giới hạn phạm vi kiểm toán (trực tiếp hay ép buộc mức phí không
hợp lý) hoặc tìm mọi cách để áp đặt một thời hạn hoàn thành không khả thi. ..................... 50
1. Có những thay đổi đáng kể nào về người ký thư giới thiệu của ngân hàng hay không?
100
2.Chứng khoán của ngân hàng có được mua bán công khai không? Hay nói cách khác,
ngân hàng có giải trình công khai các chứng khoán ngân hàng nắm giữ hay không? (như
chứng khoán của các đơn vị chính quyền, các tổ chức tài chính, các công ty bảo hiểm,
các tổ chức công cộng và các tổ chức từ thiện) .............................................................. 100
3.Những nhân viên đã từng làm cho Ernst & Young đã chuyển sang ngân hàng XYZ
làm trong vòng năm 5năm lại đây có giữ những vị trí quan trọng về quản lý, kế toán và
lập báo cáo tài chính không? (như: Thành viên ban quản trị, Chủ tịch, Giám đốc điều
hành, Giám đốc tài chính, Kế toán trưởng, Nhân viên ban Kiểm soát, ban Tài chính,
thành viên của bộ phận Kiểm toán nội bộ, người Cố vấn…)? ....................................... 100
4.Có những thay đổi đáng kể nào từ lần gần nhất thực hiện đánh giá tiếp tục chấp nhận
khách hàng về hoạt động kinh doanh (như: khách hàng, sản phẩm, vận chuyển hàng hóa,
đơn đặt hàng…), về môi trường kinh tế và ngành nghề, lĩnh vực hoạt động, những yêu
cầu luật pháp và các nguyên tắc trong những hoạt động của Ngân hàng? ................... 100
5.Những yếu tố rủi ro sau đây có được đề cập không? .................................................. 101
Mục tiêu và chiến lược............................................................................................128
BẢNG TÌM HIỂU VỀ CÔNG TY ABC ....................................................................... 142
Những miêu tả sơ lược về Công ty ABC ........................................................................ 143

N Không
NS Không trọng yếu
S Trọng yếu
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
2
Luận văn tốt nghiệp
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Sơ đồ 1: Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý của công ty .......................................
Sơ đồ 2: Tổ chức các phòng ban thực hiện kiểm toán ...................................
Sơ đồ 3: Quy trình kiểm toán của Công ty TNHH Ernst & Young Việt Nam . .
1. Tên lớp nghiệp vụ/quy trình: ............................................................................................. 41
2. Bộ phận thực hiện lớp nghiệp vụ: .................................................................................... 41
1. Những nhân viên đã từng làm cho Ernst & Young đã chuyển sang ngân hàng XYZ làm
trong vòng năm 5năm lại đây có giữ những vị trí quan trọng về quản lý, kế toán và lập báo
cáo tài chính không? (như: Thành viên ban quản trị, Chủ tịch, Giám đốc điều hành, Giám
đốc tài chính, Kế toán trưởng, Nhân viên ban Kiểm soát, ban Tài chính, thành viên của bộ
phận Kiểm toán nội bộ, người Cố vấn…)? ........................................................................... 50
2. Ban quản trị có phong cách sống và làm việc không tốt. ................................................. 50
4. Ngân hàng cố gắng giới hạn phạm vi kiểm toán (trực tiếp hay ép buộc mức phí không
hợp lý) hoặc tìm mọi cách để áp đặt một thời hạn hoàn thành không khả thi. ..................... 50
1. Có những thay đổi đáng kể nào về người ký thư giới thiệu của ngân hàng hay không?
100
2.Chứng khoán của ngân hàng có được mua bán công khai không? Hay nói cách khác,
ngân hàng có giải trình công khai các chứng khoán ngân hàng nắm giữ hay không? (như
chứng khoán của các đơn vị chính quyền, các tổ chức tài chính, các công ty bảo hiểm,
các tổ chức công cộng và các tổ chức từ thiện) .............................................................. 100
3.Những nhân viên đã từng làm cho Ernst & Young đã chuyển sang ngân hàng XYZ
làm trong vòng năm 5năm lại đây có giữ những vị trí quan trọng về quản lý, kế toán và
lập báo cáo tài chính không? (như: Thành viên ban quản trị, Chủ tịch, Giám đốc điều
hành, Giám đốc tài chính, Kế toán trưởng, Nhân viên ban Kiểm soát, ban Tài chính,

như là một cơ sở đáng tin cậy để đưa ra các quyết định cho mình, do đó các số liệu
được trình bày trên báo cáo tài chính phải đảm bảo được tính chính xác và đầy đủ.
Để đạt được những yêu cầu này thì các báo cáo tài chính cần phải được soát xét về
tính trung thực, hợp lý bởi những người có kinh nghiệm chuyên môn và hoàn toàn
độc lập, đó chính là những kiểm toán viên. Mục đích chung nhất của việc tiến hành
kiểm toán các Báo cáo tài chính là nhằm thỏa mãn một số mục tiêu sau:
• Đảm bảo rằng các số liệu được trình bày trên các Báo cáo tài chính là chính
xác, hợp lý, tuân thủ theo các Chuẩn mực Kế toán Việt Nam và các Chuẩn
mực Kế toán Quốc tế.
• Phát hiện và sửa chữa, điều chỉnh kịp thời những sai sót, gian lận phát sinh
trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
• Cung cấp cho các nhà đầu tư, các cơ quan chức năng những thông tin xác
đáng về tình hình tài chính cũng như hiệu quả hoạt động của các doanh
nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp đã và đang chuẩn bị được cổ phần
hóa và được niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Tuy nhiên do yêu cầu thực tế của việc huy động vốn và một số quyết định của
Nhà nước đối với các doanh nghiệp hoạt động trong một số ngành nghề đặc biệt như
ngành ngân hàng, chứng khoán…mà một số doanh nghiệp đã phát hành cả báo cáo
tài chính giữa niên độ kế toán bên cạnh các Báo cáo tài chính cuối niên độ thông
thường, bởi vậy nhu cầu kiểm toán các Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp ngày
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
5
Luận văn tốt nghiệp
càng tăng. Hơn thế nữa hiện nay bên cạnh việc các công ty nước ngoài đầu tư vào
Việt Nam thì các doanh nghiệp của Việt Nam cũng đang bắt đầu những bước đi đầu
tiên ra thị trường thế giới, do đó các Báo cáo tài chính của những công ty này cần
phải được trình bày chuẩn và chính xác theo những Chuẩn mực Kế toán Quốc tế, tức
là chất lượng của các cuộc kiểm toán đòi hỏi phải được nâng cao hơn cho phù hợp
với những chuẩn quốc tế.
Với mục tiêu hàng đầu là phát hiện và kịp thời chỉnh sửa những sai sót và gian

pháp chuẩn được Ernst & Young toàn cầu thiết kế và thực hiện chung trên toàn cầu.
Trải qua một thời gian dài áp dụng, Ernst & Young đã có những điều chỉnh phù hợp
hơn với những các khách hàng, đồng thời ở từng nước mà cụ thể là ở Việt Nam các
chuyên gia tại đây với những kinh nghiệm làm việc của mình đã luôn thường xuyên
cập nhật những thay đổi, những cải tiến cho phương pháp đánh giá nhằm thích nghi
với môi trường kinh tế và khách hàng tại Việt Nam. Hiện nay, Ernst & Young Việt
Nam đang áp dụng một quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán xuyên suốt, cụ thể trong
từng giai đoạn của cuộc kiểm toán và thường chỉ có các kiểm toán viên cấp cao giàu
kinh nghiệm làm việc cũng như kinh nghiệm chuyên môn đảm nhận, chính vì vậy mà
kết quả đạt được có chất lượng khá cao.
Nhận biết được tầm quan trọng của việc đánh giá rủi ro kiểm toán trong kiểm
toán Báo cáo tài chính, đồng thời có điều kiện được thực tập tại công ty TNHH Ernst
& Young Việt Nam, em đã chọn đề tài “Hoàn thiện quy trình đánh giá rủi ro kiểm
toán trong Giai đoạn Lập Kế hoạch Kiểm toán Báo cáo tài chính do Công ty
TNHH Ernst & Young Việt Nam thực hiện” để làm luận văn tốt nghiệp.
Là một sinh viên chuyên ngành kiểm toán, em muốn thực hiện chuyên đề này
nhằm có được những kiến thức sâu rộng hơn về đánh giá rủi ro kiểm toán trong quá
trình kiểm toán báo cáo tài chính để củng cố nền tảng kiến thức cơ sở trước khi được
tiến hành thực hiện công việc thực tế. Hơn thế nữa, trong quá trình thu thập tài liệu
để hoàn thành báo cáo, em sẽ có được những hiểu biết thực tế về quy trình đánh giá
rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính do công ty TNHH Ernst & Young
Việt Nam thực hiện, đồng thời từ đó có thể rút ra cho bản thân những bài học quý giá
từ quy trình thực tế của công ty để giúp ích cho công việc sau này.
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
7
Luận văn tốt nghiệp
Luận văn tốt nghiệp của em gồm 3 phần chính như sau:
 Phần 1: Lý luận chung về rủi ro kiểm toán trong giai đoạn lập kế hoạch
Kiểm toán Báo cáo Tài chính
Trong phần này sẽ giới thiệu những vấn đề thuộc về lý luận của rủi ro Kiểm

quan tâm; góp phần hướng dẫn nghiệp vụ và củng cố nề nếp của các hoạt động tài
chính, đặc biệt là các hoạt động của quản lý, ngoài ra kiểm toán còn góp phần nâng
cao hiệu quả và năng lực quản lý. Tồn tại rất nhiều cách phân loại kiểm toán nhưng
theo đối tượng cụ thể thì kiểm toán bao gồm Kiểm toán Báo cáo Tài chính, Kiểm
toán nghiệp vụ, Kiểm toán liên kết.
1.1.2 Mục tiêu của Kiểm toán báo cáo Tài chính
Với tư cách là một loại hình của Kiểm toán nên mục tiêu của Kiểm toán Tài
chính cũng giống như mục tiêu của Kiểm toán nói chung, đó là thực hiện chức năng
xác minh và bày tỏ ý kiến về đối tượng kiểm toán.
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 200 về “Mục tiêu và nguyên tắc cơ bản
chi phối kiểm toán Báo cáo Tài chính” có quy định mục tiêu của kiểm toán Tài chính
như sau: “Mục tiêu của kiểm toán báo cáo tài chính là giúp cho kiểm toán viên và
công ty kiểm toán đưa ra ý kiến xác nhận rằng báo cáo tài chính có được lập trên cở
sở chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận), có tuân thủ pháp
luật liên quan và có phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu hay
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
9
Luận văn tốt nghiệp
không? Mục tiêu của kiểm toán báo cáo tài chính còn giúp cho đơn vị được kiểm
toán thấy rõ những tồn tại, sai sót để khắc phục nhằm nâng cao chất lượng thông tin
tài chính của đơn vị.” Trong đó, các khái niệm trung thực, hợp lý cũng được định
nghĩa như sau ở các mục số 8,9 và 10 của Chuẩn mực trên:
“Trung thực: Là thông tin tài chính và tài liệu kế toán phản ánh đúng sự thật nội
dung, bản chất và giá trị của nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
Hợp lý: Là thông tin tài chính và tài liệu kế toán phản ánh trung thực, cần thiết và phù
hợp về không gian, thời gian và sự kiện nhiều người thừa nhận.
Hợp pháp: Là thông tin tài chính và tài liệu kế toán phản ánh đúng pháp luật, đúng
chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận).”
Mọi đối tượng, dù là đối tượng của kiểm toán hay kiểm toán tài chính, đều
chứa đựng trong nó những mối quan hệ kinh tế và quan hệ pháp lý phong phú và đa

doanh và hoạt động quản lý của đơn vị nhằm xác minh cụ thể độ tin cậy của từng
khoản mục cũng như mối quan hệ kinh tế chứa đựng trong mỗi số dư, trong các chỉ
tiêu phản ánh các mối quan hệ bên trong các hoạt động tài chính. Trong kiểm toán tài
chính, các kiểm toán viên vừa phải khái quát được những quan hệ trên các bảng khai
tài chính, vừa phải đi sâu phân tích từng mối quan hệ cụ thể để xem xét những hướng
tổng quát và nghiên cứu những nét đặc trưng của việc xác minh và bày tỏ ý kiến về
các bảng khai tài chính, về các mối quan hệ giữa kiểm toán tài chính với kiểm toán
nghiệp vụ, giữa kiểm toán thông tin với kiểm toán tuân thủ. Việc làm này có ý nghĩa
vô cùng quan trọng trong việc thực hiện chức năng chung của kiểm toán, đồng thời
phân chia công việc kiểm toán thành những phần hành kiểm toán.
1.1.4 Quy trình kiểm toán của Kiểm toán báo cáo Tài chính
Là một loại hình kiểm toán nên trình tự của Kiểm toán tài chính cũng giống
như trình tự kiểm toán nói chung, bao gồm 3 giai đoạn cơ bản: Chuẩn bị kiểm toán,
Thực hành kiểm toán và Kết thúc kiểm toán. Tuy nhiên, do có một số đặc trưng về
đối tượng kiểm toán, về mối quan hệ giữa chủ thể với khách thể kiểm toán nên trình
tự kiểm toán tài chính cũng có những đặc điểm riêng.
Bước 1: Chuẩn bị kiểm toán
Bắt đầu từ việc khách hàng gửi thư mời (hoặc lệnh) kiểm toán, các kiểm toán
viên được giao nhiệm vụ sẽ thực hiện việc thu thập thông tin tìm hiểu về khách thể
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
11
Luận văn tốt nghiệp
kiểm toán nhằm phục vụ cho việc soạn thảo hợp đồng kiểm toán và lập kế hoạch
chung cho cuộc kiểm toán. Sau đó, các kiểm toán viên sẽ tìm hiểu sâu hơn về những
thiết kế và hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ của khách thể thông qua việc thu
thập thông tin, quan sát, phỏng vấn và đánh giá nhằm xây dựng kế hoạch kiểm toán
cụ thể. Để thực hiện những công việc trên, các trắc nghiệm chủ yếu được thực hiện là
trắc nghiệm mức đạt yêu cầu của công việc và trắc nghiệm phân tích (tổng quát).
Không chỉ lập kế hoạch và chuẩn bị những công việc kiểm toán, các kiểm toán viên
được giao nhiệm vụ chuẩn bị kiểm toán phải có những ước lượng về cả phương tiện

1.2 TỔNG QUAN CHUNG VỀ RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG KIỂM
TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.2.1 Các khái niệm cơ bản về rủi ro Kiểm toán trong Kiểm toán báo cáo Tài
chính
Trước khi đi sâu vào tìm hiểu những khái niệm về rủi ro kiểm toán trong kiểm
toán Báo cáo Tài chính, ta nên hiểu được thế nào là Rủi ro? Theo Từ điển Bách khoa
toàn thư Việt Nam thì “Rủi ro là hậu quả gây thiệt hại ít nhiều có thể dự kiến được của
một hành vi mà việc thực hiện không chỉ phụ thuộc vào ý chí của các bên đương sự.
Người thực hiện hành vi phải chịu trách nhiệm về thiệt hại gây nên cho người khác.
Người nào đã chấp nhận sự rủi ro trong việc thực hiện một hành vi có thể gây thiệt hại
cho mình thì người đó mất quyền khởi tố đòi bồi thường thiệt hại.”
Đi sâu vào lĩnh vực Kiểm toán thì Rủi ro kiểm toán được định nghĩa theo
nhiều cách khác nhau, mang những nét đặc trưng riêng. Theo Giáo trình Lý thuyết
Kiểm toán của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân xuất bản tháng 1 năm 2005 thì Rủi
ro kiểm toán là khả năng mà kiểm toán viên đưa ra ý kiến không xác đáng về đối
tượng được kiểm toán. Loại rủi ro được định nghĩa như vậy luôn luôn có thể tồn tại
bởi dù cho cuộc kiểm toán có một kế hoạch được lập chi tiết và chu đáo, được thực
hiện nghiêm chỉnh và thận trọng thì trên thực tế các báo cáo tài chính đã được kiểm
toán của khách hàng hoàn toàn có thể vẫn còn một số sai phạm trọng yếu mà các
kiểm toán viên không phát hiện ra được trong quá trình thực hiện kiểm toán.
Còn trong sách Kiểm toán-Nhà Xuất bản Tài chính Hà Nội năm 1996 thì lại
định nghĩa về rủi ro kiểm toán như sau: “Rủi ro kiểm toán được hiểu là những rủi ro
mà các kiểm toán viên có thể mắc phải khi đưa ra những ý kiến nhận xét không thích
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
13
Luận văn tốt nghiệp
hợp về các báo cáo tài chính của một đơn vị.” Chẳng hạn như việc các kiểm toán viên
đã đưa ra những ý kiến nhận xét khá hoàn hảo cho các báo cáo tài chính của một
công ty khách hàng mà không biết rằng chúng vẫn tồn tại những sai sót trọng yếu.
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 thì “Rủi ro kiểm toán là rủi ro

Như vậy là trước hết, rủi ro kiểm toán có vai trò vô cùng quan trọng đối với
việc kiểm soát và giảm thiểu Rủi ro kinh doanh cho các kiểm toán viên và các công
ty kiểm toán. Giảm thiểu được rủi ro kiểm toán thì khả năng tồn tại sai sót trọng yếu
trong các báo cáo tài chính của khách hàng sẽ giảm đi, do đó thì sự hiểu biết của các
kiểm toán về tình hình tài chính cũng như tình hình hoạt động kinh doanh của khách
hàng sẽ sát với thực tế hơn, như vậy thì những kết luận kiểm toán sẽ chính xác hơn
và các kiểm toán viên có thể nắm rõ hơn tình hình trong tương lai của khách hàng sẽ
giúp làm kiểm toán viên có thể xác định và kiểm soát được mức độ Rủi ro kinh
doanh của mình.
Ngoài ra, Rủi ro kiểm toán cũng có vai trò đặc biệt quan trọng trong Kiểm
toán Báo cáo tài chính và trong giai đoạn Lập kế hoạch kiểm toán. Nhờ xác định
được những rủi ro đó mà các kiểm toán viên và công ty kiểm toán có thể dựa vào đó
để ra quyết định xem có nên thực hiện kiểm toán cho khách hàng hay không, nếu
thực hiện thì có ảnh hưởng gì đến uy tín của công ty hay không…Trong giai đoạn lập
kế hoạch kiểm toán, việc xác định mức độ rủi ro kiểm toán của khách hàng sẽ hỗ trợ
những cơ sở tin cậy để dựa vào đó các kiểm toán viên có thể xác định được mức độ
rủi ro phát hiện có thể chấp nhận được cho cơ sở dẫn liệu của báo cáo tài chính và
xác định được nội dung, lịch trình, phạm vi của các thủ tục cơ bản cho các cơ sở dẫn
liệu đó nhằm xác định được phương pháp tiếp cận kiểm toán (Theo mục 14-Chuẩn
mực Kiểm toán Việt Nam số 400).
1.2.3 Các yếu tố cấu thành Rủi ro Kiểm toán
1.2.3.1 Rủi ro tiềm tàng
• Khái niệm
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 thì “Rủi ro tiềm tàng là rủi ro
tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính
chứa đựng sai sót trọng yếu khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp, mặc dù có hay không có
hệ thống kiểm soát nội bộ”.
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
15
Luận văn tốt nghiệp

16
Luận văn tốt nghiệp
• Trên phương diện số dư tài khoản và loại nghiệp vụ:
o Khả năng báo cáo tài chính vẫn còn tồn tại những sai sót trọng yếu
o Xác định số dư, số phát sinh của các tài khoản và các nghiệp vụ kinh tế trên
các bảng khai tài chính của khách hàng…
o Khả năng xảy ra tình trạng tài sản bị biển thủ và mất mát trong quá trình hoạt
động
o Mức độ phức tạp và việc ghi chép các nghiệp vụ trọng yếu, đặc biệt là những
nghiệp vụ bất thường…
1.2.3.2 Rủi ro kiểm soát
• Khái niệm
Loại rủi ro thứ 2 ta cần tìm hiểu là Rủi ro kiểm soát, “đây là loại rủi ro đại
diện cho sự đánh giá về cơ cấu kiểm soát nội bộ của khách hàng có hiệu quả đối với
việc ngăn ngừa hoặc phát hiện sai sót hay không và mục đích của kiểm toán viên là
đánh giá ở một mức thấp hơn mức tối đa (100%) như một phần của kế hoạch kiểm
toán. Cơ cấu kiểm soát nội bộ càng hiệu quả, yếu tố rủi ro có thể được phân bổ rủi ro
kiểm soát càng thấp” (Theo cuốn Kiểm toán-Nhà Xuất bản Thống kê năm 1993).
Hiểu theo nghĩa đơn giản thì “Rủi ro kiểm toán là các khả năng mà hệ thống
kiểm soát nội bộ của đơn vị không phát hiện và ngăn chặn được các gian lận và các
sai sót”-Kiểm toán-Nhà xuất bản Tài chính Hà Nội năm 1996. Mỗi doanh nghiệp đều
có sự tồn tại của hoạt động kiểm soát nội bộ nhưng không phải doanh nghiệp nào
cũng có ý thức xây dựng các hoạt động đó một cách có hệ thống và có hiệu quả. Do
đó, rủi ro kiểm soát là vấn đề khó tránh khỏi bởi những hạn chế mang tính cố hữu của
hệ thống kiểm soát nội bộ đã được đề cập ở phần trên.
Nhận thức được sự quan trọng của yếu tố rủi ro kiểm soát trong việc cấu thành
nên Rủi ro kiểm toán, để giúp cho các kiểm toán viên có sự hiểu biết rõ ràng hơn về
loại rủi ro này, Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam đã định nghĩa Rủi ro kiểm soát như
sau: “Là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong
báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà hệ thống kế toán và hệ thống

toán, với giả sử hệ thống kiểm soát nội bộ đã không phát hiện ra chúng và sửa chữa
chúng”-Cuốn Kiểm toán- Nhà xuất bản Thống kê năm 1993. Còn cuốn Kiểm toán do
Nhà xuất bản Tài chính Hà Nội xuất bản năm 1996 thì “Rủi ro phát hiện là các khả
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
18
Luận văn tốt nghiệp
năng mà các bước kiểm toán không phát hiện được các sai sót nghiêm trọng hiện có
trong các số dư tài khoản hoặc các loại nghiệp vụ”. Và trong Chuẩn mực Kiểm toán
Việt Nam số 400 thì lại định nghĩa Rủi ro phát hiện là “Rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu
trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc
tính gộp mà trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên và công ty kiểm toán không
phát hiện được.”
Như vậy thì Rủi ro phát hiện xác định bằng chứng mà các KTV có kế hoạch thu
thập. Khi rủi ro phát hiện được chấp nhận ở mức thấp thì các KTV sẽ phải chú trọng hơn
đến những bằng chứng thu thập về cả số lượng và chất lượng và ngược lại.
• Những nhân tố ảnh hưởng đến Rủi ro phát hiện
Rủi ro phát hiện được xác định từ 3 loại rủi ro là rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm
soát và rủi ro kiểm toán mong muốn, do đó sự thay đổi về mức độ của từng loại rủi ro
trên cũng sẽ làm thay đổi mức độ của rủi ro phát hiện. Khi các rủi ro tiềm tàng và rủi
ro kiểm soát càng cao thì để đảm bảo một mức độ rủi ro kiểm toán mong muốn, các
KTV phải thực hiện các thử nghiệm cơ bản sao cho có thể giảm thiểu được mức độ
rủi ro phát hiện, như vậy là giữa Rủi ro phát hiện và Rủi ro tiềm tàng và Rủi ro kiểm
soát có tỷ lệ nghịch với nhau.
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 đã xác định rằng “Mức độ rủi ro phát
hiện có liên quan trực tiếp đến thử nghiệm cơ bản của kiểm toán viên”. Ngoài ra,
mức độ rủi ro phát hiện cũng có mối quan hệ tỷ lệ thuận với phạm vi, các phương
pháp kiểm toán được áp dụng trong quá trình kiểm toán. Nếu một cuộc kiểm toán có
phạm vi rộng, sử dụng các phương pháp kiểm toán thích hợp một cách chặt chẽ thì
mức độ rủi ro phát hiện được xác định là ở mức độ thấp bởi khả năng các KTV
không phát hiện được hết các sai sót trọng yếu được xác định là thấp hơn và ngược

những đánh giá về rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát của các kiểm toán viên là mối
quan hệ tỷ lệ nghịch, tức là: Nếu các kiểm toán viên đánh giá mức độ rủi ro tiềm tàng
và rủi ro kiểm soát của khách thể kiểm toán là lớn thì mức độ rủi ro phát hiện dự kiến
của họ sẽ thấp để hạn chế và duy trì rủi ro kiểm toán ở mức độ thấp và ngược lại nếu
mức độ rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được các kiểm toán viên đánh giá ở mức
độ thấp thì các kiểm toán viên có thể dự kiến rủi ro phát hiện ở mức độ cao mà vẫn
đảm bảo cho rủi ro kiểm toán được duy trì ở mức chấp nhận được.
Mối quan hệ giữa các loại rủi ro kiểm toán sẽ được thể hiện trên mô hình sau
đây:
DAR = IR * CR * DR
Trong đó:
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
20
Luận văn tốt nghiệp
• DAR: Rủi ro kiểm toán mong muốn (Mức độ mà KTV sẵn sàng chấp nhận là
các báo cáo tài chính có thể có sai sót trọng yếu sau khi cuộc kiểm toán hoàn
thành và đã đi đến một nhận xét chấp nhận hoàn toàn.
• IR: Rủi ro tiềm tàng
• CR: Rủi ro kiểm soát
• DR: Rủi ro phát hiện
Mô hình này được sử dụng nhằm khá nhiều mục đích:
Thứ nhất, nó giúp cho các KTV đánh giá được xem kế hoạch kiểm toán mình
thiết kế đã đạt yêu cầu về tính hợp lý hay chưa?
Tức là sau khi đã lập được kế hoạch kiểm toán cụ thể, xác định được mức độ
rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát của doanh nghiệp, đồng thời dựa vào các thử
nghiệm kiểm toán được thiết kế sử dụng trong quá trình thực hiện các KTV cũng đã
xác định được mức độ rủi ro phát hiện. Từ phía KTV thì dựa vào mô hình này, KTV
sẽ xác định được xem mức độ rủi ro kiểm toán mong muốn là bao nhiêu và mức độ
đó đã phù hợp với yêu cầu của cuộc kiểm toán hay chưa?
Thứ hai,để có được một kế hoạch kiểm toán có hiệu quả, các KTV sẽ dựa vào

mức độ rủi ro kiểm toán mong muốn phù hợp để đảm bảo độ tin cậy cho các báo cáo
tài chính đã được kiểm toán. Trong quá trình tiến hành kiểm toán cho khách hàng,
mục đích cuối cùng của các kiểm toán viên là làm sao để giảm được mức độ rủi ro
mong muốn, đặc biệt là trong những trường hợp mà mức độ tin cậy của những người
bên ngoài sử dụng báo cáo đối với các báo cáo là cao và khi khả năng khách hàng
kiểm toán gặp khó khăn về tài chính sau khi báo cáo tài chính đã kiểm toán được
công bố là cao.
1.3.2 Rủi ro tiềm tàng
Để có thể đánh giá được mức độ rủi ro tiềm tàng của khách hàng, các kiểm
toán viên cần phải thu thập những thông tin dưới đây để thực hiện phân tích:
Phân tích trình độ và tác phong quản lý của Ban quản trị khách hàng: Ở công
việc này, các kiểm toán viên sẽ tiến hành các cuộc phỏng vấn và kiểm tra những hoạt
động quản lý của Ban Quản trị của doanh nghiệp để qua đó có những đánh giá về
trình độ và hiệu quả quản lý của bộ phận này trong doanh nghiệp. Nếu Ban quản trị
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
22
Luận văn tốt nghiệp
thiếu liêm chính, trình độ thấp thì khả năng báo cáo tài chính có những sai sót trọng
yếu là rất lớn, như vậy thì các kiểm toán viên sẽ phải chịu rủi ro kinh doanh cao.
Phân tích bản chất kinh doanh của khách hàng: Những đặc điểm và những
nhân tố ảnh hưởng tới các hoạt động kinh doanh của khách hàng sẽ dẫn đến việc xuất
hiện rủi ro tiềm tàng đối với một số tài khoản nhất định của doanh nghiệp. Những
ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài như nhu cầu thị trường, mục tiêu phát triển của
doanh nghiệp, các quy định của pháp luật…cũng là nhân tố có thể làm nảy sinh
những gian lận tiềm tàng trong các hoạt động của doanh nghiệp. Việc phân tích này
sẽ giúp cho các kiểm toán viên lường được những rủi ro tiềm tàng từ đặc điểm ngành
nghề, lĩnh vực kinh doanh của khách hàng.
Phân tích bản chất, nội dung của các khoản mục được trình bày trên các báo
cáo tài chính: Mỗi khoản mục đều có những đặc trưng riêng, liên quan đến những
nghiệp vụ cụ thể, do đó các kiểm toán viên phải tìm hiểu từng khoản mục và các

• Kiểm toán viên không được cung cấp đầy đủ cơ sở để đánh giá sự đầy đủ và hiệu
quả của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng
(Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400)
Và nếu trong các trường hợp sau thì các kiểm toán viên sẽ đánh giá rủi ro kiểm soát ở
mức thấp:
• KTV có đủ cơ sở để kết luận hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ được
thiết kế có thể ngăn ngừa, phát hiện và sửa chữa các sai sót trọng yếu.
• KTV có kế hoạch thực hiện thử nghiệm kiểm soát làm cơ sở cho việc đánh giá
mức độ rủi ro kiểm soát.
(Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400)
Sau khi đã có những đánh giá ban đầu đó, các KTV phải thực hiện các thử
nghiệm kiểm soát như: kiểm tra các chứng từ của các nghiệp vụ kinh tế, phỏng vấn,
quan sát thực tế việc thực hiện hay kiểm tra việc thực hiện các thủ tục kiểm soát…để
có những bằng chứng xác thực về tính hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ trên 2
phương diện, đó là Thiết kế và Thực hiện:
• Về mặt thiết kế: tức là hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng có được thiết kế
cụ thể, chặt chẽ và hiệu quả hay không, có thể phát hiện và ngăn chặn những sai
sót, gian lận trong các hoạt động hay không.
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
24
Luận văn tốt nghiệp
• Về mặt thực hiện: tức là từng thủ tục kiểm soát được thiết kế cho hệ thống có
được thực hiện một cách nghiêm túc và bài bản hay không.
Cuối cùng, các KTV sẽ phải tập hợp các kết quả thử nghiệm và những bằng chứng
thu được nhằm xem xét lại đánh giá ban đầu có hợp lý hay không để có những điều
chỉnh cho phù hợp.
1.3.4 Rủi ro phát hiện
Nhằm đánh giá được mức độ rủi ro phát hiện của khách hàng, trước hết các
KTV phải đánh giá được mức độ Rủi ro tiềm tàng và Rủi ro kiểm soát của khách
hàng. Đồng thời, các KTV cũng phải xác định được mức độ Rủi ro kiểm toán mong


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status