Tài liệu Đề án kinh tế chính trị: Thực trạng và một số giải pháp để phát triển khu vực kinh tế tư bản tư nhân - Pdf 88




Luận văn tốt nghiệp

Thực trạng và một số giải pháp
để phát triển khu vực kinh tế tư
bản tư nhân §Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
LỜI MỞ ĐẦU

Hiện nay, chúng ta đang ở trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đây là
thời kỳ chuyển tiếp từ nền kinh tế cũ lạc hậu lên nền kinh tế mới xây dựng công
hữu. Do đó đòi hỏi cần phải tập trung phát triển nền kinh tế thị trường với sự đa
dạng hoá các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế. Vì có như vậy mới đưa
đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu và bắt kịp với tốc độ phát triển của
các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, để xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội thì chúng ta không đơn thuần tập trung phát triển nền kinh tế thị
trường thuần tuý mà phải đặt dưới sự lãnh đạo tài tình sáng suốt của Đảng "phát
triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa".
Với vai trò quan trọng "kinh tế tư bản tư nhân có khả năng đóng góp vào

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN VỀ CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ VÀ TƯ BẢN TƯ NHÂN

I. HỌC THUYẾT MÁC - LÊNIN VỀ CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ
Từ khi bước vào công cuộc đổi mới chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu
bao cấp sang nền kinh tế thị trường, chúng ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể.
Trong đó phải nói đến vai trò của khu vực kinh tế tư bản tư nhân đã góp phần đáng
kể trong việc tạo ra công ăn việc làm, tăng nguồn thu cho ngân sách. Sau khi luật
doanh nghiệp có hiệu lực 1/1/2000, kinh tế tư bản tư nhân phát triển mạnh mẽ là
điều kiện quan trọng thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế trong nước, nâng cao vị thế
của Việt Nam lên so với khu vực. Tuy nhiên, xét về nguồn gốc hình thành và quy
mô hoạt động của đại bộ phận doanh nghiệp tư nhân (DNTN) còn mới, quy mô nhỏ.
Vậy trong quá trình hội nhập, kinh tế tư bản tư nhân nên phát triển như thế nào?
Đó là vấn đề cần có những dự báo đúng đắn để Đảng và Nhà nước có căn cứ khoa
học ra các quyết định chủ trương chính sách cho phù hợp.
Dự báo đúng được xu thế vận động và phát triển của khu vực kinh tế tư bản
tư nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta thì cần dựa trên các
luận cứ khoa học. Mà nền tảng tư tưởng của Đảng ta là học thuyết Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh; do đó, luận cứ khoa học trước hết phải là lý luận học thuyết
của Mác - Lênin về các thành phần kinh tế.
Ngay từ khi mới ra đời, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định sự phát triển của
các hình thái kinh tế - xã hội có thể coi là một quá trình lịch sử tự nhiên. Vì vậy, sự
vận động của các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình khách quan dưới tác động
của những quy luật nhất định và chỉ có thể đánh giá đúng xu thế vận động của các
hiện tượng kinh tế - xã hội khi đặt nó trong quy luật chung của sự phát triển các
hình thái kinh tế xã hội đó. Trong đó, chúng ta phải xét đến hai nguyên lý về sự vận
động và phát triển cần tính đến khi nghiên cứu xu hướng vận động của kinh tế tư
bản tư nhân trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
Thứ nhất, đó là quy luật về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ

chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê.
Nếu muốn có cái nhìn đầy đủ hơn về khu vực kinh tế này, chúng ta cần tìm
hiểu thêm về quá trình hình thành và phát triển của khu vực kinh tế tư bản tư nhân .
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
2. Quá trình hình thành và phát triển của khu vực kinh tế tư bản tư
nhân .
Ngay từ những năm đầu của quá trình hình thành học thuyết của mình, Mac
đã cho rằng chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội tất yếu phải trải qua một thời kỳ
quá độ. Thời kỳ này xét về mặt kinh tế sẽ tồn tại đan xen những kết cấu kinh tế xã
hội khác nhau. Thích ứng với thời kỳ đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
với một cơ cấu xã hội nhiều giai cấp, giai tầng có mâu thuẫn gay gắt về lợi ích kinh
tế, song thống nhất trong mục tiêu vận động. Từ đó chúng ta phải có những thái độ
đúng đắn trong nhìn nhận về kinh tế tư bản tư nhân và nhận rõ triển vọng phát triển
của kinh tế tư bản tư nhân trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
Ngay sau khi cách mạng tháng tám 1945 thành công, nhận định về vai trò của
kinh tế tư bản tư nhân ở Việt Nam lúc bấy giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố
"…để giành lấy nền hoàn toàn độc lập của nước nhà thì giới công - thương phải
hoạt động để xây dựng một nền kinh tế và tài chính vững vàng và thịnh vượng.
Chính phủ nhân dân và tôi sẽ tận tâm giúp đỡ giới công - thương trong cuộc kiến
thiết này". Sau khi cuộc kháng chiến 9 năm kết thúc , năm 1951, miền Bắc bước
vào thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế theo mô hình kế hoạch hoá
tập trung. Kinh tế tư bản tư nhân bị hạn chế, bị cải tạo và dần dần bị xoá bỏ vì nó
được coi là "hàng ngày hàng giờ " đẻ ra chủ nghĩa tư bản nên luôn là đối tượng của
cải tạo xã hội chủ nghĩa và không được khuyến khích phát triển. Sau thời kỳ khủng
hoảng kinh tế ở nước ta, tại Đại hội Đảng VI với đường lối đổi mới toàn diện đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trước hết là đổi mới tư duy với tinh thần
"nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật", Đảng ta đã thừa
nhận "sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế" và "trong nhận thức cũng như trong hành
động, chúng ta chưa thực sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta
còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài". Theo đó thừa nhận sự tồn tại khách

tàu cho nền kinh tế,yểm trợ cho các doanh nghiệp nhỏ của khu vực kinh tế tư bản tư
nhân . Tuy vậy, khu vực doanh nghiệp Nhà nước chỉ nên tập trung phát triển các
ngành mũi nhọn chứ không phải tập trung sản xuất kinh doanh tất cả các mặt hàng
thuộc các lĩnh vực khác nhau như trong thời kỳ tập trung quan liêu bao cấp. Trong
thời kỳ đó, sự sản xuất dưới sự chỉ đạo chung thống nhất của Nhà nước thông qua
các chỉ tiêu và kế hoạch. Chính vì thế dẫn đến sự trì trệ, đói nghèo trong một thời
gian tương đối dài sau khi chúng ta giành được độc lập. Để có thể tăng khả năng
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
sáng tạo cũng như cạnh tranh của các doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước thực hiện
chính sách cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước chính là đa dạng hoá các hình
thức sở hữu. Điều này khiến cho các doanh nghiệp chủ động kinh doanh với chế độ
tự chịu trách nhiệm bằng lợi ích của chính mình nên phát huy được mọi sự sáng tạo
trong kinh doanh của các doanh nghiệp.
Theo Đại hội IX, khu vực kinh tế tư bản tư nhân đã đạt bước mới về hoàn
thiện chính sách, khẳng định cơ cấu kinh tế thị trường nhiều thành phần định hướng
xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế tư bản tư nhân là bộ phận quan trọng. Đại hội đã
khẳng định "Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần.
Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan
trọng của nền kinh tế định hướng xây dựng chủ nghĩa cùng phát triển lâu dài, hợp
tác và cạnh tranh lành mạnh". Kinh tế cá thể, tiểu chủ được xác định là có vị trí
quan trọng lâu dài. Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển thông qua
việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách trên những định hướng ưu
tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài.
Qua đó ta thấy từ Đại hội VI đến nay, nhận thức của Đảng ta về vị trí và vai
trò của kinh tế tư bản tư nhân trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã có
bước phát triển mới. Kinh tế tư bản tư nhân được thừa nhận là bộ phận cấu thành
hữu cơ quan trọng của nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển kinh tế tư
bản tư nhân là vấn đề có tầm chiến lược lâu dài trong quá trình xây dựng và phát
triển nền kinh tế. Không chỉ thay đổi nhận thức Đảng và Nhà nước còn xây dựng và
hoàn thiện thể chế phù hợp cho sự phát triển nền kinh tế nói chung kinh tế tư bản tư

học, trạm xá…
Lao động là một trong những yếu tố đầu vào cơ bản của nền sản xuất. Vì
vậy, việc giải quyết việc làm không chỉ có ý nghĩa về mặt sử dụng có hiệu quả
nguồn lực xã hội mà luôn là mối quan tâm hàng đầu của Nhà nước. Một số thành
công của đường lối đổi mới trong thời gian qua đang làm thay đổi nhận thức về thị
trường lao động của nước ta. Trước hết đó là quan niệm sức lao động là hàng hoá
cho nên hình thức thể hiện dưới dạng "hợp đồng lao động" và được pháp luật đảm
bảo thông qua Bộ luật lao động và các cơ quan thực thi. Chính sự tồn tại và phát
triển của kinh tế tư bản tư nhân đang làm thay đổi cách nghĩ thụ động về việc làm,
việc làm không phải chỉ do Nhà nước tạo ra cho người lao động mà người lao động
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
sẽ tự tạo việc làm, tự kiếm sống và làm giàu. Lao động trước đây chủ yếu trong lĩnh
vực nông, lâm , ngư nghiệp nay dần dần chuyển sang các ngành nghề khác như
công nghiệp, dịch vụ để từ đó hình thành cơ cấu lao động hợp lý giữa các ngành,
các vùng theo hướng hiện đại, hiệu quả. Trong giai đoạn hiện nay, để tăng sức cạnh
tranh cho các doanh nghiệp đòi hỏi phải có một lực lượng lao động có trình độ
chuyên môn, có năng lực có phẩm chất. Do đó, phải có chính sách phù hợp để đào
tạo và khuyến khích sử dụng lao động, tránh tình trạng thiếu lao động giỏi.Kinh tế
tư bản tư nhân không chỉ góp phần giải quyết một lực lượng lớn lao động thất
nghiệp mà còn làm tăng sự lựa chọn cho người lao động khi tham gia thị trường lao
động. Những người chuẩn bị tham gia vào thị trường lao động việc làm sẽ lựa chọn
lĩnh vực và thành phần kinh tế trên cơ sở cân nhắc các yêu cầu từ doanh nghiệp và
khả năng của họ. Còn những người đang làm việc tại một cơ sở sản xuất kinh doanh
sẽ có điều kiện di chuyển, thay đổi nơi làm việc một cách tự do không bị ràng buộc
bởi các cơ chế. Như vậy, tính cạnh tranh trên thị trường lao động sẽ gay gắt hơn và
chính sự cạnh tranh khiến cho chất lượng lao động được nâng cao. Đồng thời, do
kinh tế tư bản tư nhân có điều kiện đổi mới công nghệ nhanh nên trình độ kỹ năng
của người lao động nhanh chóng được nâng cao. Khu vực kinh tế tư bản tư nhân đã
giải quyết việc làm cho 4700742 lao động chiếm 70% lực lượng lao động xã hội.
Nếu tính tỷ lệ thu hút lao động trên vốn đầu tư thì kinh tế cá thể thu hút 165 lao

mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia
ngày càng sâu rộng và đầy đủ vào các tổ chức kinh tế thế giới như: AFTA, APEC
và sắp tới là WTO cho nên không thể thiếu được vai trò của khu vực kinh tế tư bản
tư nhân . Với những thuận lợi vốn có như linh hoạt nhạy bén phù hợp với sự thay
đổi nhanh chóng, khu vực này đã mang lại một nguồn lợi lớn cho đất nước. Theo
ước tính, năm 2001, khu vực kinh tế tư bản tư nhân phi nông nghiệp nhập khẩu trực
tiếp 3,336 tỷ USD và xuất khẩu đạt 2,851 tỷ USD. Trong những năm vừa qua, khu
vực kinh tế tư bản tư nhân đóng góp gần một nửa tổng kim ngạch xuất khẩu của cả
nước. Trong quá trình hội nhập, kinh tế tư bản tư nhân đã liên doanh liên kết với
nước ngoài hoặc làm môi giới với nhiều hình thức đa dạng và linh hoạt để tạo điều
kiện thu hút ngoại lực, tận dụng kinh nghiệm quản lý cũng như tiếp thu công nghệ
mới cho tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Thực tế có nhiều Công
ty của người Việt Nam ở nước ngoài đang muốn đầu tư về quê hương. Nếu Nhà
nước có chính sách cởi mở về phát triển kinh tế tư bản tư nhân và tạo môi trường
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
an toàn, tin cậy, hấp dẫn đối với họ thì đây là một nguồn lực không nhỏ (hiện nay
mỗi năm tiền từ nước ngoài gửi về cho người thân ở Việt Nam khoảng 2,7 tỷ USD,
phần lớn trong đó là cho đầu tư sản xuất kinh doanh).
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ BẢN TƯ NHÂN
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

I. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KHU VỰC KINH TẾ TƯ BẢN TƯ NHÂN Ở
NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Cùng với việc ban hành các luật, cơ chế chính sách với biện pháp hỗ trợ,
khuyến khích, khu vực kinh tế tư bản tư nhân đã phát huy sức mạnh nội tại đầu tư
vào nhiều lĩnh vực, địa bàn trên cả nước. Trong báo cáo tổng kết thực hiện luật
Doanh nghiệp từ 2000 cho đến hết tháng 4/2004 cả nước có 93.208 doanh nghiệp
đăng ký thành lập mới, gần gấp 2 lần số doanh nghiệp đựơc thành lập trong thời

cơ sở để doanh nghiệp ổn định, phát triển không hạn chế về quy mô và thời hạn
hoạt động với quản trị nội bộ ngày càng chính quy, minh bạch hơn. Thực tế nói trên
phần nào chứng tỏ các nhà đầu tư đã tin tưởng vào đường lối, luật pháp và cơ chế
chính sách, có xu hướng đầu tư dài hạn hơn, công khai hơn và quy mô lớn hơn.
Theo Báo cáo của Bộ kế hoạch và đầu tư năm 2003, doanh nghiệp tư nhân ở nước
ta chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số doanh nghiệp trong toàn quốc, đóng góp khoảng
26% tổng sản phẩm xã hội, 31% tổng sản lượng công nghiệp, 78% tổng mức bán lẻ,
64% tổng lượng vận chuyển hàng hoá, tạo ra 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông
thôn. Số lượng hộ kinh doanh trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch
vụ tăng từ khoảng 0,84 triệu hộ năm 1990 lên 2,2 triệu hộ năm 1996 và khoảng gần
3 triệu hộ tính đến cuối năm 2004. Ngoài ra, cả nước còn có khoảng 130.000 trang
trại và trên 10 triệu hộ nông dân sản xuất hàng hoá, trong đó có khoảng 70.000
trang trại có diện tích đất trên 2 ha và doanh thu trên 100 triệu đồng/năm. Tính đến
tháng 6/2003, tổng số doanh nghiệp tư nhân đăng ký kinh doanh lên tới 12 vạn
doanh nghiệp (chưa kể gần 2 triệu hộ kinh doanh cá thể). Trong đó, các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp là 17%, xây
dựng 14%, nông nghiệp 14%, trong lĩnh vực dịch vụ là 55%. Ước tính cả năm 2004
có khoảng 35.000 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh với tổng số vốn đăng ký đạt
khoảng 72.000 tỷ đồng. Cũng trong năm này, đã có gần 6.200 doanh nghiệp đăng
ký bổ sung vốn với tổng số vốn bổ sung khoảng 23000 tỷ đồng, tăng 31% so với
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
vốn đăng ký bổ sung năm 2003. Mức vốn đăng ký trung bình một doanh nghiệp
tăng nhanh từ 570 triệu đồng/1dn thời kỳ 1991 1999 lên 2,015 tỷ đồng năm 2004.
Điều đáng quan tâm là số lượng vốn huy động được qua đăng ký thành lập
mới và mở rộng quy mô doanh nghiệp tăng lên mạnh mẽ. Trong 4 năm, các doanh
nghiệp đã đầu tư (gồm cả đăng ký mới và đăng ký bổ sung) đạt trên 182.715 tỷ
đồng (tương đương khoảng 12,1 tỷ USD, cao hơn số vốn đầu tư nước ngoài đăng ký
trong cùng thời kỳ): trong đó năm 2000 là 1,3 tỷ USD, năm 2001 là 2,3 tỷ USD,
năm 2002 là gồm 3 tỷ USD, năm 2003 là khoảng 3,6 tỷ USD và hết tháng 5/2004 là
khoảng 1,8 tỷ USD. Từ năm 2000 - 2003, tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực tư nhân

Xét về lao động thì thấy nước ta có lực lượng lao động dồi dào mỗi năm có
khoảng 1,4 triệu - 1,5 triệu người tham gia thị trường lao động cho nên vấn đề giải
quyết việc làm luôn luôn được đặt ra nhằm đảm bảo cho sự phát triển của kinh tế
nói riêng và của đất nước nói chung. Thực tế ở nhiều địa phương cho thấy, lao động
trong khu vực kinh tế tư bản tư nhân là 21.017.326 người, chiếm 56,3% lao động
có việc làm thường xuyên trong toàn xã hội (số liệu năm 2000). Riêng trong lĩnh
vực phi nông nghiệp, số lao động thuộc kinh tế tư bản tư nhân là 4.643.844 người
năm 2000, tăng 20,12% so với năm 1996. Tính riêng trong 4 năm (1997 - 2000) khu
vực kinh tế tư bản tư nhân thu hút thêm 997.000.000 lao động, gấp 6,6 lần so với
khu vực kinh tế Nhà nước và từ năm 2000 - 2003,khu vực kinh tế tư bản tư nhân đã
tạo ra gần 2 triệu chỗ việc làm mới cho lao động. Từ khi có luật khuyến khích đầu
tư trong nước đã thu hút và tạo việc làm cho 1.516.456 lao động. Theo đó, các
doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư bản tư nhân đầu tư trung bình 70 triệu đến
100 triệu đồng là tạo ra được một chỗ làm việc, trong đó đối với doanh nghiệp Nhà
nước thì số tương ứng là 210 - 280 triệu.
2. Phát triển khu vực kinh tế tư bản tư nhân theo ngành nghề sản xuất
kinh doanh và theo vùng lãnh thổ
a. Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp nông thôn
Nông nghiệp nông thôn chiếm một tỷ lệ lớn trong dân số khoảng 80% và
70% lực lượng lao động xã hội. Đây là nơi cung cấp lương thực, thành phẩm, cung
cấp nguồn nguyên liệu đầu vào, đồng thời là thị trường tiêu thụ sản phẩm quan
trọng của công nghiệp và nhiều ngành kinh tế khác. Chính sự ổn định và phát triển
vững chắc của khu vực này là điều kiện vô cùng quan trọng cho việc ổn định kinh tế
xã hội của đất nước. Giai đoạn trước đổi mới, chúng ta có 16.743 hợp tác xã nông
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
nghiệp và hàng trăm nông trường quốc doanh được Nhà nước đầu tư hỗ trợ vật chất
tinh thần nhưng vẫn không đảm bảo được an ninh lương thực cho đất nước, nguồn
nguyên liệu đầu vào. Cùng với những yếu kém của khu vực công nghiệp và các
ngành kinh tế khác của đất nước, chúng ta đã lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng
vào cuối những năm 70 và đầu những năm 80. Sau khi có Nghị quyết 10 của Bộ

phân công lại lao động giữa các khu vực nông lâm nghiệp, thủy sản và sản xuất kinh
doanh nhỏ của hộ gia đình là khu vực lao động có năng suất thấp, thu nhập không
cao, chiếm số đông, thiếu việc làm song khu vực doanh nghiệp, nhất là công nghiệp
và dịch vụ có năng suất cao và thu nhập khó lớn. Thực tế từ năm 2000 - 2002 mỗi
năm có 700 nghìn lao động được tuyển dụng vào khu vực doanh nghiệp chiếm
khoảng 50% lao động đựơc giải quyết có việc làm hàng năm, đây chính là giải pháp
tích cực nhất để thực hiện chuyển dịch lao động nông nghiệp từ gần 70% hiện nay
xuống còn 56 - 57% vào cuối năm 2005.
b. Trong lĩnh vực sản xuất tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ và thương mại
-
Về quy mô lao động và vốn: Nhìn chung các hộ cá thể tiểu chủ có quy mô
nhỏ khoảng 1-2 lao động/hộ. Xét về vốn thì khó có thể xác định mức bình quân
chung vì nhiều loại nghành nghề có nhu cầu vốn khác nhau nhưng nhìn chung là
thấp: mức bình quân mỗi Công ty trách nhiệm hữu hạn có số lao động là 43 người
và số vốn trên 1 lao động là 50 triệu đồng; doanh nghiệp tư nhân là 13,5 lao động và
23,5 triệu đồng/1 lao động. Xét theo ngành thì ngành công nghiệp khai thác có số
lao động bình quân trong 1 doanh nghiệp là cao nhát 564 lao động nhưng số vốn
cho 1 lao động lại thấp khoảng 1 triệu đồng. Tại thời điểm 1/1/2003, bình quân một
doanh nghiệp chỉ có 74 lao động và 22,9 tỷ đồng tiền vốn; so với năm 2000 là 83
người và 26 tỷ đồng vốn, đấy là số liệu điều tra bình quân chung của các doanh
nghiệp trong các thành phần kinh tế. Nếu nói riêng về thành phần kinh tế tư bản tư
nhân thì quy mô còn nhỏ hơn nhiều, có những doanh nghiệp tư nhân có thể gọi là
siêu nhỏ với vốn hoạt động khoảng vài ba chục triệu, lao động từ 5-7 người, mặt
bằng sản xuất kinh doanh không có, có khi còn phải lấy nhà ở, sân, vườn làm văn
phòng và nơi sản xuất. Theo điều tra, khu vực kinh tế tư bản tư nhân bình quân một
doanh nghiệp chỉ có 31 lao động, và 4 tỷ đồng tiền vốn; bằng 7,4 về lao động và
2,4% về vốn so với doanh nghiệp tư nhân và bằng 10,3% về lao động và 2,9% về
vốn so với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status