Một số giải pháp nhằm nâng cao chât lượng tín dụng ngắn hạn tại Chi nhánh NHĐT & PT - Pdf 94

Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
LỜI NÓI ĐẦU
Trong bối cảnh toàn cầu hoá như hiện nay , bất kỳ một quốc gia nào trên
thế giới cũng coi mục tiêu phát triển kinh tế là mục tiêu quan trọng cần đạt
được . Nhưng để đạt đượcmụa tiêu quan trọng đó đòi hỏ chính phủ phải có
những chính sách , chiến lược phù hợp và hiệu quả để sử dụng tối đa những
nguồn lực hiện có của đất nước mình , đồng thời phải kế thừa và phát triển
những tinh hao của thế giới .
Trong nền kinh tế thị trường thì thị trường tài chính đóng vai trò hết sức
quan trọng , sự lớn mạnh của thị trường tài chính nó ảnh hưởng rất lớn đến nền
kinh tế của một quốc gia và cuả cả thế giới . Chủ thể quan trọng của thị trường
tài chính là Ngân hàng , nó có mặt trong tất cả các mối quan hệ kinh tế trong nền
kinh tế thị trường . Vì thế muốn một nền kinh tế ổn định và phát triển thì đòi hỏi
bản thân hệ thống Ngân hàng cũng phải ổn định và phát triển bởi nếu nó không
ổn định thì nó sẽ phá vỡ sự ổn định trong các mối quan hệ kinh tế từ đó dẫn đến
làm suy giảm nền kinh tế .
Tín dụng là một trong ba nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng thương mại đó là:
Nhận tiền gửi , hoạt động tín dụng, trung gian thanh toán , hơn nữa nó là nguồn
sinh ra lợi nhuận nhiều nhất cho Ngân hàng thương mại vì thế mà muốn hệ
thống Ngân hàng ổn định và phát triển thì đòi hỏi chất lượng hoạt động tín dụng
cũng phải ổn định và hiệu quả .
Xuất phát từ quan điểm đó mà em đã chọn đề tài nghiên cứu là :

1
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
“Một số giải pháp nhằm nâng cao chât lượng tín dụng ngắn hạn tại Chi
nhánh Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Bắc Hà nội ”.
Với thời gian thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Bắc Hà
nội , một Chi nhánh hoạt động trên địa bàn Gia Lâm cùng với số liệu thống kê từ

1.1.KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TÍN DỤNG.
1.1.1. Khái niệm .
Trong nền kinh tế hàng hoá tiền là phương tiện thanh toán chủ yếu trong tất
cả các muối quan hệ kinh tế, nền kinh tế hàng hoá càng phát triển bao nhiêu thì
tốc độ quay vòng của đồng tiền càng nhanh bấy nhiêu, lúc này bản thân mỗi chủ
thể kinh tế không thể tự đáp ứng được nhu cầu về vốn của mình mà họ phải dựa
vào các chủ thể kinh tế khác đặc biệt là Các tổ chức tín dụng thông qua quan hệ
tín dụng mới có thể đáp ứng được nhu cầu vốn của mình. Chính vì thế ta có thể
nói cơ sở hình thành và phát triển của quan hệ tín dụng chính là sự tin tưởng và
nhu cầu về vốn trong nền kinh tế hàng hoá. Từ cơ sở hình thành đó ta có thể đưu
ra một khái niệm chung về quan hệ tín dụng như sau :
Tín dụng là quan hệ vay mượn, sử dụng vốn của lẫn nhau một cách tạm thời
và dựa trên nguyên tắc hoàn trả tin tưởng.
Từ khái niệm trên ta có thể thấy tín dụng không phải là quan hệ mua bán , chỉ
xảy ra trong thời gian nhất định và phải được xác định trên cơ sở tin tưởng lẫn

4
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
nhau. Nói chung đứng trên mỗi góc độ khác nhau người ta sẽ có cách hiểu khác
nhau về tín dụng , chính vì thế mà theo Luật các tổ chức tín dụng của Việt nam
đã đưa ra định nghĩa về hoạt động tín dụng như sau:
“ Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng vốn tự có, vốn huy động
để cấp tín dụng ” . Trong đó cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để
khách hàng sử dụng khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho
vay , chiết khấu , cho thuê tài chính , bảo lãnh Ngân hàng và các nghiệp vụ
khác .
Dù đứng trên quan điểm như thế nào chăng nữa thì bản chất hoạt động tín
dụng không hề thay đổi: Trong quan hệ tín dụng ngườn cho vay chỉ nhường
quyền sử dụng vốn cho người đi vay trong một thời gian nhất định chứ không

điều này được lý giải ở trên những khía cạnh sau:
1.2.1. Trong nền kinh tế thi trường mỗi doanh nghiệp đều muốn được thể hiện
và khẳng định mình trên thương trường . Muốn thắng được đối thủ cạnh tranh
đòi hỏi mỗi doanh nghiệp cần phải có được ba yếu tố đó là : Vốn; Lao động;

6
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Khoa học công nghệ, trong đố có thể nói Vốn là yếu tố nền tảng hình thành
nên hai yếu tố còn lại. Nếu có vốn thì mỗi doanh nghiệp sẽ mua được máy móc
thiết bị , vây dựng nhà xưởng v.v.v. Đồng thời họ cũng thuê được lao động ,
đào tạo được đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn ngày càng cao hơn.
Nhưng rõ ràng là với số vốn tự có của mình thì bản thân mỗi doanh nghiệp sẽ
không thể đảm bảo được tất cả các mối quan hệ kinh tế , chính vì thế mà trong
nguồn vốn của doanh nghiệp luôn tồn tại hai nguồn chính đó là Nợ và Vốn chủ
sở hữu. Do đó quan hệ tín dụng được hình thành một cách khách quan trong
chính nhu cầu của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường , chỉ có quan
hệ tín dụng ra đời mới đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế nói chung , các
doanh nghiệp nói riêng . Ngân hàng sẽ là tổ chức tài chính trung gian cung cấp
nghiệp vụ đó , đồng thời là người điều hoà vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu góp
phần làm ổn định và phát triển nền kinh tế .
1.2.2. Trong nền kinh tế thị trường ở bất kỳ thời điểm nào cũng xuất hiện
tượng: “ Tạm thời thừa vốn” và “ Tạm thời thiếu vốn “
1.2.2.1. “Tạm thời thừa vốn”.
Thừa ở đây với nghĩa là tổ chức , đơn vị đó có một lượng vốn nhàn rỗi
trong một thời gian nhất định. Điều nay được thể hiện cụ thể trong từng chủ
thể của nền kinh tế .
- Chính phủ :

7

có một tài khoản của mình ở nước ngoài để giao dịch . Chính những lí do đó đã
tạo nên một lượng vốn nhàn rỗi không nhỏ có thể sử dụng trong một thời gian
nhất định.
1.2.2.2. “ Tạm thời thiếu vốn”.
Thiếu vốn ở đây với nghĩa là tổ chức đơn vị đó thiếu lượng tiền mặt tạm
thời để trang trải cho những hoạt động kinh tế trước mắt đòi hỏi phải chi tiền
mặt . Và điều này được thể hiện cụ thể trong từng chủ thể của nền kinh tế .
- Chính phủ:
Đóng vai trò là một chủ thể lớn điều hành thúc đẩy sự phát triển của một
đất nước , Chính phủ thường đầu tư vào các dự án lớn như cơ sở hạ tầng , các
công trình mang tính sống còn đối với lợi ích của quốc gia mà tư nhân không
có đủ khả năng và điều kiện thực hiện . Nguồn vốn đầu tư chính phủ lấy từ
Ngân sách nhà nước (NSNN), nhưng đôi khi NSNN không đủ vì chưa đến hạn
thu thuế dẫn đến sự thiếu vốn đấu tư Chính phủ phải đi vay
- Các doanh nghiệp :
Như ta đã biết các doanh nghiệp khác nhau về điều kiện sản xuất kinh
doanh dẫn đến tuần hoàn luôn chuyển vốn khác nhau . Đồng thời mỗi doanh
nghiệp lại là một thực thể sở hữu khác nhau cho nên luôn tồn tại hai nhóm

9
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
doanh nghiệp này thừa vốn thì doanh nghiệp khác thiếu vốn vì chưa bán được
hàng, chưa thu được tiền nhưng đã đến thời hạn phải thanh toán các khoản nợ ,
phải trả lương ... Dẫn đến các doanh nghiệp có nhu cầu được vay vốn.
- Cá nhân:
Người tiêu dùng đôi khi có những khoản phải chi bất thường hoặc những
khoản chi tiêu ngoài khả năng tài chính tạm thời của họ nhưng họ có khả năng
bù đắp những thiếu hụt đó trong tương lai . Điều này dẫn đến nhu cầu vay tiêu
dùng của cá nhân .

Thứ hai. Tín dụng huy động, tập trung vốn thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Bất kỳ một quốc gia nào muốn phát triển nền kinh tế cũng cần phải có một
nguồn vốn đầu tư lớn để đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động, giảm giá
thành sản phẩm, chiến thắng trong cạnh tranh. Nhưng để có lượng vốn đầu lớn
như vậy thì chỉ có quan hệ tín dụng với đáp ứng được điều đó bởi quan hệ tín
dụng sẽ tập trung huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế và đáp
ứng nhu cầu đó.
Thứ ba. Tín dụng góp phần nâng cao mức sống của dân cư.

11
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Một trong những ví dụ điển hình để minh chứng cho điều này là thông qua
quan hệ tín dụng mà những người có thu nhập thấp những người tàn tật đã có
được nhà ở, phương tiện đi lại, điện thoại v.v. Bởi họ có thể sử dụng phương
thức vay trả góp.
Thứ tư. Là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
Như ta đã biết cơ cấu kinh tế được quyết định bởi cơ cấu đầu tư mà tín
dụng lại quyết định đến cơ cấu đầu tư. Nhà nước thông qua hoạt động của các
Ngân hàng thương mại, chủ yếu là hoạt động tín dụng để điều chỉnh cơ cấu
kinh tế.
3. Các hình thức tín dụng Ngân hàng.
Hoạt động tín dụng Ngân hàng bao gồm các nghiệp vụ: Cho vay, chiết
khấu, bảo lãnh, cho thuê tài chính.
3.1. Hoạt động cho vay.
Hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại. Tuy
nhiên trong hoạt động tín dụng thì hoạt động cho vay đóng vai trò quan trọng
và chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng tài sản và nó cũng là hoạt động mang lại
lợi nhuận chủ yếu cho Ngân hàng.
Ứng với mỗi tiêu thức khác nhau người ta phân loại cho vay khác nhau, ta

Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
3. Hàng đã bán(thường là bán chịu).
4. Tiền mặt thu về( ngay khi bán hàng hoặc thu từ các khoản bán
chịu) và được dùng để trả các khoản vay ngân hàng.
Trong trường hợp này, kỳ hạn của các khoản vay bắt đầu được tính từ khi hãng
cần vốn để đáp ứng yêu cầu mua hàng, kết thúc(có thể trong vòng từ 60 đến 90
ngày) khi hãng thu được tiền bán hàng và nhập vào tài khoản để trả nợ cho Ngân
hàng.
+ Cho vay vốn lưu động.
Đây là những khoản cho vay ngắn hạn đối các hãng kinh doanh với kỳ hạn
kéo dài từ vài ngày đến 1 năm. Các khoản vay vốn lưu động thường được dùng
để mua hàng dự trữ hoặc mua nguyên vật liệu. Do đó chúng có những đặc điểm
gần giống với các khoản cho vay tự thanh toán như đã đề cập ở trên.
Thông thường các khoản vay vốn lưu động được sử dụng để đáp ứng mức
sản xuất và nhu cầu tín dụng trong thời kỳ cao điểm của chu kỳ kinh doanh. Ví
dụ một hãng sản xuất quần áo dự đoán rằng nhu cầu đối với quần áo học sinh
vào mùa thu và quần áo ấm vào mùa đông là rất lớn. Do vậy hãng cần các
khoản tín dụng ngắn hạn vào cuối mùa xuân và mùa hạ để mua vải và thuê
thêm công nhân nhằm tăng sản lượng để đáp ứng hàng hoá cho người bán lẻ
trong giai đoạn từ tháng 8 đến tháng 12 . Ngân hàng của hãng lập ra một hạn
mức tín dụng thời hạn từ 6 đến 9 tháng cho phép hãng sản xuất quần áo có thể
rút tiền trong suất giai đoạn này. Quy mô của hạn mức tín dụng được xác định

14
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
trên cơ sở dự tính về lượng vốn lớn nhất mà hãng có thể sẽ cần tại bất cứ thời
điểm nào trong suốt thời hạn của hợp đồng tín dụng.
Thông thường các khoản cho vay vốn lưu động được đảm bảo bằng các

hoặc đến hạn thanh toán. Các ngân hàng lớn nhất thường sẵn sàng cho vay đối
với người kinh doanh chứng khoán vì những khoản cho vay này có chất lượng
cao, thường được đảm bảo bằng chứng khoán Chính phủ do nhà kinh doanh
chứng khoán nắm giữ. Hơn nữa nhiều khoản vay kinh doanh chứng khoán có
kỳ hạn rất ngắn, chỉ là vay qua đêm hoặc vài ngày. Nhờ vậy ngân hàng có thể
nhanh chóng thu hồi vốn hoặc cho vay các khoản mới với lãi suất cao hơn nếu
thị trường tín dụng trở nên căng thẳng.
Một hình thức tín dụng khác thuộc loại này là cho vay đối với các tổ chức
ngân hàng đầu tư. Hỗ trợ cho hoạt động bảo lãnh phát hành trái phiếu , cổ
phiếu công ty và các giấy nợ của Chính phủ. Việc bảo lãnh phát hành chứng
khoán thường diễn ra khi ngân hàng đầu tư giúp đỡ khách hàng trong việc mua
lại công ty khác, giúp đỡ Công ty phát hành chứng khoán lần đầu, phát hành
thêm cổ phiếu để tăng quy mô vốn kinh doanh hiện có, hoặc hỗ trợ doanh

16
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
nghiệp thực hiện hoạt động đầu tư mới. Khi ngân hàng bán chứng khoán mới
cho các nhà đầu tư trên thị trường vốn thì khoản vay cùng với lãi sẽ được hoàn
trả.
+ Cho vay kinh doanh bán lẻ.
Các ngân hàng hỗ trợ người tiêu dùng trong việc mua trả góp xe máy, đồ
dùng gia đình, nội thất và các hàng hoá lâu bền khác bằng cách tài trợ cho các
khoản phải thu mà người bán những hàng hoá này sẽ nhận được sau khi họ ký
hợp đồng bán trả góp. Hợp đồng trả góp sẽ được ngân hàng của người bán lẻ
xem xét. Nếu đáp ứng các yêu cầu tín dụng, ngân hàng sẽ mua những hợp
đồng này với một mức lãi suất thay đổi tuỳ theo chất lượng tín dụng người vay
vốn, chất lượng của vật thế chấp và thời hạn của mỗi khoản vay.
Đối với người kinh doanh mô tô, ti vi, đồ nội thất và các hàng hoá lâu bền
khác Ngân hàng có thể tài trợ dự trữ tồn kho thông qua việc xác định kế hoạch

Ngân hàng cho vay theo một tỷ lệ phần trăm nhất định trên giá trị ghi sổ của tài
khoản phải thu, hoặc trên giá trị hàng tồn kho. Ví dụ ngân hàng có thể sẵn sàng
cho vay một khoản tiền bằng 70% khoản phải thu trên tài khoản thanh toán

18
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
vãng lai của doanh nghiệp. Một cách khác ngân hàng có thể cho vay tới 40%
giá trị hàng tồn kho hiện tại của doanh nghiệp gồm hàng hoá đang bán hoặc
hàng hoá trong kho. Khi thu hồi được các khoản phải thu hoặc bán được hàng
doanh nghiệp sẽ chuyển một phần tiền mặt thu về tới ngân hàng để trả nợ tiền
vay.
Đối với hầu hết những khoản vay được thế chấp bằng các khoản phải thu
hay hàng tồn kho doanh nghiệp đi vay vẫn có quyền sở hữu đối với các tài sản
đó. Tuy nhiên đôi khi quyền sở hữu cũng được chuyển sang cho ngân hàng để
hạn chế rủi ro khi một số khoản nợ không được thanh toán như dự tính.
- Cho vay trung hạn.
Là loại cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm, loại tín dụng này chủ yếu
được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết
bị, công nghệ mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy
mô nhỏ và có thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Cho vay dài hạn.
Là loại cho vay có thời hạn từ 5 năm trở lên, loại cho vay này chủ yếu để
đáp ứng nhu cầu dài hạn như: Xây dựng nhà ở, các thiết bị phương tiện vân tải
có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới. Loại cho vay này tài trợ cho các
loại:
+ Cho vay kỳ hạn mua thiết bị và các tài sản cố định khác.
+ Cho vay luôn chuyển.

19

doanh nghiệp tạo nên tâm lý yên tâm hơn và giảm rủi ro. Có nhiều loại bảo đảm
và do đó cũng có nhiều loại cho vay theo hình thức bảo đảm khác nhau như cho
vay cầm cố, cho vay thế chấp, cho vay bảo lãnh....
Theo hình thức này ta có thể phân loại cho vay thành cho vay có bảo đảm và
không có bảo đảm.
- Cho vay có bảo đảm.
Là một loại hình tín dụng được cấp phát trên cơ sở có tài sản thế chấp,
cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của bên thứ 3.
- Cho vay không có bảo đảm.
Là việc cấp tín dụng không cần tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh mà
dựa trên uy tín của chính khách hàng hay người ta còn gọi là tín chấp. Khách
hàng được ngân hàng cho vay theo hình thức này thường là những khách hàng
truyền thống của ngân hàng có uy tín và độ tin cậy cao.
3.1.4 Theo phương thức hoàn trả.
Theo phương thức này ta có thể phân loại cho vay thành hai loại:
- Cho vay trả góp: Là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn, gốc và
lãi theo định kỳ, trả dần trong suốt kỳ hạn thực hiện hợp đồng. Kỳ hạn hoàn
trả có thể hàng tháng, hàng quý , nửa năm hoặc một năm.

21
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
- Cho vay trả một lần: Là loại cho vay trả một lần theo kỳ hạn đã thoả thuận.
3.1.5 Theo loại hình tiền tệ.
- Cho vay bằng ngoại tệ.
- Cho vay bằng nội tệ.
- Cho vay bằng vàng.
3.2 Hoạt động cho thuê tài chính(Leasing).
Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn trên cơ sở hợp
đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là tổ chức tín dụng với khách hàng

Ngân hàng. Vì vậy từ giờ trở đi ta thống nhất một thuật ngữ tín dụng ngắn hạn
là để chỉ hoạt động cho vay ngắn hạn.
II. QUY TRÌNH PHÂN TÍCH TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG.

23
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Để chuẩn hoá quá trình tiếp xúc, phân tích, cho vay và thu nợ đối với khách
hàng, các Ngân hàng thường đặt ra quy trình phân tích tín dụng. Đó chính là
các bước(hoặc nội dung công việc) mà cán bộ tín dụng, các phòng ban có liên
quan trong Ngân hàng phải thực hiện khi tài trợ cho khách hàng.
Bước1: Phân tích trước khi cấp tín dụng.
Đây là bước quan trọng nhất, quyết định đến chất lượng của phân tích tín
dụng. Nội dung chủ yếu là thu thập và sử lý thông tin liên quan đến khách hàng
bao gồm năng lực sử dụng vốn vay và uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận và
nguồn ngân quỹ, quyền sở hữu các tài sản và các điều kiện kinh tế khác có liên
quan đến người vay.
Bằng các phương pháp như : phỏng vấn trực tiếp, mua hoặc tìm kiếm thông
tin qua các trung gian(qua các cơ quan quản lý, qua cac bạn hàng chủ nợ khác
của người vay, qua các trung tâm thông tin hoặc tư vấn), thông qua các báo cáo
của người vay trính cho Ngân hàng. Ngân hàng sẽ có được những thông tin về
khách hàng của mình, một điều quan trọng đối với Ngân hàng là phải xử lý
được các thông tin đó, làm sao phải xác định được tín trung thực của những
thông tin mà Ngân hàng có được.
Nội dung phân tích chủ yếu của bước này là phải tập trung vào:
- Đánh giá tài sản của khách hàng, việc đánh giá tài sản của khách hàng là
điều quan trọng đối với Ngân hàng bởi vì tài sản(một phần hoặc tất cả) của
khách hàng luôn được coi là vật đảm bảo cho khoản vay, tạo khả năng thu

24


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status