Tài liệu Luận văn tốt nghiệp “Tiền lương thu nhập và tác động của nó đến năng suất lao động hiện nay ở Việt Nam” - Pdf 95

LỜI NÓI ĐẦU
Trong quá trình phát triển chung của nhân loại,của mỗi đất nước .Vấn đề
đảm bảo cuộc sống cho người lao động cả về mặt vật chất lẫn tinh thần
không ngừng được nâng lên luôn là một trong những vấn đề được quan tâm
hàng đầu .Cũng như đối với Việt Nam chúng ta,vấn đề trả lương trong các
doanh nghiệp Nhà nước luôn được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm để
phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự
điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động mà người sử
nhập hợp lý giữa các ngành,các vùng trong nền kinh tế quốc dân và đảm bảo
thống nhất giữa ba lợi ích Nhà nước,doanh nghiệp và người lao động.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này trong các doanh nghiệp
Nhà nước và được sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ ngân hàng,đặc biệt là
sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo Vũ Hoàng Ngân .Tôi đã đi sâu vào nghiên
cứu đề tài: “Tiền lương thu nhập và tác động của nó đến năng suất lao
động hiện nay ở Việt Nam”
Tôi đã cố gắng đưa ra một cách khái quát và đầy đủ nhất về vấn đề.Song do
thời gian có hạn và là lần đầu viết về vấn đề này nên không thể tránh được
những thiếu sót ,rất mong được những ý kiến góp ý để tôi có thể nắm vững
hơn về vấn đề và hoàn thiện hơn trong những lần viết sau:
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Ngoài phần mở đầu và kết luận đề tài gồm ba phần chính như sau:
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TIỀN LƯƠNG-THU NHẬP TRONG
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC.
1
PHẦN 2:THỰC TRẠNG TIỀN LƯƠNG THU NHẬP CỦA NGƯỜI LAO
ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC HIỆN NAY.
PHẦN 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC TRẢ
LƯƠNG NHẰM TẠO ĐỘNG LỰC CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG
2
Phần thứ nhất

lấy một khoản tiền nhất định để nuôi bản thân và gia đình.Vì vậy,giữa người
sử dụng lao động và người lao động nảy sinh quan hệ mua bán và cái được
trao đổi ,mua bán ở đây là sức lao động của người lao động và số tiền của
người lao động trả cho người lao động chính là giá cả của sức lao động hay
nói khác đi tiền lương chính là giá cả sửc lao động .
Lúc này ,Đảng và Nhà nước ta đã nhận định “tiền lương là giá cả của sức
lao động “Tiền lương là giá cả sức lao động ,được hình thành qua sự thoả
thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động thông qua hợp đồng
lao động ,phù hợp với các quan hệ của nền kinh tế thị trường đang trong quá
trình hoàn thiện theo định hướng XHCN”.
Điều đó có nghĩa là tiền lương phải được trả theo đúng giá trị sức lao
động,phải coi tiền lương như một động lực thúc đẩy từng cá nhân người lao
động hăng say làm việc,nhưng phải tránh tính chất bình quân.Có thể cùng
trình độ chuyên môn ,cùng bậc thợ nhưng tiền lương lại rất khác nhau do
hiệu quả sản xuất khác nhau hay do sức lao động khác nhau .
Quan điểm mới này về tiền lương đã tạo cho việc trả lương đúng với giá
trị sức lao động ,tiền tệ hoá tiền lương triệt để hơn ,xoá bỏ tính phân phối
cấp phát và trả lương bằng hiện vật.Đồng thời nó đã khắc phục quan điểm
coi nhẹ lợi ích cá nhân như trước kia , Tiền lương phải được sử dụng đúng
4
vai trò đòn bẩy kinh tế của nó kích thích người lao động gắn bó hăng say với
công việc.
Tóm lại tiền lương là một khỏan tiền mà người sử dụng lao động trả cho
người lao động khi họ hoàn thành một công việc nào đó theo đúng số lượng
và chất lượng đã thoả thuận.Sức lao động là hàng hoá ,tiền lương là giá cả
sức lao động ,và người sử dụng sức lao động căn cứ vào số lượng và chất
lượng của người công nhân ,cũng như mức độ phức tạp,tính chất độc hại của
công việc để trả lương cho người lao động.
Thu nhập là khoản tiền mà người lao động trong doanh nghiệp được
người sử dụng lao động trả theo lao động và là khoản thu thường xuyên ,tính

tiếp để làm ra sản phẩm hay hoàn thành công việc.
Như vậy đơn giá tiền lương này không phải chỉ áp dụng cho người trực
tiếp sản xuất ra sản phẩm hay hoàn thành công việc mà cho mọi lao động có
tham gia vào việc hoàn thành nó như người quản lý,công nhân phụ trách kỹ
thuật
a. Tiền lương thực tế và tiền lương danh nghĩa .
Tiền lương danh nghĩa :Là lượng tiền mà người lao động nhận được từ
người sử dụng lao động theo lượng giá trị sức lao động đã bỏ ra.
Tiền lương thực tế: là lượng tư liệu sinh hoạt ,vật chất mà người lao động
mua được từ tiền lương danh nghĩa.
6
b- Thu nhập.
Thu nhập được hiểu là tất cả những gì bằng tiền và hiện vật mà người lao
động nhận được từ phía người sử dụng bao gồm :tiền lương(tiền công) ,các
loại phụ cấp lương,tiền thưởng và những khoản thường xuyên ,ổn định mà
người sử dụng lao động chi trực tiếp cho người lao động như ăn giữa ca,tiền
đi lại
Tiền lương là một bộ phận chính của thu nhập.
Các khoản thu khác chủ yếu là phúc lợi xã hội như đi tham quan,tổ chức
phương tiện đi lại,liên hoan sinh nhật,tổ chức nơi ăn ,ở cho công nhân viên.
c- Thang lương
Là bảng xác định quan hệ tỉ lệ về tiền lương giữa những công nhân cùng
nhóm ngành có trình độ lành nghề khác nhau.
II/- NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG(NSLĐ).MỐI QUAN HỆ GIỮA TIỀN
LƯƠNG ,THU NHẬP VÀ NSLĐ.
1. Khái niệm.
Năng suất lao động là chỉ tiêu về hiệu quả hữu ích của hoạt động có mục
đích của con người trong quá trình sản xuất.
Mức năng suất lao động được xác định bằng số lượng sản phẩm sản xuất
ra trong một đơn vị thời gian hoặc lượng thời gian lao động hao phí để sản

8
Trước khi tìm hiểu về mối quan hệ ,sự tác động qua lại giữa tiền
lương,thu nhập và NSLĐ,ta hiểu thực chất về mối quan hệ này là gì và nó là
sợi dây xuyên suốt mối quan hệ này.
Thực chất của mối quan hệ giữa tiền lương ,thu nhập và NSLĐ là mối
quan hệ giữa ăn và làm hay cái được hưởng và cái làm ra hay xét trong
phạm vi toàn xã hội là tiêu dùng và sản xuất.
Giữa tiền lương ,thu nhập và NSLĐ có một điểm gắn kết như sợi dây
dàng buộc,đó là quá trình lao động .Quá trình lao động gồm nhiều hoạt động
lao động,sử dụng sức lao động để tạo ra NSLĐ làm ra sản phẩm.Quá trình
lao động đã làm hao phí sức lao động của người lao động để tạo ra sản
phẩm nên người lao động phải được nhận một khoản tiền để bù đắp lại
lượng lao động đã hao phỉ trong quá trình lao động,đó là tiền lương .Đây
chính là cái mà người lao động được hưởng sau khi đã sử dụng sức lao động
của mình tạo ra NSLĐ để tạo ra sản phẩm.Cụ thể hơn ,NSLĐ là một yếu tố
của quá trình lao động,là thước đo của việc sử dụng sức lao động ,đó là lao
động .Lao động sản xuất ra của cải vật chất.Còn tiền lương và thu nhập là
giá cả trả cho sức lao động đã bỏ ra để lao động làm ra của cải vật chất
đó.Như vậy, người lao động sử dụng sức lao động để làm ra sản phẩm và họ
đựoc hưởng một lượng tiền gọi là tiền lương tương ứng với sức lao động họ
đã bỏ ra.Vậy mối quan hệ giữa tiền lương thu nhập và NSLĐ là mối quan hệ
giữa làm và ăn.
Ngoài ra ,trong mối quan hệ giữa tiền lương,thu nhập và NSLĐ,tốc độ
tăng của tiền lương thấp hơn tốc độ tăng của năng suất lao động.Như trên đã
nói,giữa tiền lương,thu nhập và NSLĐ có mối quan hệ nhưng mối quan hệ
đó như thế nào,làm ra bao nhiêu hưởng bấy nhiêu hay chỉ hưởng một phần
của cải làm ra ,khi NSLĐ tăng lên thì tiền lương cũng tăng lên một lượng
9
tương ứng hay chỉ tăng lên thêm một phần của làm ra.Thực tế cho thấy tốc
độ tăng năng suất lớn hơn tốc độ tăng tiền lương bình quân.Tức là lượng vật

hay ăn trước ,làm sau vẫn không được rõ ràng nhưng thực tế giữa tiền
lương,thu nhập và NSLĐ có mối quan hệ biện chứng.
b- NSLĐ tác động đến tiền lương và thu nhập
NSLĐ tác động đến quĩ tiền lương, làm tăng hoặc giảm quĩ tiền lương trong
tổ chức ,doanh nghiệp nhưng không có nghĩa là tương ứng với nó cũng làm
tăng hoặc giảm tiền lương,thu nhập của người lao động .
NSLĐ tăng làm rút ngắn thời gian để hoàn thành một lượng công việc hay
sản xuất ra một khối lượng sản phẩm,từ đó hoàn thành vượt mức sản lượng
hay hoàn thành đúng mức sản lượng trước thời định.Vì vậy,người lao động
được thưởng theo quy định góp phần làm tăng thu nhập của người lao
động.Mặt khác,tăng NSLĐ làm tăng sản phẩm làm ra,đối với công nhân
hưởng lương sản phẩm thì lượng sản phẩm tăng thêm này làm tăng tiền
lương theo công thức:
TL
TL
= ĐG
sp
x Q.
Trong đó:
TL
TL
là tiền lương thực lĩnh
ĐG
sp
là đơn giá sản phẩm (hiểu theo cách hiểu thứ nhất)
Q là lượng sản phẩm làm ra.
11
Như vậy, tăng Q kéo theo tăng TL
TL
Tóm lại “làm” có liên quan chặt chẽ đến “hưởng” làm ra được nhiều hơn thì

min
là tiền lương tối thiểu
(K là hệ số điều chỉnh bình quân
(H là hệ số cấp bậc bình quân.
Theo công thức trên,khi tiền lương tối thiểu tăng thêm một lượng ít thì
tiền lương bình quân tăng thêm được một lượng gấp (K lần ,cho thấy việc
đưa ra và điều chỉnh mức lương tối thiểu là rất quan trọng. Tiền lương tối
thiểu mà phù hợp sẽ có tác động tốt đến người lao động với ý nghĩa làm một
khoản thu nhập chính, từ đó bảo đảm được năng suất lao động ổn định và
tăng lên. Nêu tiền lương tối thiểu quá thấp, dẫn đến tiền lương bình quân
thấp, tiền lương không còn là khoản thu nhập chính của người lao động và
mất tác dụng kích thích người lao động làm việc, tăng năng suất lao động.
Nếu tiền lương tối thiểu quá cao, gây ra sự đảo ngược hay quan hệ không
hợp lý giữa tốc độ tăng tiền lương và tốc độ tăng năng suất lao động, từ đó
ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của các tổ chức
kinh tế nói riêng, của xã hội nói chung. Ngoài ra, việc chi trả cho tất cả cho
các lao động trong tổ chức một cách công khai cũng có tác động đến tâm lý
lao động rất nhiều, việc công khai đó giúp người lao động cảm thấy sự công
bằng giữa những người lao động và giữa làm và hưởng của mình với người
khác, từ đó tạo sự phấn khởi trong lao động, giúp cho tăng năng suất lao
động.
Các chính sách về tiền thưởng hay các hình thức thưởng cũng có ảnh
hưởng không nhỏ đến việc tăng năng suất lao động. Theo thuyết động cơ của
Taylor, tiền là động cơ khiến con người làm việc, tuy Taylor có mặt hạn chế
vì ông coi tiền là động cơ duy nhất và ví người lao động như cái máy mà
tiền là năng lượng để nó hoạt động nhưng ông đã đúng khi coi tiền là động
cơ của lao động. Con người lao động do nhiều động cơ nhưng tiền là động
13
cơ chính, động cơ chủ yếu. Đối với người lao động mục đích của họ là thu
nhập, tiền thưởng là một khoản tiền làm tăng thu nhập, tiền thưởng cũng

khu vực khác nhau của nền kinh tế thì chính sách của nhà nước về tiền lương
cũng khác nhau, kéo theo mối quan hệ giữa tiền lương, thu nhập với năng
suất lao động cũng không giống nhau.
Xem xét về thực trạng, trong đó có một số hạn chế về tiền lương thu nhập
trong các khu vực như: khu vực hưởng hưởng lương từ ngân sách nhà nước
(NSNN), khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN), khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài và tổ chức nước ngoài hoặc quốc tế tại Việt Nam (KHĐTNN) có
15
một số nét chung trong suốt mối quan hệ giữa tiền lương, thu nhập và NSLĐ
như sau:
- Về hệ thống thang bảng lương:
Nói chung, trong các khu vực, trong hệ thống thang bảng lương, hệ số
giãn cách hay tỉ lệ tăng tương đối của hệ số lương giữa các bộ liền kề quá
nhỏ, cho nên khi được nâng bậc, người lao động cũng chỉ được tăng lương
rất ít so với mức lương hiện tại. Ví dụ về hệ thống thang bảng lương trong
khu vực hành chính sự nghiệp kèm theo nghị định 25,NĐ26 ban hành ngày
23 - 5 - 1993 của Chính phủ và tinh thần thông tư liên bộ số 20/LĐ - TT ban
hành 3 - 6 - 1993: gồm 11 chức danh và đa số mỗi chức danh gồm 16 bậc
lương, cụ thể chức danh cán sự gồm 16 bậc lương, hệ số lương bậc 1 là 1,46,
hệ số lương bậc 16 hay bội số lương là 3,33, như vậy trung bình lên 1 bậc,
hệ số lương tăng thêm là (3,33 - 1,46)/15 = 0,125.
Theo mức lương tối thiểu hiện hành do Nhà nước qui định thì trung
bình sau mỗi lần nâng bậc lương người cán sự này được tăng lương thêm
0,125 x 180.000 = 22.500đ, đây là mức trung bình có nghĩa là có những lần
nâng bậc lương cán sự chỉ được tăng lương ít hơn 22.500đ/tháng. Hơn nữa,
do điều kiện về thời gian nâng bậc lại quá cứng nhắc, không linh động,
không xét đến thành tích lao động, khả năng của người lao động và chỉ dựa
vào trình độ đào tạo mà 2 hay 3 năm mới nâng bậc 1 lần. Như vậy người lao
động sau 2 đến 3 năm mới được tăng lương một lần mà một lần tăng lương
lại không đáng kể so với thu nhập hiện tại của họ gây nên mất tác dụng kích

)
Tiền lương tối thiểu chung hiện nay là 180.000đ/tháng/người, theo
nhận định chung, mức lương này còn quá thấp, không đáp ứng được cuộc
sống cho một người làm một công việc bình thường (không qua đào tạo).
Trong điều kiện làm việc bình thường, trong khu vực hành chính, trong công
thức tính tiền lương sử dụng tiền lương tối thiểu. Tính theo năm 1999 số
người hưởng lương từ ngân sách nhà nước thuộc khu vực hành chính sự
nghiệp là 1,425 triệu người, tiền lương bình quân = 494.000 VNĐ/tháng từ
năm 1991 - 1998 tốc độ tăng trưởng kinh tế là 7,5%/năm, nhưng tiền lương
thực tế của CNV giảm 6%/năm do giá cả thực tế tăng dẫn đến tiền lương
mất ý nghĩa. Khi chính phủ ban hành NĐ 28CP ngày 28/3/1997 cho phép
tuỳ theo vùng, ngành nghề, kinh tế, kỹ thuật và hiệu quả sản xuất kinh
doanh mà doanh nghiệp có thể lựa chọn mức hưởng tối thiểu phù hợp để xác
định đơn giá tiền lương tối đa không quá 2,5 lần so với mức lương tối thiểu
chung do nhà nước công bố, theo tiền lương tối thiểu chung bằng 180.000
thì tiền lương tối thiểu chung của doanh nghiệp có thể biến động
180.000VNĐ/tháng đến 450.000 VNĐ/tháng. Từ cơ chế này, tiền lương thu
nhập của người lao động được tăng lên theo báo cáo của Bộ lao động -
Thương binh & Xã hội thì năm 1997, tiền lương thực hiện bình quân chung
của các doanh nghiệp là 851.181 VNĐ/tháng, yếu tố này đã góp phần kích
thích tăng năng suất lao động của 1 người lao động. Ví dụ ở Tổng công ty
Điện lực Việt Nam, do đa phần các doanh nghiệp trực thuộc trả lương tối
thiểu gấp hơn 2 lần tiền lương tối thiểu chung nên thu nhập bình quân của
CBCNV toàn ngành là 1,1triệu VNĐ, năng suất lao động ngày càng tăng,
hiệu quả công việc ngày càng cao. Trong khu vực doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài vấn đề tiền lương tối thiểu rất được nhà nước quan tâm và đã qua
18
nhiều lần điều chỉnh. Theo Nghị định 197CP ngày 31/12/1994 của chính
phủ, tiền lương tối thiểu áp dụng đối với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài
đóng trên địa bàn Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là 35USD/tháng, đối

139,3 USD gồm 10 bậc
Tóm lại, do có chính sách tiền lương của nhà nước ban hành, thu nhập
của người lao động trong khu vực doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, các cơ
quan nước ngoài hay tổ chức quốc tế tại Việt Nam được đảm bảo và ổn định,
NSLĐ tăng, trình độ chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng lao động được nâng
cao. Tổng hợp báo cáo của các địa phương cho thấy, tiền lương bình quân
của lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài
là 74,02 USD/tháng, tương đương 1029000VNĐ/tháng, cao nhất là trên
1000USD/tháng tương đương 14.000.000VNĐ/tháng và thấp nhất là
37USD/tháng tương đương 450.000USD/tháng. Tuy nhiên, có rất nhiều
doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (20%) chưa chấp hành được qui chế về tiền
lương tối thiểu này và nhiều doanh nghiệp còn áp dụng tiền lương tối thiểu
để trả cho lao động kỹ thuật, lao động có qua đào tạo. Mặt khác, trong khu
vực này có sự phân biệt trong việc trả lương cho lao động nước ngoài là lao
động Việt Nam. Đành rằng khi có cả lao động nước ngoài và lao động Việt
Nam tham gia cùng một công việc với cùng trình độ, tiền lương là do hai
bên thoả thuận và người lao động nước ngoài được thêm một số khoản như
xa gia đình, xa tổ quốc nhưng sự chênh lệch không được quá lớn, điều này
gây nên tâm lý bất bình, không thoải mái cho người lao động Việt Nam dẫn
đến hiệu quả làm việc kém đi.
20
Qua thực tế trên cho thấy, sự chênh lệch về tiền lương bình quân giữa
hai khu vực doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài là
khá lớn, trong khi chênh lệch về năng lực làm việc chưa hẳn là như thế thậm
chí ngược lại. Đây là hạn chế của chính sách tiền lương của nước ta. Điều
này gây tâm lý bất bình dẫn đến thái đội không tích cực với công việc của
lao động trong doanh nghiệp nhà nước khi có sự so sánh về tiền lương giữa
hai khu vực.
Ngoài các khu vực vừa nêu ra còn có khu vực các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh, khu vực này có mức tiền công bình quân rất thấp, khoảng

doanh nghiệp, khi giao đơn giá và phải bảo đảm nguyên tắc tốc độ tăng tiền
lương phải thấp hơn tốc độ tăng năng suất lao động.
22
b) Xây dựng định mức lao động.
- Tất cả các doanh nghiệp nhà nước phải xây dựng định mức lao động
theo hướng dẫn của Bộ lao động - thương binh và xã hội làm cơ sở tuyển
dụng và sử dụng lao động, xác định đơn giá tiền lương và trả lương gắn với
năng suất, chất lượng lao động
- Các doanh nghiệp phải đăng ký định mức lao động với Bộ ngành
(đối với doanh nghiệp do Trung ương quản lý) hoặc với Sở Lao động -
Thương binh xã hội tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương (nếu doanh
nghiệp do địa phương quản lý).
- Nhà nước kiểm tra việc thực hiện định mức lao động, đơn giá tiền
lương và quản lý đơn giá tiền lương của doanh nghiệp nhằm bảo đảm tiền
lương và thu nhập hợp lý về tiền lương tối thiểu cho phép điều chỉnh mức
lương tối thiểu theo chỉ số trượt giá và quan hệ tiền công trên thị trường để
tính đơn giá tiền lương, nên tăng tiền lương tối thiểu chung để dần dần thu
hẹp khoảng cách tiền lương giữa khu vực hành chính sự nghiệp, các doanh
nghiệp nhà nước với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Hiện nay nhà
nước cũng có chủ trương đến năm 2001 tăng tiền lương tối thiểu từ 180.000
lên 210.000 đồng. Trong các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, ngoài tiền
lương tối thiểu quy định theo vùng như hiện nay cần quy định thêm tiền
lương tối thiêủ theo ngành kinh tế kỹ thuật, giúp doanh nghiệp dễ vận dụng
đối với lao động giữ chức vụ quản lý, câc chức danh chủ chốt là người Việt
Nam và người nước ngoài, tiền lương do HĐQT quyết định trên nguyên tắc
“nếu giữ chức vụ ngang nhau thì tiền lương (tiền lương thực tế) được trả như
nhau”.
23
Cần phải quan tâm đến các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, cần có
những biện pháp thích hợp về tiền lương để đưa các doanh nghiệp này đi

- Bộ Lao động Thương binh và Xã hội quản lý, giao đơn giá tiền
lương đối với doanh nghiệp hạng đặc biệt theo quyết định số 185/TTg ngày
28/3/1996 của Thủ tướng chính phủ.
- Bộ quản lý ngành, lĩnh vực giao đơn giá tiền lương cho các doanh
nghiệp thuộc quyền quản lý.
- Sở Lao động thương binh và xã hội tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương quản lý giao đơn giá tiền lương cho các doanh nghiệp địa phương theo
phân cấp quản lý và các công ty cổ phần có trên 50% vốn do các doanh
nghiệp nhà nước đóng góp, đóng trên địa bàn địa phương. Trường hợp các
doanh nghiệp chưa xây dựng định mức lao động và đơn giá tiền lương hoặc
chưa được xét duyệt đơn giá tiền lương theo phân cấp quản lý thì quĩ lương
chỉ được quyết toán theo tổng số lao động thực tế sử dụng với hệ số mức
lương bình quân do cơ quan quản lý quyết định theo mức lương tối thiểu
180.000đ/tháng.
- Hàng năm các Bộ, ngành, Sở Lao động thương binh và Xã hội tỉnh,
thành phố trực thuộc TW có trách nhiệm báo cáo về Bộ lao động thương
binh và xã hội kết quả đăng ký và quản lý định mức lao động, đơn giá tiền
lương được duyệt và tình hình tiền lương, thu nhập của các doanh nghiệp
thuộc quyền quản lý.
25


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status