Tài liệu Luận văn tốt nghiệp "Một số giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán Việt Nam" - Pdf 99

TRƯỜNG
KHOA LUẬN VĂN Một số giải pháp thu hút vốn đầu tư
nước ngoài qua thị trường chứng
khoán Việt Nam
MỤC LỤC
DANH MỤC KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN 3
I.Lý luận chung về vốn nước ngoài 3
1.Khái niệm về vốn nước ngoài 3
2.Phân loại vốn nước ngoài 4
2.1 Phân loại dựa trên hình thức tồn tại của từng loại vốn 4

4. Đánh giá hoạt động của TTCK Việt Nam 35
4.1.Những ưu điểm 35
4.2. Những hạn chế 36
III. Thực trạng đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán Việt Nam . 38
1.Hành lang pháp lý về đầu t
ư nước ngoài qua TTCK Việt Nam hiện nay 38
1.1.Các loại công ty được phép đầu tư 39
1.2. Vốn điều lệ và vốn cổ phần 40
1.3. Cổ phần 40
1.4. Đầu tư nước ngoài 41
1.5. Bán cổ phần cho nhà Đầu tư nước ngoài 41
2. Qui mô nguồn vốn ĐTNN qua TTCK (FPI) trong tổng nguồn vốn vào
Việt Nam 42
3. Tình hình nắm giữ cổ phiếu của người nước ngoài 43
4. Tình hình giao dịch củ
a người nước ngoài trên TTCK 48
5. Đánh giá chung tình hình đầu tư nước ngoài qua Thị trường Chứng
khoán Việt Nam 51
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 53
I. Định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam 53
1. Quan điểm và nguyên tắc phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam 54
2. Định hướng phát triển thị trường Việt Nam 54
3. Một số giải pháp thực hiện 55
II. Những điều kiện thuận lợi và khó khăn của Việt Nam trong thu hút vốn
đầu tư nước ngoài qua TTCK 59
1. Những điều kiện thuận lợi 59
1.1 Điều kiện chính trị ổn định 59
1.2. Tình hình kinh tế phát triển 59
1.3. Cải cách cơ cấu được chú trọng 59

FPI
ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP NƯỚC NGOÀI- ĐẦU TƯ DANH MỤC
CHỨNG KHOÁN
GDP
TỔNG SẢN PHẨM QUỐC NỘI
IMF
QUỸ TIỀN TỆ QUỐC TẾ
NHTM
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
ODA
HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC
TTCK
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
TTGDCK
TRUNG TÂM GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN
UBCKNN
UỶ BAN CHỨNG KHOÁN NHÀ NƯỚC
USD
ĐÔ LA MỸ
WB
NGÂN HÀNG THẾ GIỚI

1
LỜI NÓI ĐẦU
MỘT TRONG NHỮNG MỤC TIÊU CHỦ YẾU CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA
KHI XÂY DỰNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN LÀ NHẰM TẠO RA MỘT KỆNH
HUY ĐỘNG VỐN TRUNG VÀ DÀI HẠN MỚI NHẰM PHỤC VỤ CHO CÔNG CUỘC

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM

2
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM.

3
CHƯƠNG I:
LÝ LUẬN VỀ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN
I.LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN NƯỚC NGOÀI
1.Khái niệm về vốn nước ngoài
Trong lịch sử giao lưu kinh tế giữa các vùng kinh tế khác nhau đã diễn ra nhiều hình
thức trao đổi và di chuyển các nguồn lực. Ban đầu hình thức tương đối đơn giản - đơn giản
cả về đối tượng và hình thức di chuyển. Trong thời kỳ nô lệ, hình thức di chuyển sức lao
động của nông lô là điển hình. Do nhu cầu về sức lao động rất lớn ở các vùng có nền nông
nghiệp phát triển nên nô tì được mua về từ các vùng khác nhau để làm việc tại các vùng
này.
Trong thời kỳ phong kiến, hiện tượng di chuyển các nguồn lực vẫn diễn ra. Thời kỳ
này đối tượng di chuyển không chỉ còn là sức lao động mà còn kèm theo sự di chuyển về
nguyên vật liệu cho sản xuất.
Khi chủ nghĩa tư bản ra đời, các hình thức di chuyển và trao đổi các nguồn lực được
thực hiện một cách đa dạng và phong phú hơn. Thời kỳ đầu, xu hướng di chuyển các
nguồn lực được thực hiện một chiều từ các nước bị đô hộ tới các nước đi đô hộ. Các nước
đi đô hộ vơ vét, tận dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú của các nước bị đô hộ
để thực hiện công cuộc phát triển của chính mình. Trong thời kỳ này, đối tượng di chuyển
chủ yếu là tài nguyên, nhiên liệu phục vụ cho sản xuất và đời sống, hình thức di chuyển
hầu hết mang tính “ bóc lột”.
Khi chủ nghĩa đế quốc sụp đổ, sự đô hộ của các nước đế quốc đối với các nước thuộc

có thêm nhu cầu về nguyên nhiên liệu, mặt khác, do sự phân bố tài nguyên ở các vùng
khác nhau là khác nhau dẫn đến sự thiếu hụt và dư thừa nguyên nhiên vật liệu sản xuất, do
vậy nguồn vốn nước ngoài lúc này bao gồm sức lao động và nguyên, nhiên vật liệu.
Khi chủ nghĩa tư bản phát triển, kèm theo nó là sự phát triển rất nhanh của khoa học
kĩ thuật làm cho nền sản xuất phát triển đạt đến trình độ cao hơn. Khoa học kĩ thuật được
áp dụng nhiều hơn vào sản xuất. Nhiều công nghệ sản xuất, quản lý mới ra đời và nó trở
thành yếu tố không thể thiếu trong sản xuất kinh doanh. Lúc này, nguồn lực bên ngoài
không chỉ gồm sức lao động và nguyên nhiên vật liệu mà còn có thêm cả yếu tố kĩ thuật,
công nghệ, nguồn lực tài chính phục vụ cho sản xuất kinh doanh.
Sản xuất càng phát triển, nguồn vốn nước ngoài di chuyển giữa các nước, các khu
vực khác nhau ngày càng phong phú và đa dạng hơn. Hầu hết các yế
u tố phục vụ cho sản
xuất đều có thể trở thành yếu tố được di chuyển trên thế giới. Và nó trở thành nguồn vốn
nước ngoài cho quốc gia tiếp nhận nó.
Như vậy, nguồn vốn nước ngoài không chỉ bao gồm các yếu tố hữu hình như vốn,
máy móc thiết bị, nguyên nhiên liệu, mà còn bao gồm cả yếu tố vô hình như công
nghệ; kĩ thuật; bí quyết; danh tiếng, tác phong kinh doanh .
Nguồn v
ốn nước ngoài tồn tại ở rất nhiều dạng khác nhau. Do vậy, để có những phân
tích sâu hơn về đặc điểm và vai trò của nó chúng ta sẽ phân chia nguồn vốn nước ngoài ra
thành từng loại khác nhau.
2.Phân loại vốn nước ngoài
2.1 Phân loại dựa trên hình thức tồn tại của từng loại vốn
Theo hình thức tồn tại nguồn vốn nước ngoài bao gồm hai loại chính: hữu hình và vô
hình.

5
a) Vốn nước ngoài tồn tại hữu hình
Vốn nước ngoài tồn tại hữu hình là tất cả các nguồn lực hữu hình bên ngoài được
huy động vào một quốc gia. Bao gồm:


6
Căn cứ theo cách phân chia của các nhà kinh tế Việt Nam và để phục vụ cho mục
đích nghiên cứu, trong phạm vi khoá luận này xin phân chia nguồn vốn nước ngoài thành
các loại chính sau :
- Vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI)
Vốn nước ngoài dưới dạng đầu tư trực tiếp là tất cả các nguồn lực được đầu tư vào
một quốc gia và chịu sự chi phối và quản lý trực tiếp từ các chủ đầu tư nước ngoài. Đây là
loại vốn nước ngoài được đầu tư trực tiếp từ bên ngoài vào nước nhận vốn. Nó thường tồn
tại dưới dạng đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia vào nước tiếp nhận. Các
nguồn vốn nước ngoài được sử dụng trực tiếp tại nước tiếp nhận dưới sự quản lý của chủ
đầu tư. Đây là bộ phận quan trọng trong các luồng vốn vào, nó có tính chất dài hạn, không
rằng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nước tiếp nhận, thường đi kèm
với chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản lý, …
- Tín dụng thương mại:
Đây là hình thức bên nước ngoài cho vay vốn và thu lợi nhuận qua lãi suất tiền vay,
bên nước ngoài chủ yếu các ngân hàng nước ngoài nên nguồn vốn này còn được gọi là vốn
vay ngân hàng. Ngoài ra còn có một phần nhỏ khác là tín dụng xuất khẩu tư nhân (bên
nước ngoài khi xuất khẩu cho chịu tiền hàng một thời gian). Đối với loại vốn này, bên
nước ngoài không tham gia vào hoạt động của bên đi vay và bên vay vốn có toàn quyền sử
dụng khoản vốn này, bên chủ đầu tư nước ngoài chỉ thu lợi nhuận qua lãi suất ngân hàng
cố định theo khế ước vay độc lập với kết quả kinh doanh.
- Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
Là tất cả các khoản viện trợ không hoàn lại và khoản tài trợ có hoàn lại (cho vay dài
hạn với một số số thời gian ân hạn và lãi suất thấp) của chính phủ, các hệ thống của tổ
chức Liên hợp quốc, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức tài chính quốc tế (như Ngân
hàng thế giới WB, Ngân hàng phát triển châu Á – ADB, Quỹ tiền tệ quốc tế – IMF…)
dành cho chính phủ và nhân dân nước nhận viện trợ. Các cơ quan và tổ chức hỗ trợ phát
triển nêu trên được gọi chung là đối tác viện trợ nước ngoài. Hình thức này luôn được các
chính phủ quan tâm vì tính chất của nó: cho không, cho vay ưu đãi, thời gian ân hạn và đáo

1. Khái niệm
Như đã nói ở trên, đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán là một trong những
nguồn vốn nước ngoài chính và nó ngày càng trở nên quan trọng, chiếm tỷ lệ lớn trong cơ
cấu vốn nước ngoài.
Thị trường chứng khoán đã ra đời từ rất sớm, bản thân nó là một kênh huy động vốn
trực tiếp trong nền kinh tế quốc dân. Đó là nơi mà các nhà đầu tư tìm kiếm, thay đổi cơ
hội và lĩnh vực đầu tư của mình. Nếu khung pháp lý cho hoạt động này chỉ bó hẹp đối với
các nhà đầu tư trong nước thì thị trường chứng khoán chỉ đơn thuần là một kênh huy động
vốn trong nước. Nhưng nếu khung pháp lý mở rộng ra cho các nhà đầu tư nước ngoài thì
đây lại là một kênh huy động vốn nước ngoài cho nền kinh tế. Trên thực tế, do những ưu
điểm nổi bật của thị trường chứng khoán, do xu hướng tự do hoá tài chính, hầu hết các
quốc gia có thị trường chứng khoán đều cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được phép

8
tham gia vào thị trường chứng khoán. Những nước này, ở một chừng mực nào đó, đã thành
công trong việc thu hút vốn nước ngoài qua thị trường chứng khoán.
Đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán là việc nhà đầu tư nước ngoài (có
thể là cá nhân hoặc tổ chức) bỏ tiền ra mua chứng khoán của một tổ chức hay của nhà
nước được phát hành trên thị trường chứng khoán nhằm kiếm lời từ thu nhập cổ tức
hay trái tức hoặc từ chênh lệch giá do kinh doanh chứng khoán đem lại.
2. Đặc điểm
Đầu tư nước ngoài thông qua thị trường chứng khoán hay đầu tư danh mục chứng
khoán (FPI) là một bộ phận cấu thành của tổng luồng vốn chu chuyển chu chuyển vào và
ra một quốc gia. Xét về mặt bản chất, đầu tư danh mục chứng khoán FPI rất gần với đầu tư
trực tiếp FDI, vì nó đều là những khoản đầu tư trực tiếp vào doanh nghiệp và trực tiếp
hưởng lợi từ kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Điều khác nhau lớn nhất giữa FDI và
FPI chính là ở chỗ nhà đầu tư nước ngoài có hay không tham gia quản lý doanh nghiệp.
Chính vì vậy mà tại nhiều nước FDI và FPI được điều chỉnh chung trong một bộ luật và
thường lấy một tỷ l
ệ nhất định về nắm giữa của bên nước ngoài để phân định giữa FDI và

- Lãi suất của loại này thường cao hơn so với lãi suất vay bằng ODA.
Vì mục đích của nhà đầu tư là thu lợi nhuận thông qua khoản lãi suất được hưởng từ
việc mua trái phiếu, nên các nhà đầu tư luôn đặt yêu cầu lãi suất lên hàng đầu. Do vậy,
công ty hoặc chính phủ khi phát hành trái phiếu luôn phải định ra mức lãi suất đủ cao để
thu hút nhà đầu tư nước ngoài, thậm chí lãi suất loại này còn cao hơn cả lãi suất trung bình
trên thế giới bởi vì lãi suất loại này còn tính đến cả yếu tố rủi ro lạm phát và một số rủi ro
khác.
- Không kèm theo bất kỳ một điều kiện gì hay một sự rằng buộc nào từ phía bên cung
cấp vốn.
Đây là một ưu điểm nổi bật so với vốn ODA của loại vốn này, nó rất có lợi cho bên tiếp
nhận vốn vì sẽ không phải chịu các điều kiện bất lợi khác từ phía bên cung cấp.
- Không bị hạn chế về mục đích sử dụng và chịu sự giám sát trong việc sử dụng vốn.
Đây là một ưu điểm nữa so với nguồn vốn ODA, vì nền kinh tế không phải chịu sự chi
phối về mục đích sử dụng của nhà đầu tư. Chính vì vậy mà nền kinh tế có thể tận dụng tối
đa tác dụng của vốn, sử dụ
ng phục vụ cho đúng mục đích phát triển của mình.
- Phát sinh nợ cho bên tiếp nhận.
Thực chất đây là một khoản vốn vay dài hạn của bên phát hành trái phiếu với nhà đầu
tư, trái phiếu luôn có một khoảng thời gian nợ xác định trước và việc trả nợ được đảm bảo
bằng cam kết của chính phủ và các doanh nghiệp.
b) Đặc điểm về vốn đầu tư nước ngoài huy động thông qua việc phát hành cổ
phiếu của doanh nghiệp.
Tuỳ thuộc vào khung pháp lý của nước huy động qui định về tính chất của cổ phiếu mà
nguồn vốn nước ngoài huy động từ cổ phiếu có khác nhau. Nhưng chủ yếu là có các đặc
điểm sau:

10
- Thời hạn sử dụng dài và phụ thuộc vào (tại Việt Nam) doanh nghiệp nhận vốn .
- Lãi suất rất cao, nó tương đương với mức lợi nhuận được chia mà các doanh nghiệp
trong nước tạo ra.

cho việc chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, vốn cho việc xây dựng và cải tạo nâng cấp cơ sở
hạ tầng, vốn cho việc xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp mới mang tính chủ
đạo, vốn cho việc giải quyết các vấn đề kinh tế nảy sinh trong thời kỳ chuyển đổi như thất

11
nghiệp, trình độ lao động…, vốn cho việc nhập khẩu công nghệ máy móc hiện đại đáp ứng
yêu cầu đổi mới và cạnh trên trường quốc tế.Chính vì vậy việc huy động thêm các nguồn
lực từ bên ngoài trong giai đoạn này là thực sự cần thiết.
Trong tình trạng nền kinh tế kém phát triển, chủ yếu dựa vào nông nghiệp và công
nghiệp chế biến thô sơ, tích luỹ từ bản thân nền kinh tế còn quá thấp. Hơn nữa, cũng từ
việc sản xuất kém phát triển dẫn đến thu nhập của người dân thấp từ đó làm cho tiết kiệm
trong dân rất ít. Tích luỹ (mức độ tái đầu tư trích từ lợi nhuận) của nền kinh tế thấp, tiết
kiệm trong dân thấp dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu về vốn cho đổi mới. Vì vậy
nguồn vốn nước ngoài có vai trò bổ sung nguồn vốn đầu tư, tăng tốc độ tái đầu tư, cần thiết
cho một tiến trình tăng tốc nhanh.
3.2.Vai trò riêng nguồn vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng
khoán
Vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán có những đặc điểm riêng do vậy
nó cũng có những vai trò riêng đối với sự phát triển kinh tế của nước tiếp nhận.
- Vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán có vai trò cung cấp, bổ sung
nguồn vốn trung và dài hạn cho cho các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp mở rộng qui
mô sản xuất. Trong bối cảnh việc huy động nguồn vốn trung và dài hạn trong nước còn
nhiều khó khăn, nhất là ở Việt Nam phải sử dụng cả các khoản tiền gửi ngắn hạn tại các
ngân hàng để tài trợ, thì việc thu hút sử dụng vốn nước ngoài qua thị trường chứng khoán
là cần thiết.
- Vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán chủ yếu là dưới dạng tiền tệ,
do vậy nó cũng giúp chính phủ bù đắp phần nào cán cân thanh toán, từ đ
ó giảm bớt áp lực
về cầu ngoại tệ. Các nước đang phát triển đều ra sức thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại
hoá nền kinh tế, cần phải nhập khẩu nhiều máy móc thiết bị, công nghệ… và các yếu tố sản

trước, minh bạch, công bằng. tạo tâm lý tin cậy cho nhà đầu tư trong và ngoài nước. Vì
nguồn vốn này có tính dễ đột biến, nếu không tạo được tâm lý tin cậy cho các nhà đầu tư,
rất dễ xảy ra tình trạng đào tháo vốn là một trong nguyên nhân gây nên khủng hoảng.
III. KINH NGHIỆM THU HÚT VÀ QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI QUA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN MỘT SỐ NƯỚC
TRONG KỶ NGUYÊN TOÀN CẦU HOÁ CÁC NỀN KINH TẾ HIỆN NAY,
NỀN KINH TẾ CỦA MỘT QUỐC GIA NÓI CHUNG VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN NÓI RIÊNG KHÔNG THỂ TỒN TẠI NHƯ MỘT ỐC ĐẢO RIÊNG BIỆT. SỰ
THAM GIA, THÂM NHẬP CỦA CÁC NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI (BAO GỒM CẢ
NHÀ ĐẦU TƯ CÁ NHÂN VÀ NHÀ ĐẦU TƯ CÓ TỔ CHỨC) VÀO THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN CỦA MỘT NƯỚC LÀ ĐIỀU ĐƯƠNG NHIÊN VÀ HIỆN NAY TRÊN
THẾ GIỚI THẬM CHÍ ĐANG CÓ XU HƯỚNG NHẤT THỂ HOÁ THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN CỦA NHIỀU QUỐC GIA TRONG KHU VỰC.
MÔ HÌNH PHÂN TÍCH NGUỒN FPI HIỆN ĐANG ĐƯỢC CÁC NHÀ KINH TẾ
VÀ HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH CỦA CÁC NƯỚC SỬ DỤNG LÀ MÔ HÌNH ĐẦU
TƯ- HAY MÔ HÌNH “KÉO”. CÁC NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI LUÔN ĐÁNH GIÁ
CÁC CƠ HỘI ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC CŨNG NHƯ NGOÀI NƯỚC, VÀ KHI HỌ
THẤY RẰNG CƠ HỘI CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN TẠO RA LỢI TỨC
CAO HƠN THÌ HỌ SẼ QUYẾT ĐỊNH ĐẦU TƯ. YẾU TỐ THU HÚT CÁC NHÀ ĐẦU

13
TƯ LÀ CÁC YẾU TỐ CƠ BẢN CỦA THỊ TRƯỜNG NƯỚC TIẾP NHẬN, HAY TRIỂN
VỌNG TĂNG TRƯỞNG CAO LÀ TIỀN ĐỀ VÀ DẪN TỚI ĐẦU TƯ VỐN. MUỐN THU
HÚT VÀ GIỮ LẠI VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI THÌ PHẢI TIẾN HÀNH CẢI CÁCH
NỀN KINH TẾ NHẰM CẢI THIỆN CƠ CẤU, TĂNG KHẢ NĂNG TĂNG TRƯỞNG
CAO, GIẢM CÁC RỦI RO TRONG MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ. MỘT SỐ BIỆN PHÁP
ĐỂ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TRÊN NHƯ : TỰ DO HOÁ THỊ TRƯỜNG, CẢI TỔ
HỆ THỐNG NGÂN HÀNG, TÀI CHÍNH, THUẾ, QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP,
KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ, TƯ NHÂN HOÁ.
TRONG SUỐT MẤY THẬP KỶ TRƯỚC KHI DIỄN RA CUỘC KHỦNG

Vào khoảng thập kỷ 70 và 80, hầu hết dòng vốn vào dưới hình thức ODA. Từ cuối
những năm 80 đến nay, cơ cấu dòng vốn đã chuyển theo hướng tỷ trọng vốn tư nhân ngày
càng tăng tương ứng với vai trò ngày càng tăng của khu vực tư nhân trong nền kinh tế
Indonesia. Dòng vốn đổ vào Indonesia đã tăng nhanh trong giai đoạn từ 1990 đến 1996, do
xuất hiện những khoản vay không chính thức trên cơ sở nới lỏng xoá bỏ những hạn chế đối
với các khoản vay thương mại, được sử dụng công cụ swap và lãi suất trong nước tăng cao
so với lãi xuất bên ngoài. Số dư các khoản vay tư nhân đã thay đổi t
ừ mức cho vay 0,1 tỷ
USD năm 1989 sang mức đi vay 0,5 tỷ USD năm 1990, và con số này tăng lên đến 2,6 tỷ
USD vào năm 1996.
Đầu tư gián tiếp FPI tăng từ 0,4 tỷ USD trong 2 năm 1989 lên mức 2 tỷ đô la năm
1990, nhưng sau đó giảm xuống 1 tỷ USD trong hai năm 1991 và 1992. Đầu tư gián tiếp có
xu hương gia tăng nhờ những biện pháp chính sách khuyến khích của chính phủ đối với thị
trường vốn và nhờ có lãi suất t
ăng lên. Trong giai đoạn đầu, đầu tư gián tiếp tăng lên vào
năm 1990 chủ yếu là nhờ sự điều chỉnh các văn bản pháp quy thị trường vốn. Sau năm
1992 dòng vốn gián tiếp vào Indonesia không ngừng tăng lên đạt mức tối đa vào cuối năm
1996 trước khi đi xuống vào năm 1997. Năm 1997, sau những biến động lớn trên Sở giao
dịch chứng khoán Jakarta, dòng vốn đầu tư gián tiếp đã suy giảm hết sức nhanh chóng do
các nhà đầu tư nước ngoài đã bán tống bán tháo các tài sản của mình.
Có thể rút ra kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ 1997 của Indonesia,
cuộc khủng hoảng có một nguyên nhân quan trọng là do không quản lý được nguồn vốn
đầu tư gián tiếp FPI. Việc phân bổ nguồn vốn này kém hiệu quả do sự yếu kém của hệ
thống giám sát các công ty niêm yết, quản trị công ty kém, các thông tin sai lệch ảnh
hưở
ng đến quyết định của các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán
Indonesia. Chính phủ Indonesia lại không duy trì được cơ cấu hợp lý các nguồn vốn, tỷ
trọng nguồn vốn vay ngắn hạn và nguồn vốn đầu tư vào thị trường chứng khoán FPI chiếm
tỷ lệ cao trong tổng nguồn vốn vào, đây là hai dòng vốn có nguy cơ rủi ro cao nhất nên khi
khủng hoảng xảy ra đã dẫn đến tình tr

ở Đài Loan, luật pháp quy định nhà đầu tư là t
ổ chức hoặc cá nhân nước ngoài có
đủ năng lực để có thể mua tới 15% tổng số cổ phiếu đang lưu hành của bất kỳ một công ty
niêm yết nào. Nhưng tổng số vốn cổ phần do các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ không
quá 30% vốn cổ phần của một công ty.
ở Thái Lan, các cá nhân hoặc tổ chức nước ngoài có thể sở hữu tổng cộng không
quá 49% cổ phiếu của một công ty và 25% cổ phiếu của một tổ chức tài chính. Riêng với
Trung Quốc thì chỉ cho phép nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào một loại cổ phiếu riêng biệt
(cổ phiếu B) để dễ bề quản lý.
Ngay tại Mỹ, không phải chứng khoán của công ty bất kỳ nào cũng có thể tham gia
vào bảng định giá của NYSE. Đối với các công ty nước ngoài, điều kiện còn chặt chẽ hơn.

16
Các công ty này phải có một số các chỉ tiêu về số lượng tiền mặt đáng kể. Hơn nữa, ngoài
việc trả lệ phí bước đầu và các khoản tiền khác, công ty phải có nghĩa vụ cung cấp bảng
thông báo có đăng ký về tình hình tài chính 3 tháng một lần, phải chấp nhận việc không
được bán cổ phần nếu không được sự cho phép của thị trường chứng khoán New York,
duy trì đại lý chuyển giao để xử lý các văn bản của các cổ đông Đây là những tiêu chuẩn
căn bản mà nếu không đáp ứng được, công ty có thể bị loại ra khỏi danh sách.
Riêng Luật chứng khoán Thái Lan có quy định rất rộng rãi với phía nước ngoài.
Người nước ngoài có thể sở hữu 49% vốn của một Công ty, ngành ngân hàng, tài chính là
25%. Một phần nào đó vì lý do này mà khi cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu á nổ ra, các nhà
đầu tư gián tiếp ồ ạt rút vốn khỏi thị trường làm thị trường chứng khoán Thái Lan sụp đổ,
càng làm cho tốc độ khủng hoảng nền kinh tế tăng cao.

Như vậy, việc quản lý và hạn chế sự tham gia của nước ngoài vào thị trường chứng
khoán trong giai đoạn đầu, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển là hết sức cần thiết
nhằm tránh khả năng thao túng và gây rối loạn thị trường trong khi kinh nghiệm quản lý,
cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, mặc dù nó sẽ làm giảm mức hấp dẫn của thị trường đối
với các nhà đầu tư nước ngoài.

Mức tăng trưởng được duy trì ở con số cao như vậy là do có sự gia tăng về tổng cầu
trong nước. Tỷ lệ tăng tổng mức bán lẻ hàng hoá đã được phục hồi trở lại mức chưa từng
có kể từ khi nên kinh tế bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng Đông Á năm 1997. Sản xuất
hàng tiêu dùng lâu bền như vật liệu xây dựng nhà, ô tô, xe máy, và ti-vi khẳng định rằng
mức tiêu dùng đã tăng nhanh trong giai đoạn này.

Biểu đồ 2: Tỷ l
ệ tổng mức bán lẻ

Nguồn : Tổng cục thống kê (2002) và ước tính của Ngân hàng thế giới (WB). 1.1.4. Đầu tư phát triển tăng
Việc nhiều doanh nghiệp mới được thành lập và niềm tin vững chắc của các nhà đầu tư
đã thúc đẩy việc đầu tư vốn và đưa con số những doanh nghiệp đăng ký mới lên trên 50.000
trong vòng 2 năm qua. Đến tháng 7-2002, vốn đầu tư từ những doanh nghiệp mới đã tăng 45%
so với cùng kỳ năm trước. Riêng đầu tư của những doanh nghiệp mới vừa và nhỏ trong khu
vực kinh tế chính thức đạt 40 nghìn tỷ đồng ( tương đương với khoảng 2,7 tỷ USD) trong năm
2003, tức là gần 9% GDP. Tổng đầu tư của khu vực nhà nước, kể cả từ nguồn ngân sách và
vốn của doanh nghiệp vào khoảng mức 18% GDP năm 2002.
1.1.5. Cơ cấu nền kinh tế dịch chuyển theo hướ
ng kinh tế thị trường
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong nước tiếp tục dẫn đầu về tăng trưởng. Ngành
chế biến tiếp tục tăng mạnh với khu vực tư nhân trong nước và đầu tư nước ngoài đạt tỷ lệ

19
tăng sản lượng lần lượt là 19% và 15%. Nguyên nhân của xu hướng này là tỷ lệ doanh
nghiệp mới được thành lập đạt mức cao trong năm 2002. Với mức tăng sản lượng 12%
năm sau so với năm trước, sản xuất công nghiệp của khu vực nhà nước có khiêm tốn hơn.
Điều này phản ánh sự chuyển dịch dần dần của Việt Nam sang kinh tế thị trường, nhiều

Việt Nam từ 29% GDP năm 1997 xuống còn 27% GDP năm 1999. Cho tới trước 1997,
vốn đầu tư nước ngoài trung bình hàng năm đạt 2 tỷ USD thì năm 1998 giảm xuống còn
800 triệu USD và còn 600 triệu USD năm 1999.
1.2.3. Các doanh nghiệp còn phụ thuộc quá nhiều vào vốn vay ngân hàng
Nguyên nhân chủ yếu là do Thị trường chứng khoán còn hoạt động chưa có hiệu quả.
Khu vực ngân hàng phải đáp ứng cả nhu cầu cho vay trung và dài hạn cho các doanh nghiệp
trong khi phần lớn nguồn huy động của các ngân hàng lại là ngắn hạn. Chính vì vậy trên
bảng cân đối luôn có nợ quá hạn, và đây chính là một yếu tố làm giảm tỷ lệ tăng trưởng kinh
tế chung (Xem biểu đồ 5).
Biểu đồ 5: Nợ quá hạn ngân hàng trên tổng dư nợ.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status