Tiểu luận Thi hành hình phạt tử hình - pdf 13

Download miễn phí Tiểu luận Thi hành hình phạt tử hình



Khoản 1 Điều 258 BLTTHS 2003 quy định: “Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người bị kết án được gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước.” Tuy điều luật không quy định thời hạn xét đơn xin ân giảm của Chủ tịch nước, nhưng việc quy định quyền gửi đơn xin ân giảm đã khẳng định trách nhiệm xét đơn của Chủ tịch nước và đương nhiên là bản án chỉ có thể đưa ra thi hành sau khi có ý kiến trả lời của Chủ tịch nước. Trường hợp người bị kết án làm đơn xin ân giảm tử hình thì Chánh án TANDTC và Viện trưởng VKSNDTC phải trình tờ trình về ý kiến của mình lên Chủ tịch nước về hình phạt tử hình đối với người bị kết án, sau đó chuyển hồ sơ vụ án cùng đơn xin ân giảm của người bị kết án lên Văn phòng Chủ tịch nước để trình Chủ tịch nước xem xét, quyết định. Để đảm bảo việc xét đơn ân giảm được nhanh chóng và hiệu quả, ngày 5/9/2003, Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước có quyết định số 60-QĐ/VP-PL ban hành Quy chế xử lý hồ sơ xin ân giảm hình phạt tử hình ở cơ quan văn phòng Chủ tịch nước. Theo đó, thời hạn giải quyết đối với mỗi hồ sơ vụ án tại cơ quan Văn phòng Chủ tịch nước trung bình là 45 ngày kể từ ngày hồ sơ đến Văn phòng Chủ tịch nước. Những trường hợp đặc biệt do Chủ tịch nước quyết định. Quy chế này cũng quy định về trình tự thủ tục xử lý hồ sơ vụ án tại Văn phòng Chủ tịch nước. Cùng với Quy chế nêu trên, ngày 30/10/2003, Văn phòng Chủ tịch nước và TANDTC đã ban hành Quy chế số 72-QC/LT về phối hợp công tác giữa 2 cơ quan này. Tại mục V của Quy chế 72 quy định về việc xét đơn xin ân giảm hình phạt tử hình, về trách nhiệm và mối quan hệ phối hợp giữa Văn phòng Chủ tịch nước và TANDTC trong việc tiếp nhận, xử lý, giải quyết hồ sơ xin ân giảm hình phạt tử hình. Những trường hợp đơn xin ân giảm mà có nội dung kêu oan thì Văn phòng Chủ tịch nước trả hồ sơ về cho TANDTC giải quyết. Đối với những trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ hay Văn phòng Chủ tịch nước có yêu cầu báo cáo bổ sung thì TAND có trách nhiệm xác minh, bổ sung tài liệu trong thời hạn không quá 30 ngày. Trường hợp mà Chủ tịch nước chấp nhận đơn xin ân giảm của người bị kết án thì hình phạt tử hình được chuyển thành tù chung thân. Hai Quy chế này đã khắc phục những vướng mắc trong trình tự xét đơn xin ân giảm án tử hình mà BLTTHS 2003 quy định chưa cụ thể.


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-39298/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

tội với xã hội là không cần thiết thì Toà sẽ không áp dụng hình phạt tử hình. Đối với một số đối tượng sẽ không bị áp dụng hình phạt tử hình như: phụ nữ có thai hay phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người chưa thành niên… Và với những quy định chặt chẽ của pháp luật, thực tiễn đã chứng minh, ở Việt Nam chưa có trường hợp nào tử hình oan một người vô tội.
Tất nhiên, theo xu hướng chung của thế giới, Việt Nam cũng đang có xu hướng hạn chế và thay đổi hình phạt này. Xu hướng hạn chế hình phạt tử hình trong thực tiễn áp dụng pháp luật được thực hiện trong cả hoạt động xét xử và cả trong hoạt động thi hành án. Những quy định về thi hành hình phạt tử hình được quy định rất chặt chẽ và nghiêm ngặt, hạn chế đến mức tối đa khả năng đưa bản án tử hình ra thi hành.
1.2. Thi hành hình phạt tử hình
Thi hành hình phạt tử hình là một trong những nội dung của thi hành án hình sự. Vì thế nó mang những đặc điểm chung của thi hành án hình sự.
Thi hành hình phạt tử hình là một dạng hoạt động Nhà nước, thực hiện quyền lực Nhà nước, do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành, bảo đảm hiệu lực thực tế của bản án, quyết định của Toà án bằng các biện pháp pháp luật quy định. Căn cứ và nội dung của thi hành hình phạt tử hình chính là các nội dung cụ thể trong các phán quyết đã có hiệu lực pháp luật của Toà án. Nó có hiệu lực bắt buộc chấp hành đối với tất cả các chủ thể có trách nhiệm và nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án. Theo quy định của pháp luật, dựa trên nguyên tắc cá thể hoá trách nhiệm hình sự, thì chủ thể phải chấp hành hình phạt tử hình là cá nhân người bị kết án.
Bên cạnh đó, thi hành hình phạt tử hình cũng mang những đặc điểm riêng, phân biệt với thi hành các hình phạt khác. Thi hành hình phạt tử hình là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất. Nếu như thi hành các hình phạt khác là buộc người bị kết án phải chấp hành các biện pháp tư pháp nhằm mục đích cải tạo, giáo dục họ với phương châm trừng trị, cải tạo kết hợp với giáo dục, ngăn ngừa tội phạm, thì đối với thi hành hình phạt tử hình, mục đích giáo dục, cải tạo người phạm tội đã không còn. Bởi vậy, pháp luật đã quy định riêng cho thi hành hình phạt tử hình các nguyên tắc, trình tự, thủ tục chặt chẽ. Việc thi hành hình phạt tử hình chỉ là quá trình mà Hội đồng thi hành án tử hình thực thi nhiệm vụ theo thủ tục, trình tự luật định.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu thi hành hình phạt tử hình là một dạng hoạt động mang tính hành chính – tư pháp đặc biệt được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành theo một trật tự do pháp luật quy định chặt chẽ, cụ thể nhằm thực hiện nội dung bản án tử hình.
2. Quy định của pháp luật Việt Nam về thi hành hình phạt tử hình
2.1. Lược sử các quy định của pháp luật Việt Nam về thi hành hình phạt tử hình
* Giai đoạn trước năm 1945
Trước năm 1945, tử hình là một hình phạt phổ biến trong pháp luật hình sự Việt Nam. Pháp luật phong kiến cũng đã có những quy định tiến bộ về thi hành hình phạt tử hình, như quy định hoãn “hành hình” đối với phụ nữ có thai hay đang nuôi con nhỏ dưới 100 ngày; không được thi hành hình phạt tử hình vào những dịp lễ tết…
Tuy nhiên, vấn đề thi hành hình phạt tử hình lại không được pháp luật phong kiến quy định cụ thể, rõ ràng. Vì vậy, việc thi hành hình phạt tử hình trên thực tế phụ thuộc rất nhiều vào các quan lại xét xử. Phần lớn, sau khi xét xử, hình phạt sẽ được thi hành ngay. Thậm chí, sau khi tuyên án tử hình bằng miệng thì hình phạt tử hình đã được thi hành. Đôi khi, thi hành án tử hình được thực hiện do một câu nói của nhà vua mà không cần trải qua thủ tục điều tra, xét hỏi. Do đó, việc thi hành hình phạt tử hình oan xảy ra rất nhiều. Việc thi hành hình phạt tử hình được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng đa số đều rất tàn khốc, dã man, gây sự đau đớn về thể chất và tinh thần khi thi hành đối với phạm nhân (như hoả thiêu, bỏ vạc dầu, lăng trì, voi dày - ngựa xé, chém đầu, chém ngang lưng…).
Như vậy, thi hành hình phạt tử hình ở giai đoạn này còn tuỳ tiện và thiếu khách quan.
* Giai đoạn từ năm 1945 đến Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988
Thời kỳ sau cách mạng Tháng Tám 1945, Nhà nước ta áp dụng nhiều quy định pháp luật được kế thừa từ thời thực dân Pháp. Bên cạnh một số quy định của Nhà nước mới, thi hành hình phạt tử hình vẫn tuân theo nhiều quy định pháp luật trước đó. Có một điều mới, đó là Nhà nước đã bỏ hình thức dùng máy chém và chuyển sang áp dụng hình thức xử bắn. Tuy nhiên do điều kiện đất nước thời bấy giờ nên trong nhiều trường hợp, bản án tử hình có thể được thi hành bằng nhiều cách khác nhau, phổ biến nhất là dùng dao găm. Cán bộ thi hành bản án tử hình cũng rất khác nhau, không giao cho một lực lượng nào chuyên trách, mà tuỳ tình huống cụ thể để quyết định người thi hành và biện pháp thích hợp. Việc thi hành hình phạt tử hình được quy định trong các văn bản sau:
- Sắc lệnh số 150/SL ngày 12-4-1953 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà thành lập Toà án nhân dân đặc biệt ở những nơi thi hành chính sách ruộng đất, có quy định về quyền tuyên án xử tử hình của Toà án.
- Nghị định số 264-TTg ngày 11-5-1953 của Thủ tướng Chính phủ quy định chi tiết thi hành các sắc lệnh số 150/SL và 151/SL.
- Thông tri số 561/TA ngày 5-12-1970 của Toà án quân sự trung ương hướng dẫn về việc thi hành án tử hình.
- Chỉ thị số 138-KC1 ngày 13-2-1974 của Bộ Công an về việc thi hành án tử hình.
- Chỉ thị số 07/TATC ngày 12-3-19744 của TANDTC hướng dẫn việc thực hiện nhiệm vụ của TAND trong việc thi hành án tử hình.
- Chỉ thị số 31/CT ngày 17-5-1974 của VKSNDTC về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành bản án tử hình.
Sau khi đất nước hoàn toàn được giải phóng, Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật đơn lẻ về việc thi hành hình phạt tử hình, như: Pháp lệnh 115/LCT ngày 2-12-1978 của UBTVQH về việc xin ân giảm án tử hình và xét duyệt án tử hình; Thông tư Liên bộ số 03/TTLB ngày 6-12-1982 của TANDTC – VKSNDTC - Bộ Nội vụ - Bộ Tư pháp về việc thực hiện các quy định của Luật Tổ chức TAND ngày 3-7-1981 đối với bản án tử hình.
Quy định về thi hành hình phạt tử hình trong thời kỳ này còn tản mát, chưa đề cập đầy đủ, toàn diện, đặc biệt là thiếu các thủ tục cụ thể về thi hành hình phạt tử hình.
* Bộ luật Tố tụng hình sự 1988
Thi hành hình phạt tử hình được quy định tại chương XXV của BLTTHS 1988, gồm 2 điều luật: Điều 228 về thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi đưa rất thi hành và Điều 229 về thi hành hình phạt tử hình.
Lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp Việt Nam, thi hành hình phạt tử hình được quy định tập trung trong một văn bản luật. Điều này chứng tỏ Nhà nước ta đã bắt đầu có sự quan tâm đến vấn đề thi hành hình phạt tử hình, đồng thời chứng minh sự tiến bộ vượt bậc trong kỹ thuật lập pháp của nước ta. Và những quy địn...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status