Luận văn Thương mại điện tử và thực trạng ứng dụng thương mại điện tử tại Việt Nam - Pdf 10



1
Luận văn
Thương mại điện tử và thực
trạng ứng dụng thương mại
điện tử tại Việt Nam 2
LỜI MỞ ĐẦU

Thế kỷ XX vừa khép lại với một dấu ấn vĩ đại trong lịch sử phát triển loài
người: sự bùng nổ công nghệ thông tin diễn ra trên toàn thế giới. đưa nhân loại
bước qua ngưỡng cửa thế kỷ XXI để đứng trước một nền văn minh mới- nơi
giao nhau giữa nền "kinh tế trí thức" và "thời đại Internet", nơi trí thức là chủ
thể duy nhất " thông trị" nền kinh tế toàn cầu và Internet sắp đặt thế giới trong
một chỉnh thể thống nhất.
Bước sang thế kỷ XXI, loài người mở thêm một con đường mới cho sự phát
triển kinh tế của mình. Đó là Internet - một thành tựu đỉnh cao của loài người
trong thế kỷ XX. Con đường ấy đã làm cho hoạt động thương mại được vận
hành theo một cách thức hoàn toàn khác trước. Trước đây, mặc dù đã có rất
nhiều các phương tiện điện tử được áp dụng trong hoạt động thương mại, nhưng
hết sức đơn sơ, chỉ khi Internet ra đời và được áp dụng rộng rãi trong thương
mại, mang lại những lợi ích, hiệu quả vô cùng to lớn, người ta mới chính thức
thừa nhận một phương thức thương mại mới. Đó là thương mại điện tử.
Hình thức thương mại này, mang lại cho xã hội, các doanh nghiệp, đến từng
cá nhân một công cụ hoạt động mới, tiện lợi, dễ dàng và hiệu quả hơn nhiều.


H
H
Ư
Ư
Ơ
Ơ
N
N
G
GI
I

N
N
H
H


N
N
G
GM
M


N
N
G
GI
I
N
N
T
T
E
E
R
R
N
N
E
E
T
T
I
I


N
NT
T



I
I
.
.

M
M


N
N

lớn. Năm 1957 Mỹ đã hình thành nên một cơ quan nghiên cứu phát triển ARPA
(Advanced Research Project Agency), dưới sự quản lý của Uỷ ban phòng vệ
DoD (Department of Defence), để phối hợp nghiên cứu khoa học và công nghệ
ứng dụng vào lĩnh vực quân sự.
Đến năm 1965

ARPA tài trợ cho dự án mạng máy tính TX-2 tại phòng thí
nghiệm Lincoln của Viện công nghệ Massachusetts, Lexington và dự án
Q-32 hợp tác với công ty phát triển hệ thống (system development) Santa
Monica California.
Năm 1967

kế hoạch về mạng PS (Packet - Switching) được đưa ra, đồng
thời bản kế hoạch đầu tiên về mạng ARPANET (Advanced Research Projects
Agency Network) được đưa ra do Lawrence G.Roberts - viện công nghệ
Massachusetts. Vào vào tháng 7 năm 1968 ARPA đề nghị kết nối 4 địa điểm
đầu tiên bằng các máy tính gồm: Viện nghiên cứu Standford, trường Đại học
tổng hợp California ở Los Angeles, UC (University of California) tại Santa
Babara và trường Đại học tổng hợp Utah.
Đến năm 1969

uỷ ban phòng vệ DoD (Department of Depense) giao cho
ARPA đi sâu nghiên cứu về lĩnh vực mạng. Và cũng trong năm 1969 bốn địa
điểm trên chính thức được nối thành mạng. Do vậy cho đến nay thì người ta lấy 5
nguồn gốc đầu tiên của Internet là hệ thống máy tính cuả Bộ Quốc Phòng Mỹ,
gọi là mạng ARPANET.



Đến năm 1997: toàn thế giới đã có 110 quốc gia nối mạng Internet, trong
đó có Việt Nam. 6
0
100
200
300
400
500
600
700
800
N¨m
1994
N¨m
1996
N¨m
1998
N¨m
1999
N¨m
2000
N¨m
2002
N¨m
2003
N¨m

Internet (gần 1/6 dân số thế giới)
Tuy nhiên, sự phát triển của mạng Internet là hết sức chênh lệch giữa các
quốc gia, giữa những nước đang phát triển và những nước công nghiệp hóa.
Hiện nay, một nửa trong số những người truy cập mạng Internet trên thế giới là
thuộc khu vực Bắc Mỹ. Người ta đưa ra một sự so sánh hình tượng rằng cả
Châu Phi chưa bằng số người nối mạng ở riêng thành phố New York. “Khi một công nghệ mới ra đời thì thông thường người ta khó mà lường hết
được sự mở rộng của nó. Trước đây khi điện thoại được phát minh, người ta
cũng có cảm nghĩ rằng nó là một công cụ hết sức xa vời, nhưng cho đến nay thì
không ai là không phải thừa nhận rằng nó đã trở thành một phương thức giao
dịch không thể thiếu được trong đời sống hàng ngày. Internet - một công nghệ
vượt bậc, là đỉnh cao của thế kỷ XX chắc chắn cũng sẽ như vậy. Hiện nay trên
thế giới con số người nối kết với Internet chưa nhiều song chắc chắn rằng trong
tương lai không xa Internet sẽ là phương tiện thân thiện của mọi nhà trên khắp
hành tinh.
2
2
.
.
/
/C
C
á
á
c

b


n
nv
v

ềm
m


n
n
g
gm
m
á
á
y
y


e
t
tMạng máy tính là hai hay nhiều máy tính được nối với nhau bằng các
thiết bị liên lạc để cùng chia sẻ phần cứng phần mềm và dữ liệu
Dựa vào phạm vi phân bổ của mạng có các loại mạng sau:
Mạng cục bộ (LAN- Local Area Network):
“ Mạng cục bộ là toàn bộ các máy tính được liên kết với nhau thành một
mạng trong phạm vi một xí nghiệp, công ty, hay nói chung trong một phạm vi
địa lý hẹp nhất định. “
Mạng diện rộng(
(WAN - Wide Area Network): 8
” Mạng diện rộng được hiểu hai hay nhiều mạng cục bộ liên kết với nhau
sẽ tạo thành liên mạng nội bộ, từ đó hình thành nên khái niệm mạng diện rộng
WAN hay mạng Extranet.”
Mạng toàn cầu Internet -

Nếu như mạng các máy tính được nối với nhau
ngày càng trải rộng ở các nước khác nhau trên thế giới lúc này hình thành liên
mạng gọi là Global Wide Area Network - mạng diện rộng toàn cầu. Từ thuật
ngữ mà giới kỹ thuật vẫn dùng như trên, khi mạng này được trở nên phổ biến,
người ta đưa ra khái niệm: "International Network" hay Internet.

các phương pháp cũ trước đây. Nó đang buộc các nhà kinh doanh hiện nay phải
điều chỉnh hoạt động của mình theo một cách thức hoàn toàn khác trước. Đối
với những nhà kinh doanh trì trệ rất có thể họ dần dần phải nhường thị trường
cho các nhà doanh nghiệp tỏ ra năng động hơn. Internet không chỉ cung cấp một
khu chợ cho bán hàng trên mạng mà tạo ra rất nhiều giải pháp kinh doanh điện
tử đã và đang tác động trực tiếp đến quá trình chuyển hoá các các hoạt động
kinh doanh.
Trong bối cảnh ấy hoạt động kinh tế nói chung, hoạt động thương mại nói
riêng chuyển sang dạng số hoá, điện tử hoá. Khái niệm kinh doanh điện tử,
thương mại điện tử dần dần được hình thành. Thuật ngữ mà người ta dùng để
chỉ kinh doanh, thương mại điện tử ở nhiều dạng khác nhau như: "Electronic
business" hay "E-Business", "Virtual Business"; "E-trade" "Online Trade"
"Cybertrade" "Online selling" hay phổ biến nhất là "Electronic Commerce" hay
"E-Commerce"
Từ đây, một hình thức kinh doanh mới ra đời đó là thương mại điện tử
(E-commerce) và ngày càng phát triển trên toàn thế giới, trước hết là những
Doanh Nghiệp có đủ điều kiện áp dụng thương mại điện tử.

I
I
I
I
.
.
/
/


NT
T



1./ Khái niệm về thương mại điện tử (E-commerce)
Trước khi đi vào khái niệm về thương mại điện tử chúng ta xem xét qua về
khái niệm kinh doanh điện tử: Kinh doanh điện tử ( Electronic Business) là một
bước biến đổi cơ bản của các phương thức kinh doanh thông qua việc sử dụng
các công nghệ của mạng máy tính Internet, Intranet 10
Hiện nay có nhiều quan điểm về vấn đề định nghĩa thương mại điện tử.
“Quan điểm thứ nhất : Thương mại điện tử được định nghĩa một cách đơn
giản là sự chuyển giao các giá trị qua Internet của một trong bốn dạng hoạt
động: Mua, Bán, Đầu tư và vay mượn. ““Quan điểm thứ hai với nghĩa rộng: Thương mại điện tử gồm các giao dịch
tài chính và thương mại được thực hiện bằng các phương tiện điện tử.
Quan điểm thứ ba xuất phát từ thực tiễn của thương mại điện tử: Thương
mại điện tử là các hoạt động thương mại được thực hiện qua mạng thông tin
toàn cầu Internet.”

2
2
.
.
1
1
/
/L
L
u
u


t
tm
m


u
uv
v



n
nt
t

ửc
c


a
aL
L
i
i
ê
ê
n
n
Commerce (1996) - Luật mẫu UNCITRAL về thương mại điện tử ( gọi tắt là
Luật mẫu), được Uỷ ban pháp luật thương mại quốc tế của Liên Hợp Quốc
thông qua ngày 12 tháng 6 năm 1996. Luật này được chính thức công bố trong
báo cáo của hội nghị lần thứ 6 Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc vào ngày 12 tháng
12 năm 1996. Nguyên văn Luật mẫu được công bố bằng sáu thứ tiếng: Arabic,
Trung Quốc, Pháp, Tiếng Anh, Tiếng Nga và tiếng Tây Ban Nha. Trong báo
cáo này, xem xét về giá trị pháp lý của các tài liệu lưu giữ bằng máy tính, xác
nhận và công nhận pháp lý đối với các trao đổi thoả thuận qua máy tính. Đến kỳ
họp lần thứ 23 năm 1990, UNCITRAL đã cho ra đời bản "Nghiên cứu sơ bộ
những vấn đề pháp lý liên quan đến thiết lập hợp đồng bằng phương tiện điện
tử". Ngày 12 tháng 6 năm 1996 tại kỳ họp thứ 29 Luật mẫu về thương mại điện 12
tử (Model law on Electronic Commerce)đã được thông qua với mục tiêu là đưa
ra một hệ thống các quy tắc được thừa nhận, mang tính quốc tế, về việc loại bỏ
các trở ngại trong việc công nhận giá trị pháp lý của các thông điệp được lưu
chuyển bằng các phương tiện điện tử. Luật mẫu này là cơ sở định hướng giúp
cho các nước thành viên đưa ra một đạo luật của mình, trên tinh thần hợp với
các quy tắc quốc tế được thừa nhận rộng rãi. Luật mẫu tạo thuận lợi cho việc sử
dụng thương mại điện tử, tạo sự bình đẳng cho những người sử dụng tài liệu
trên cơ sở giấy tờ và những người sử dụng thông tin trên cơ sở máy tính.
Cấu trúc của luật được chia làm hai phần: Phần một liên quan đến những
vấn đề chung về thương mại điện tử, Phần còn lại liên quan đến vấn đề thương
mại điện tử ở một số lĩnh vực xác định. Điều đáng lưy ý là trong phần hai của
Luật mẫu quy định thương mại điện tử trong một số lĩnh vực, đến nay do chưa
được hoàn thiện đầy đủ mới công bố có một chương liên quan đến việc áp dụng
thương mại điện tử vào lĩnh vực vận tải hàng hóa. Các khía cạnh khác của
thương mại điện tử có lẽ được giải quyết trong tương lai, vì vậy Luật mẫu được
xem như một công cụ mở và còn được bổ sung theo thực tiễn áp dụng.

cản trở pháp lý đối với các giao dịch điện tử trong hoạt động thương mại.
Bằng những điều khoản này, các doanh nghiệp thực hiện thương mại điện
tử hoàn toàn có thể yên tâm áp dụng thương mại điện tử mà vẫn đảm bảo được
giá trị pháp lý và bảo vệ được lợi ích hợp pháp của mình. Các tài liệu điện tử
được chính thức thừa nhận trong Điều 5 của Luật mẫu: "Không thể phủ nhận
hiệu lực pháp lý, giá trị và khả năng thi hành, cưỡng chế đối với các thông tin
chỉ dựa trên một cơ sở là nó có hình thức ở dạng thông điệp dữ liệu". Như vậy
các thông tin, tài liệu dưới dạng thông điệp dữ liệu như định nghĩa ở Điều 2 có
giá trị pháp lý, giá trị thi hành, hiệu lực như các thông tin ở dạng khác.
Đồng thời, trong hoạt động thương mại điện tử, nếu các doanh nghiệp có
quy định dẫn chiếu đến Luật mẫu này của Liên Hợp Quốc, thì cũng có thể tránh
được trở ngại thông thường trước đây đối với pháp luật có các quy định về tài
liệu gốc, xuất trình bản gốc, hay các quy định về việc thoả thuận bằng văn bản
viết. Điều 6 "Nếu luật yêu cầu thông tin phải được làm bằng hình thức viết thì
một thông điệp dữ liệu được xem là đã đáp ứng yêu cầu này, nếu các thông tin
chứa đựng trong đó có thể truy cập để sử dụng". Điều 7 thừa nhận các tài liệu 14
điện tử có thể xem như các tài liệu gốc, nếu có sự đảm bảo đáng tin cậy về sự
toàn vẹn của thông tin, cả về nội dung và hình thức từ thời điểm nó được tạo ra
cho tới thời điểm cuối cùng được xem xét.
Làm thế nào để xác định rằng mình đã thể hiện ý chí qua các tài liệu điện
tử, đồng thời cũng xác định rằng đối tác là có trách nhiệm phải thực hiện những
gì đã thể hiện và cam kết trong các tài liệu điện tử. Điều 7 (Signature) quy định
vấn đề có liên quan đến chữ ký:" Nếu luật yêu cầu phải có chữ ký của cá nhân
thì một thông điệp dữ liệu được xem là đã đáp ứng được yêu cầu này nếu:
+ Có một phương pháp nào đó để cá biệt hoá một cá nhân và thể
hiện được sự xác nhận của cá nhân đó đối với những thông tin chứa đựng
trong thông điệp dữ liệu

mại của mình, được bảo vệ về mặt pháp lý. Đối với các quốc gia, đây là một
hình mẫu để phát triển những khuôn khổ pháp luật của mình hợp với các thông
lệ quốc tế.
Để nhận được sự trợ giúp từ ban thư ký UNCITRAL: cung cấp các tư vấn
cho các chính phủ, về soạn thảo dưa trên nền tảng Luật mẫu, các thông tin thêm
có liên quan đến Luật mẫu có thể liên hệ ban thư ký theo địa chỉ sau:
International Trade Law Branch
Office of legal affairs
United Nations, Viena - International Centre
P.O Box 500 - A-1400, Vienna, Austria
Telephone: (43-1) 26060 - 4060 - Telefax: (43-1) 26060 - 5813
Email: [email protected] Internet address:
http://www.un.or.at/Unictral
2.2./ Quy trình thực hiện một hoạt động thương mại điện tử
Một hoạt động thương mại điện tử diễn ra có thể được thực hiện dưới nhiều
dạng khác nhau. Có doanh nghiệp chỉ áp dụng thương mại điện tử như một
phương thức để quảng cáo giới thiệu hàng hoá, có doanh nghiệp chỉ áp dụng
thương mại điện tử như một công cụ để tiến hành các trao đổi giao dịch
v.v Tuy nhiên xét một cách tương đối đầy đủ thì hoạt động thương mại điện tử
có thể diễn ra theo một trình tự như sau: 16
1- Doanh nghiệp xây dựng cho mình một cơ sở kinh doanh điện tử trên
Internet. Đây được coi như là một trụ sở giao dịch, kinh doanh của doanh
nghiệp.
2- Khách hàng tới cơ sở kinh doanh điện tử của doanh nghiệp, bằng cách
truy cập vào địa chỉ trên Internet của cơ sở kinh doanh đó.
3- Khách hàng và doanh nghiệp tiến hành trao đổi các tài liệu, chứng từ
điện tử.

2.4./ Địa chỉ trên Internet
Nhờ địa chỉ này mà khách hàng mới đến được với doanh nghiệp để tiến
hành các hoạt động thương mại điện tử. Cùng với việc thiết lập Web site thì
doanh nghiệp phải tiến hành đăng ký địa chỉ tại các nhà cung cấp dịch vụ
Internet hay các tổ chức chuyên cung cấp địa chỉ khác.
Đăng ký địa chỉ là vấn đề được nhiều nhà doanh nghiệp quan tâm và yêu
cầu làm sao cho địa chỉ của mình dễ nhớ, ngắn gọn, truy tìm nhanh. Có một số
cách đăng ký địa chỉ phổ biến hiện nay như sau.
Đăng ký địa chỉ ở nước ngoài: Doanh nghiệp có thể đăng ký cơ sở kinh
doanh của mình với những nhà cung cấp dịch vụ Internet ở nước ngoài như
Yahoo, Altavista, hoặc truy cập trực tiếp vào Internic – một tổ chức chuyên
cung cấp địa chỉ cho người sử dụng. Địa chỉ trang Web của cơ sở này là
http://www.internic.net. Khách hàng có thể đăng ký bất kỳ tên địa chỉ nào miễn
là tên đó không trùng với những tên đã đăng ký trước với internic. Địa chỉ này
thường được cấp là http://www.tendoanhnghiep.com
Đăng ký địa chỉ ở Việt Nam: Ở Việt Nam địa chỉ trang Web được cấp như
sau: http://www.ten doanh nghiệp.com.vn (do tổng công ty bưu chính viễn
thông Việt Nam cấp). Khi đăng ký địa chỉ Website tại Việt Nam doanh nghiệp
có thể liên hệ trực tiếp với nhà cung cấp dịch vụ Internet của mình.
2.5./ Chứng từ tài liệu điện tử
Các chứng từ được giao dịch thông qua mạng các máy tính với nhau thì
được gọi là chứng từ điện tử. Loại chứng từ này được đề cập ở đây là những
chứng từ liên quan đến thương mại và được truyền qua mạng toàn cầu Internet.
Điều quan trọng nhất của hoạt động trao đổi chứng từ điện tử là tính bảo
mật. Tính bảo mật của thông tin được đảm bảo bằng khoa học, gọi là khoa học
mật mã. Khi một bản thông tin đã được mã khoá và truyền qua mạng Internet 18
mà nếu để cho một người thứ ba có thể lấy cắp và đọc được những thông tin


19
toàn diện. Vấn đề này liên quan chủ yếu đến kỹ thuật của hệ thống ngân hàng.
Tiền điện tử thực chất chỉ là những ký hiệu do người có tài khoản tại ngân hàng
đưa ra nhằm trích ra từ tài khoản lưu ký của mình tại ngân hàng, việc này được
thực hiện thông qua mạng công cộng Internet.
Một hoạt động thanh toán điện tử diễn ra thông thường bao gồm bốn
quy trình chính.
1 - Lập tài khoản
2 - Rút tiền điện tử
3 - Trả tiền cho người bán
4 - Người bán ký gửi tiền lại cho ngân hàng vào tài khoản của mình
Để hoạt động thanh toán điện tử diễn ra được thì khách hàng phải rút được
tiền điện tử của mình ra khỏi tài khoản của mình được lưu ký tại ngân hàng. Để
rút tiền, khách hàng A tạo ngẫu nhiên một con số đóng vai trò như số xê-ri của
đồng bạc giấy, là số hiệu của của đồng điền điện tử mà mình muốn rút, ký vào
số hiệu đó (bằng chữ ký điện tử) và gửi đến ngân hàng. Ngân hàng kiểm tra chữ
ký điện tử đó của A. Nếu đúng, ngân hàng ký lại chữ ký của mình vào số hiệu
đó và gửi lại A, đồng thời trừ bớt khoản tiền đó ở tài khoản của A. Khi A muốn
dùng đồng tiền đó để mua hàng của nhà cung cấp B, A chuyển cho B số hiệu
nói trên có chữ ký của ngân hàng. B kiểm tra chữ ký của ngân hàng (việc này
thực hiện dựa trên một kỹ thuật gọi là mã hoá). Nếu đúng thì chấp nhận khoản
tiền đó đồng thời chuyển luôn vào tài khoản của mình tại ngân hàng. Toàn bộ
quy trình này được thực hiện một cách tự động và hết sức nhanh chóng.
Hiện nay ở những nước phát triển và có hệ thống ngân hàng hiện đại, tiền
điện tử đã được đưa vào ứng dụng và đem lại rất nhiều thuận lợi cho cả người
phải chi trả và người được chi trả. Đặc điểm tiêu biểu của hệ thống thanh toán
điện tử và tiền điện tử là các bên sử dụng hình thức này có thể giảm được đáng
kể các khoản chi phí dành cho việc thanh toán, và thực hiện được một cách tức
thời ngay khi các nghiệp vụ chi trả phát sinh.

Nếu như người gửi cố tình chối bỏ chữ ký của mình, thì lý thuyết mật mã sẽ
buộc anh ta phải công nhận trách nhiệm với chữ ký. 21
Về khía cạnh pháp lý: Hiện nay luật về thương mại điện tử ở nhiều nước,
người ta đều đưa ra định nghĩa về chữ ký điện tử. Theo luật về giao dịch điện tử
của Singapore (Singapore Electronic Transaction Act), định nghĩa về chữ ký
điện tử như sau:
"Chữ ký điện tử là bất kỳ chữ nào, ký tự nào, các con số, hay các biểu
tượng khác dưới dạng số hoá, được gắn vào hay liên quan một cách logic vào
các tài liệu điện tử được thực hiện với ý định xác nhận, đồng ý về tài liệu điện
tử đó".

"Electronic Signature: any letters, characters, numbers, or other
symbols in digital form attached to or logically associated with an electronic
record and executed or adopted with the intention of authenticity or
approving the electronic record".

Sự thừa nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử, là một vấn đề hết sức quan
trọng trong thương mại điện tử. Nó thừa nhận tính hợp pháp của các tài liệu
giao dịch của các chủ thể thông qua mạng Internet, thừa nhận các hợp đồng điện
tử. Phải nói rằng các quan hệ thương mại của các bên trong thương mại điện tử
phải được thể hiện trên các nhất trí, các thoả thuận được xác nhận. Vì vậy, nếu
không thừa nhận chữ ký điện tử thì cũng có nghĩa rằng chưa thừa nhận tính hợp
pháp của thương mại điện tử. Chính vì vậy ở hầu hết các nước có luật về thương
mại điện tử thì cũng có luật về chữ kỹ điện tử riêng biệt, hay được đưa kèm
ngay vào luật về thương mại điện tử.
3
3

v
v
i
i


c
cứ

n
n
g
gd
d


n
n
g
gt
t

t
t

ửTrong loại hình cơ bản nhất của giao dịch, khách hàng đến cửa hàng lựa
chọn những sản phẩm mà họ muốn mua, trả cho người bán một khoản tiền và
mang hàng về. Ngày nay trước sự bùng nổ về công nghệ thông tin - mạng máy
tính và sự kết nối khắp toàn cầu - thương mại điện tử đã nổi lên như một
phương thức kinh doanh quan trọng của thế kỷ . 22
Khi con người càng nhận thức rõ hơn, hiểu biết nhiều hơn về Internet thì
thị trường điện tử cũng ngày càng trở nên quen thuộc với họ. Nếu khuynh
hướng tăng trưởng số người nối mạng Internet như hiện nay được duy trì thì sẽ
chẳng bao lâu nữa trong tương quan giữa hai loại thị trường, thị trường thực sẽ
có xu hướng nhường chỗ dần cho thị trường ảo, thế giới của thông tin, hình ảnh.
Các công ty cũng sẽ chuyển dần hoạt động kinh doanh truyền thống của mình
sang kinh doanh điện tử để khai thác những lợi ích được tạo ra từ phương thức
kinh doanh này.
Đối với các doanh nghiệp nước ta, có lẽ bước đầu tiên để có thể khuyến
khích họ phát triển kế hoạch áp dụng thương mại điện tử đó là việc làm thế nào
để họ có thể nhận thức được những ích lợi mà thương mại điện tử có thể mang
lại. Làm rõ vấn đề này sẽ là động lực, và phương hướng chủ đạo cho các nhà
doanh nghiệp mạnh dạn áp dụng công nghệ mới.
3.1./ Tính kịp thời, tính cập nhật của thông tin thương mại
Internet là một thư viện khổng lồ nhất được cập nhật một cách liên tục.
Ngày nay, nhận, gửi, khai thác thông tin trên Internet là nhu cầu của toàn thế

tiếp mối quan hệ với khách hàng hay rút ngắn được quá trình phân phối sản
phẩm. Doanh nghiệp có thể hạ được giá thành vẫn đảm bảo được lợi nhuận.
Thương mại điện tử giúp giảm thấp chi phí bán hàng và chi phí tiếp thị.
Bằng phương tiện Internet/Web, một nhân viên bán hàng có thể giao dịch được
với rất nhiều khách hàng, ca-ta- lô điện tử (eletronic catalogue) trên trang Web
phong phú hơn nhiều và thường xuyên cập nhật so với ca-ta-lô in ấn (có khuôn
khổ giới hạn và luôn luôn lỗi thời). Theo số liệu thống kê của hãng máy bay
Boeing của Mỹ, có tới 50% khách hàng đặt mua 9% phụ tùng thông qua
Internet và còn nhiều hơn nữa các đơn hàng về dịch vụ kỹ thuật, sửa chữa và
mỗi ngày giảm được 600 cú điện thoại.
Thông thường đối với một nhà sản xuất rất khó có thể thiết lập được một
mạng lưới tiêu thụ rộng lớn để trực tiếp cung cấp và liên hệ với những người
bán lẻ hay các khách hàng. Song hiện nay nhờ thương mại điện tử mà doanh
nghiệp hoàn toàn có thể làm được điều đó. Khi thiết lập một cơ sở kinh doanh
trên Internet, doanh nghiệp đã cùng một lúc thiết lập một đại lý phân phối ở
nhiều nơi khác nhau, hoàn toàn loại bỏ được kênh phân phối nhiều cấp. Điều
này là có lợi cho cả doanh nghiệp và khách hàng. 24
3.3./ Kinh doanh sử dụng cửa hàng ảo - Có thể kinh doanh tại nhà
Với một cơ sở kinh doanh ảo, lợi dụng công nghệ truyền tin Internet, nhận
và xử lý thông tin ở bất cứ nơi nào, cho phép các nhà quản lý kinh doanh chỉ
ngồi tại nhà nhưng lại có thể kinh doanh ở bất kỳ đâu.
Chẳng hạn khi doanh nghiệp thiết lập một Website - khác với cơ sở kinh
doanh thực, nó hiện hữu trên các máy tính nối mạng Internet. Khi đó các khách
hàng thông qua việc truy cập địa chỉ Internet của công ty, sẽ thực hiện mọi giao
dịch cần thiết. Cả khách hàng và doanh nghiệp đều có thể tiến hành các giao
dịch thương mại tại nhà, hay bất cứ nơi đâu. Nhờ đặc tính này mà ngay cả các
hộ gia đình cũng dễ dàng tham gia kinh doanh trên mạng Internet và cạnh tranh

nhà cung cấp của mình.
3.5./ Dễ dàng đa dạng hoá mặt hàng
Với Internet doanh nghiệp có thể kinh doanh hỗn hợp các loại mặt hàng
khác nhau.Với kiểu bán hàng truyền thống, rất khó để có thể trang bị được một
cửa hàng hỗn hợp tất cả các loại mặt hàng vì điều này đòi hỏi phải trang bị đầu
tư rất lớn cho các khu để hàng, trưng bày, lưu kho hàng hoá khác nhau. Nhưng
khi mở cửa hàng trên Internet không quan trọng là hàng hoá thực tế được đặt
như thế nào để ở đâu. Bởi hàng hoá trưng bày chỉ là hình ảnh được sao chụp
hoặc được mô tả trên cửa hàng Internet. Điều quan tâm của nhà kinh doanh là
làm thế nào chuyển hàng đó tới khách hàng theo phương thức phù hợp hoặc
theo phương thức mà khách hàng yêu cầu. Do đó, kể cả khi hàng hoá được để
hỗn hợp trong kho thì vẫn có thể được bán bất cứ lúc nào.
3.6./ Giảm chi phí sản suất
Tiết kiệm chi phí là một trong những đặc điểm quan trọng nhất trong
thương mại điện tử. Liên quan đến chi phí kinh doanh của doanh nghiệp có thể
có rất nhiều loại chi phí khác nhau. Tính tiết kiệm chi phí diễn ra ở hầu hết các
khâu của thương mại điện tử. Khía cạnh này có thể dễ nhận thấy ở những hoạt
động như:
3.6.1./ Kinh doanh trên Internet giảm được chi phí thuê cửa hàng
Cửa hàng trên Internet của doanh nghiệp được mở ngay tại nhà của khách
hàng trước màn hình máy tính. Chỉ cần đầu tư một lần bằng khoản tiền không


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status