Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy - Pdf 10


LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm vừa qua, tình hình kinh tế xã hội đất nước đã có nhiều
chuyển biến tích cực, mọi mặt đời sống xã hội được cải thiện, chúng ta đã ký
được hiệp định thương mại Việt - Mỹ và đang trong quá trình gia nhập tổ
chức thương mại thế giới WTO. Vì vậy, trước mắt các doanh nghiệp Việt
Nam đang là những thời cơ và thách thức mới đòi hỏi phải có sự nỗ lực rất
lớn trong cạnh tranh. Không nằm ngoài xu thế chung đó, ngành ngân hàng
Việt Nam nói chung và Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu
Giấy nói riêng cũng có những thời cơ và thách thức trong tình hình mới.
Thực tế cho thấy, môi trường kinh doanh ngân hàng trong thời gian qua
ngày càng trở nên khó khăn, lãi suất trên thị trường thế giới liên tục giảm gây
áp lực lên hệ thống ngân hàng Việt Nam. Mặt khác, bản thân các ngân hàng
trong nước cũng có sự cạnh tranh quyết liệt với nhau nên càng gây ra nhiều
khó khăn, buộc các ngân hàng phải nới lỏng các yêu cầu khi cho vay cũng
như cắt giảm lãi suất tạo ra nhiều nguy cơ rủi ro trong hoạt động tín dụng.
Bên cạnh đó, sự cạnh tranh cũng ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của các
doanh nghiệp và do đó gián tiếp ảnh hưởng đến các ngân hàng. Các doanh
nghiệp vì mục tiêu lợi nhuận có thể sử dụng vốn vay của ngân hàng không
đúng mục đích hoặc đầu tư không hiệu quả, thu nhập không đủ bù đắp chi
phí... dẫn đến không thể trả được nợ ngân hàng khi đến hạn, tất cả những điều
đó đều có thể gián tiếp gây ra rủi ro cho ngân hàng đặc biệt là rủi ro đối với
hoạt động tín dụng. Vì vậy, trong thời gian tới việc phòng ngừa và hạn chế rủi
ro tín dụng là thực sự có ý nghĩa và luôn là một đề tài bức xúc đối với các
Ngân hàng thương mại Việt Nam. Tìm được các biện pháp phòng ngừa và
hạn chế rủi ro tín dụng để tăng hiệu quả trong kinh doanh ngân hàng là mong
muốn của tất cả các nhà kinh doanh tiền tệ khi phải đối đầu với sự cạnh tranh
quyết liệt, giành giật thị phần để mang lại lợi nhuận.
1

Nhận thức được điều đó, cùng với mong muốn sử dụng những kiến thức

quyền sử dụng về một lượng giá trị hoặc hiện vật với những điều kiện mà hai
bên thoả thuận như số lượng, thời hạn, lãi suất... theo nguyên tắc hoàn trả cả
vốn và lãi.
Như vậy, tín dụng có thể được hiểu đơn giản là một quan hệ vay mượn lẫn
nhau dựa trên nguyên tắc có hoàn trả.
Đối tượng vay mượn có thể là tiền hoặc tài sản. Nguyên tắc hoàn trả
khẳng định người cho vay chỉ nhường quyền sử dụng tiền hoặc tài sản của
mình cho người đi vay trong một khoảng thời gian nhất định. Hết thời hạn đó
người đi vay sẽ phải hoàn trả cho người cho vay một số tiền hay tài sản nhất
định theo thoả thuận. Thông thường giá trị khoản hoàn trả sẽ lớn hơn giá trị
khoản cho vay.
Với cùng bản chất như vậy, tín dụng Ngân hàng là quan hệ vay mượn lẫn
nhau giữa một bên là ngân hàng và bên kia là các chủ thể kinh tế khác như
các đơn vị kinh tế, các tổ chức xã hội, dân cư dựa trên nguyên tắc có hoàn trả
cả gốc và lãi trong một khoảng thời gian nhất định. Việc hoàn trả có thể thực
hiện một lần hay nhiều lần tuỳ theo thoả thuận giữa hai bên.
Một ngân hàng khi tham gia vào các quan hệ tín dụng có thể đóng vai trò
là người đi vay hoặc người cho vay. Khi ngân hàng nhận tiền gửi, phát hành
trái phiếu, kỳ phiếu để huy động vốn, vay vốn từ Ngân hàng Trung Ương, từ
3

các tổ chức tín dụng khác thì nó đóng vai trò là người đi vay. Còn khi ngân
hàng thực hiện việc cho vay trực tiếp, chiết khấu thương phiếu... thì nó đóng
vai trò là người cho vay. Tuy nhiên, trong thực tế do tính phức tạp của hoạt
động cho vay so với hoạt động đi vay và cũng là do thói quen nên khi nói đến
tín dụng Ngân hàng người ta thường chỉ đề cập đến hoạt động cho vay mà ít
khi đề cập đến hoạt động đi vay.
1.2. Phân loại tín dụng Ngân hàng:
Các khoản cho vay của Ngân hàng có thể được phân loại theo nhiều tiêu
thức khác nhau. Tuỳ vào mục đích nghiên cứu mà người ta có thể phân loại

• Căn cứ vào thành phần kinh tế có thể chia thành:
- Tín dụng kinh tế quốc doanh: là những khoản tín dụng cung cấp cho các
doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước, các khoản tín dụng này có thể được
thực hiện trực tiếp giữa Ngân hàng với các doanh nghiệp hoặc theo kế hoạch
Nhà nước.
- Tín dụng kinh tế ngoài quốc doanh: là những khoản tín dụng cung cấp
cho các doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân như các công ty TNHH, công ty
cổ phần...
2. Vai trò của tín dụng Ngân hàng:
Trong nền kinh tế thị trường, tồn tại rất nhiều hình thức tín dụng khác
nhau như tín dụng thương mại, tín dụng Ngân hàng, tín dụng nặng lãi, tín
dụng thuê mua... Trong đó tín dụng Ngân hàng là loại hình tín dụng giữ vai
trò quan trọng nhất và cũng chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Hoạt động tín dụng Ngân hàng giúp lưu thông luồng tiền tệ, dẫn vốn từ
nơi thừa đến nơi thiếu, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế của mỗi quốc
gia. Mặt khác, tín dụng cũng là một trong những hoạt động cơ bản và quan
trọng nhất của các Ngân hàng thương mại. Trong thời gian dài, tín dụng luôn
là hoạt động mang lại lợi nhuận lớn nhất cho các Ngân hàng thương mại kể cả
5

các Ngân hàng thương mại trong nước và các Ngân hàng thương mại trên thế
giới.
Ngày nay, khi công nghệ Ngân hàng phát triển đến trình độ cao, các dịch
vụ Ngân hàng đã bắt đầu thể hiện rõ ưu thế của mình và ngày càng chiếm tỷ
trọng lớn hơn trong hoạt dộng của các Ngân hàng thương mại, tín dụng vẫn là
hoạt động không thể thiếu được của các Ngân hàng. Tín dụng vẫn tạo ra
nguồn thu nhập cơ bản cho các Ngân hàng thương mại, nó bảo đảm cho hoạt
động của các Ngân hàng thương mại được thông suốt. Chính vì vậy, tín dụng
Ngân hàng luôn luôn giữ một vai trò hết sức quan trọng đối với bản thân mỗi
Ngân hàng nói riêng và đối với nền kinh tế nói chung.

hàng thương mại đứng ra tập trung và phân phối lại vốn, điều hoà cung - cầu
vốn trong nền kinh tế, góp phần điều tiết các nguồn vốn, tạo điều kiện cho
quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp không bị gián đoạn.
Mặt khác, để mở rộng sản xuất đối với các doanh nghiệp thì yêu cầu về
vốn là một trong những mối quan tâm hàng đầu được đặt ra. Các doanh
nghiệp không thể chỉ trông chờ vào vốn tự có, mà còn phải biết dựa vào nhiều
nguồn vốn khác nhau trong xã hội. Ngân hàng thương mại với tư cách là nơi
tập trung đại bộ phận vốn nhàn rỗi sẽ đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho đầu tư
phát triển. Như vậy, tín dụng Ngân hàng vừa giúp cho doanh nghiệp rút ngắn
được thời gian tích luỹ vốn nhanh chóng cho đầu tư mở rộng sản xuất, vừa
góp phần đẩy nhanh tốc độ tập trung và tích luỹ vốn cho nền kinh tế.
Thứ hai, tín dụng Ngân hàng là công cụ vĩ mô của Nhà nước để tài trợ cho
các ngành mũi nhọn và các thành phần kinh tế kém phát triển. Trong tiến
trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, tín dụng Ngân hàng được xem
như một công cụ vĩ mô quan trọng để tài trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn,
phát huy tối đa lợi thế so sánh của đất nước. Mặc dù các ngành này có tỷ lệ
sinh lời thấp, thời gian thu hồi vốn chậm, đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn nhưng
đây là các ngành kinh tế mũi nhọn, là xương sống của nền kinh tế, là cơ sở đề
7

phát triển đất nước. Chính vì vậy, việc đầu tư phát triển các ngành này là một
yêu cầu không thể thiếu và tín dụng Ngân hàng được xem như một trong
những nguồn vốn quan trọng tài trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn.
Bên cạnh đó, quá trình phát triển và hội nhập quốc tế còn đòi hỏi phải vực
dậy một số ngành kinh tế kém phát triển để có đủ khả năng cạnh tranh với các
nước trên thế giới. Muốn vậy, cần phải có vốn đầu tư lớn đối với các ngành
kinh tế này. Vốn đầu tư có thể được huy động từ nhiều nguồn nhưng quan
trọng nhất vẫn là nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng.
Thứ ba, tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện phát triển kinh tế đối ngoại.
Trong những năm tới, khi hàng rào thuế quan giữa các nước trong khu vực

1.Quan điểm chung về rủi ro tín dụng:
Mọi hoạt động kinh doanh đều có thể gặp rủi ro, rủi ro và kinh doanh là
hai mặt đối lập nhau trong một thể thống nhất của quá trình kinh doanh,
chúng luôn tồn tại và mâu thuẫn với nhau. Muốn cho quá trình kinh doanh tồn
tại và phát triển thì kinh doanh phải khống chế được rủi ro.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau khi nói về rủi ro. Có ý kiến cho rằng,
khi nói tới rủi ro là nói tới điều gì đó đã xảy ra.
Có ý kiến lại cho rằng, nói tới rủi ro không chỉ dừng lại ở mức liệt kê đơn
thuần về điều đã xảy ra mà còn phải bao hàm cả những thiệt hại mà những
điều đã xảy ra mang lại. Theo đó khi nói tới rủi ro tín dụng có nghĩa là những
khoản cho vay bị mất - không thể thu hồi.
Những người theo quan niệm rủi ro là điều tất yếu xảy ra khi tiến hành
bất cứ một công việc nào lại cho rằng “rủi ro” là những khả năng xảy ra sự cố
có thể dẫn tới tổn thất về cái gì đó. Theo quan điểm này, gắn với hoạt động tín
dụng của Ngân hàng, rủi ro đã hàm chứa ngay từ khi bắt đầu thực hiện cho
vay chứ không phải “chờ đợi” sự trả chậm hay không trả của người vay mới
coi là rủi ro.
9

Ý kiến chung nhất cho rằng rủi ro là một khái niệm chỉ khả năng xảy ra
những biến cố mang lại kết quả xấu khi tiến hành một công việc nào đó.
Như vậy, cần hiểu rủi ro bao gồm những nội dung như sau:
- Trước hết, rủi ro là một hiện tượng có thể xảy ra ngoài mong muốn khi
tiến hành bất cứ một công việc nào. Với quan niệm như vậy, mỗi khi bắt đầu
tiến hành một công việc nào đó cần lường trước những rủi ro có thể xảy ra.
- Thứ hai, mặc dù rủi ro là hiện tượng tiềm ẩn và không phải bao giờ
cũng xảy ra khi tiến hành các hoạt động nhưng trong nhiều trường hợp, do
tính lặp lại của rủi ro nên người ta có thể nhận biết được tính quy luật của nó.
Chính vì điều này mà người ta có thể tìm những biện pháp nhằm hạn chế rủi
ro.

vẫn xảy ra những tổn thất đáng kể.
Như vậy, có thể nói rủi ro trong tín dụng là một tất yếu khách quan trong
hoạt động của các Ngân hàng thương mại. Vấn đề là làm sao để hạn chế tối đa
những rủi ro có thể xảy ra đối với hoạt động tín dụng Ngân hàng. Muốn vậy,
trước hết cần phải đánh giá được mức độ của rủi ro tín dụng thông qua một số
chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng.
2.Một số chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng:
2.1 Nợ quá hạn:
Nợ quá hạn là một chỉ tiêu rất quan trọng trong việc đánh giá rủi ro tín
dụng của một Ngân hàng. Nợ quá hạn được hiểu là các khoản nợ mà người
vay không có khả năng thanh toán đầy đủ hoặc đúng hạn như đã cam kết với
Ngân hàng khi đến hạn trả nợ. Khi đáo hạn, người vay không trả được nợ cho
Ngân hàng thì Ngân hàng sẽ chuyển khoản nợ này từ nợ trong hạn sang nợ
quá hạn. Để xem xét mức độ rủi ro tín dụng thông qua nợ quá hạn, ở nước ta
sử dụng chỉ tiêu sau:
11

Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ Nợ quá hạn = x 100%
Tổng dư nợ
Tỷ lệ này phản ánh lượng đơn vị tiền tệ Ngân hàng không thể thu hồi
đúng hạn trong 100 đơn vị tiền tệ Ngân hàng đã cho vay tại thời điểm xác
định.
Nước ta hiện đang sử dụng phổ biến chỉ tiêu này để đánh giá chất lượng
tín dụng của các Ngân hàng thương mại. Hiện nay, nhiều nhà kinh tế cho rằng
tỷ lệ nợ quá hạn < 5% là có thể chấp nhận được trong hoạt động tín dụng và
được coi là ngưỡng an toàn đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng và của
nền kinh tế.
Tuy nhiên, có thể thấy rằng do dư nợ quá hạn và tổng dư nợ được đo tại
một thời điểm nhất định nên tỷ lệ nợ quá hạn không phản ánh đúng thực chất

toán đầy đủ nợ gốc cho Ngân hàng.
- Nợ quá hạn từ 6 tháng đến 12 tháng: là các khoản nợ mà tại thời điểm
thống kê, thời gian quá hạn thanh toán là từ 6 tháng đến 12 tháng và người
vay vẫn chưa thanh toán đầy đủ nợ gốc cho Ngân hàng.
- Nợ quá hạn trên 12 tháng: là các khoản nợ mà tại thời điểm thống kê,
thời gian quá hạn thanh toán là trên 12 tháng và người vay vẫn chưa thanh
toán đầy đủ nợ gốc cho Ngân hàng.
Những khoản nợ quá hạn dưới 6 tháng được coi là có độ rủi ro thấp, nợ
quá hạn từ 6 - 12 tháng được coi là có độ rủi ro trung bình còn nợ quá hạn
13

trên 12 tháng được coi là có độ rủi ro cao, có khả năng gây mất vốn cho Ngân
hàng.
2.2 Tổn thất tín dụng:
Đây cũng là một chỉ tiêu đánh giá mức độ rủi ro tín dụng của một Ngân
hàng thương mại. Thực chất, tổn thất tín dụng chính là phần vốn mà Ngân
hàng không thu hồi được.
Tổn thất tín dụng = Khoản cho vay không thu hồi được - Giá trị thu hồi
được
2.3 Rủi ro tín dụng tiềm năng:
Nếu chỉ cho rằng rủi ro là các hậu quả thực tế đã xảy ra, ta sẽ chỉ hiểu đơn
thuần kết cục của nó mà không hiểu được rõ nguyên nhân do đó sẽ khó khắc
phục chúng. Chính vì vậy, việc xem xét rủi ro tín dụng tiềm năng sẽ giúp
đánh giá một cách toàn diện hơn về rủi ro tín dụng của một Ngân hàng thương
mại.
Việc đánh giá rủi ro tín dụng đã được các nước trên thế giới đánh giá
thông qua chỉ tiêu:
Các khoản tín dụng có chất lượng trung bình
Tổng dư nợ
Ưu điểm của việc sử dụng chỉ tiêu này đó là nó đánh giá được rủi ro tín

Nói chung môi trường tự nhiên không tác dụng trực tiếp tới hoạt động tín
dụng của ngân hàng mà vai trò của nó thể hiện qua sự tác động đến hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp mà hoạt động
của chúng phụ thuộc vào môi trường tự nhiên như các doanh nghiệp hoạt
động trong các ngành nông nghiệp, ngư nghiệp, dich vụ. Điều kiện tự nhiên
15

diễn biến thuận lợi hay bất lợi sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, do đó ảnh hưởng tới khả năng trả nợ cho ngân hàng.
3.1.2 Môi trường kinh tế:
Là một tế bào trong nền kinh tế, sự tồn tại và phát triển của ngân hàng
cũng như doanh nghiệp chịu ảnh hưởng rất nhiều của môi trường kinh tế. Sự
biến động của nền kinh tế tốt hay xấu sẽ làm cho hiệu quả hoạt động của ngân
hàng và doanh nghiệp biến động theo chiều hướng tương tự. Đặc biệt, trong
điều kiện quốc tế hoá mạnh mẽ như hiện nay, hoạt động của các ngân hàng và
doanh nghiệp không chỉ chịu ảnh hưởng của môi trường kinh tế trong nước
mà cả môi trường kinh tế quốc tế.
Những tác động do môi trường kinh tế gây ra có thể là trực tiếp với ngân
hàng (Ví dụ: những rủi do thay đổi tỷ giá, lãi xuất, lạm phát làm cho ngân
hàng bị thiệt về thu nhập) hoặc gián tiếp tác động xấu đến hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp đều có thể là nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng.
3.1.3 Môi trường pháp lý:
Đây cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới khả năng phát sinh rủi
ro tín dụng của ngân hàng. Hệ thống pháp luật quốc gia với các bộ luật và văn
bản dưới luật chưa được đầy đủ đồng bộ, không bảo đảm môi trường cạnh
tranh lành mạnh cũng là một nguyên nhân trược tiếp dẫn đến rủi ro trong sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, gây nên các khoản nợ quá hạn cho
ngân hàng. Bên cạnh đó, môi trường pháp lý không chặt chẽ, nhiều khe hở và
bất cập sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp yếu kém làm ăn bất chính, lừa đảo
lẫn nhau và lừa đảo ngân hàng. Đồng thời, môi trường pháp lý không ổn định

sau khi phát tiền vay cho khách hàng. Nguyên nhân từ phía khách hàng được
xem xét trên các mặt sau:
17

- Khả năng của doanh nghiệp trong việc quản lý và sử dụng khoản vay
còn hạn chế. Khi cho vay thì ngân hàng trông đợi khoản trả nợ sẽ được lấy từ
chính kết quả hoạt động của dự án chứ không phải bằng cách phát mại tài sản
thế chấp, cầm cố. Điều này lại phụ thuộc vào hiệu quả quản lý và sử dụng vốn
vay của doanh nghiệp. Khi lập các phương án kinh doanh, dự án đầu tư nếu
doanh nghiệp không tính hết những biến động thụ trường sẽ có thể dẫn đến
thua lỗ, không trả được nợ cho ngân hàng. Mặt khác, việc sử dụng vốn vay
của doanh nghiệp cũng phải đúng mục đích, phân phối có hiệu quả nếu không
đồng vốn mà doanh nghiệp sử dụng sẽ không đạt hiệu quả cao, thậm chí thua
lỗ dẫn đến rủi ro cho ngân hàng.
- Năng lực tài chính của các doanh nghiệp yếu kém. Năng lực tài chính
là chỉ tiêu cơ bản thể hiện tình trạng sức khoẻ của một doanh nghiệp, từ đó
mà xác định được khả năng trả nợ cho ngân hàng. Kế hoạch trả nợ của doanh
nghiệp cũng sẽ bị ảnh hưởng nếu doanh nghiệp phải thanh toán những khoản
chi nhất thời quá lớn như thanh toán thuế, tiền lương... hoặc cơ cấu vốn đầu tư
của doanh nghiệp không hợp lý đều có thể gây nên khó khăn trong việc trả nợ
ngân hàng đúng hạn dẫn đến rủi ro tín dụng.
- Đạo đức, thiện chí của khách hàng: Vấn đề nổi lên ở đây là chọn lựa
đối nghịch và động cơ không trong sạch của người vay. Trong những giao
dịch diễn ra trên các thị trường tài chính, một bên thường không biết tất cả
những gì mà họ cần phải biết về bên kia để có những quyết định đúng đắn. Sự
không cân bằng về thông tin mà mỗi bên có được được gọi là thông tin không
cân xứng.
Chọn lựa đối nghịch là vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra trước
khi diễn ra cuộc giao dịch. Chọn lựa đối nghịch xảy ra trên các thị trường tài
chính khi những người đi vay có nhiều khả năng tạo ra một kết cục không

thường chiếm tỷ trọng nhỏ. Các nguyên nhân này thường xảy ra trong quá
trình thực hiện cho vay, thể hiện qua các mặt sau:
19

a. Trong giai đoạn xét duyệt:
Trong giai đoạn này, cán bộ tín dụng cần phải phân tích đánh giá khách
hàng trước khi cho vay. Việc phân tích đánh giá được dựa trên một số chỉ tiêu
như uy tín của khách hàng, năng lực quản lý kinh doanh, năng lực tài chính...
Giai đoạn này có thể tiềm ẩn sự rủi ro do các nguyên nhân sau:
Thứ nhất là sự hạn chế về khả năng phân tích của cán bộ tín dụng. Nếu
yếu về chuyên môn, các cán bộ Ngân hàng không thể đánh giá chính xác về
khách hàng và dự án vay vốn, từ đó sẽ làm phát sinh những hợp đồng tín dụng
kém an toàn. Mức độ rủi ro trong trường hợp này sẽ ngày càng tăng dần trong
suốt quá trình kể từ khi xét duyệt đến khi giám sát và cuối cùng là thu nợ.
Thứ hai, gắn liền với sự hạn chế về khả năng phân tích là vấn đề phẩm
chất đạo đức của cán bộ. Đánh giá rủi ro tín dụng là một công việc hết sức
phức tạp. Đặc thù nghề nghiệp buộc một cán bộ tín dụng vừa phải có trình độ
và phẩm chất đạo đức tốt. Trước sự cám dỗ của vật chất, nhiều cán bộ tín
dụng đã sa ngã. Họ có thể hành động vô nguyên tắc, vô tổ chức, làm trái quy
định, gây những tổn thất to lớn cho Ngân hàng. Do thực tế thu nhập của cán
bộ tín dụng hiện nay ở các Ngân hàng thương mại Việt Nam còn thấp, càng
dẫn đến tình trạng họ không thật sự gắn bó với lợi ích của Ngân hàng.
Thứ ba, vấn đề tài sản thế chấp cũng là một nguyên nhân gây rủi ro quan
trọng cho các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Phổ biến ở Việt Nam hiện
nay, luôn có tư tưởng cho rằng cho vay có tài sản thế chấp là an toàn nhất.
Bởi khi món vay không được hoàn trả, Ngân hàng chỉ việc phát mại tài sản
thế chấp để thu hồi vốn. Nhưng trên thực tế chính việc quá tin tưởng vào tài
sản thế chấp đã gây ra những hạn chế lớn trong hoạt động cho vay của các
Ngân hàng. Có thể thấy điều này qua một số nét chính như sau:
- Hiện nay các tài sản thế chấp để vay vốn Ngân hàng còn thiếu các yếu


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status