Tiểu luận: Những đặc điểm cơ bản trong chế độ Cộng Hòa La Mã - Pdf 11

Lịch sử tư tưởng quản lý 1
(*)
Lớp QH-2010-X-QL.A 1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA KHOA HỌC QUẢN LÝ
o0o
Tiểu luận
Những đặc điểm cơ bản trong chế độ Cộng Hòa La Mã Hà Nội, tháng 11 năm 2011

Lịch sử tư tưởng quản lý 1
(*)
Lớp QH-2010-X-QL.A 2 LỜI MỞ ĐẦU

3.Khai thác than
4.Chế tạo xi-măng.
Họ cũng là những người đầu tiên biết đặt các thiết bị như guồng ước nhằm
lợi dụng thủy năng và chế tạo ra thuyền buồm.
Kỹ nghệ và chế tạo đồ dùng với mức hoạt động khá nhỏ, nhưng khá nhộn
nhịp là các công việc khai mỏ và khai thác đá xây dựng, tùy theo mức độ xây dựng
vào mỗi triều đại khác nhau. Mức độ sản xuất chỉ có các xi nghiệp nhỏ với vài
chục lao động. Tuy nhiên, trong lĩnh vực sản xuất gạch xây dựng cũng có những xí
nghiệp lên đến hàng trăm người.
Một số nhà viết sử, như Peter Temin, mô tả sự phát triển kinh tế của thời kỳ
khởi đầu của La Mã đã thúc đẩy các kỹ nghệ khác và nghệ thuật phát triển, đặc biệt
ảnh hưởng mạnh mẽ lên kinh tế thời Phục Hưng và về sau này của châu Âu.
XÃ HỘI
-Những cư dân La Mã tự do được chia thành 2 tầng lớp: quí tộc và người
bình dân. Quí tộc là tầng lớp thống trị. Ban đầu, chỉ có họ mới có thể được bầu vào
Lịch sử tư tưởng quản lý 1
(*)
Lớp QH-2010-X-QL.A 4

các chức vị. Việc lấy nhau giữa các tầng lớp bị cấm và danh hiệu quí tộc chỉ có thể
được thừa kế chứ không được nhận. Dưới nền Cộng hoà La Mã, một loạt những
đấu tranh dẫn tới việc người bình dân được hưởng những quyền bình đẳng hoặc
gần như bình đẳng.
Cuối thời kì Cộng hoà, sự phân biệt giữa quí tộc và người bình dân bắt đầu mất đi
ý nghĩa của nó. Một tầng lớp cai trị mới, gọi là quý nhân, là những gia đình, quý
tộc hay người bình dân, đã sản ra một quan chấp chính tối cao. Trong thời kì Đế
quốc, sự phân chia giai cấp bị bỏ và bị hầu hết mọi người quên lãng.
Đầu thời kì Cộng hoà, những công dân còn bị chia thành các tầng lớp dựa vào vũ
khí mà họ có thể mua được cho nghĩa vụ quân sự. Tầng lớp giàu nhất là những
người cưỡi ngựa hoặc kị sĩ, những người có thể mua được một con ngựa chiến. Có

Lớp QH-2010-X-QL.A 6

thân từ một gia đình khá giả. Với thành tựu của mình, ông được xem là một trong
những nhà hùng biện vĩ đại nhất La Mã. Ông cũng giới thiệu đến người La Mã các
trường phái chính của triết học Hy Lạp và tạo ra một số từ vựng triết học Latinh
(như humanitas, qualitas, quantitas, và essentia) nên ông cũng được xem là một
nhà ngôn ngữ học, nhà dịch thuật và triết gia.

HỘI HỌA, ÂM NHẠC, VĂN HỌC
Có rất nhiều thể loại hội họa của thời kỳ đầu La Mã chịu ảnh hưởng theo lối
thời Etruscan, đặc biệt ở các truyền thống hội họa công cộng. Vào thế kỷ thứ 3
TCN, hội họa Hy Lạp ảnh hưởng lên La Mã do chiến tranh và chiến lợi phẩm
mang lại. Rất nhiều gia đình ở La Mã đã treo các bước tranh phong cảnh của các
họa sỹ Hy Lạp.
Nghệ thuật điêu khắc của La Mã thể hiện những người trai trẻ với vẻ đẹp cân
đối cổ điển, về sau mở ra trường phái pha trộn chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa
duy tâm.
Văn học Latin chịu sự ảnh hưởng nặng nề của các tác giả Hy Lạp cổ đại.
Một số tác phẩm thời kỳ Đế quốc La Mã thể hiện bằng các thiên anh hùng ca về
chiến thắng vĩ đại của Đế chế. Dưới thời nền Cộng hòa mở rộng, bắt đầu xuất hiện
các thể loại như, thi ca, kịch nói, sử học và bi kịch.
KIẾN TRÚC XÂY DỰNG
La Mã có niềm tự hào về các công trình kiến trúc của họ, khi mà có sự kết
hợp các kiến thức truyền thống của nền văn minh Hy Lạp kinh điển. Từ hai kiểu
Lịch sử tư tưởng quản lý 1
(*)
Lớp QH-2010-X-QL.A 7

cột mới là kiến trúc hỗn hợp và kiểu Toscana, một nữa là kiểu mái vòm với phong
cách từ Etruscan, Roma đã có khá nhiều cách tân vào cuối thời Cộng hòa La Mã.

Civilis được tái khám phá trong thời kỳ Trung cổ và mãi cho đến thế kỷ 19 vẫn
được xem là nguồn luật pháp quan trọng trong phần lớn các quốc gia châu Âu. Vì
thế mà người ta cũng có thể gọi các luật lệ có hiệu lực trên lục địa châu Âu trong
thời kỳ Trung cổ và trong thời gian đầu của thời kỳ Hiện đại là Luật La Mã. Trong
thời gian cuối của thời Cổ đại Hoàng đế Justinian I đã ra lệnh sưu tập lại các bản
văn luật cũ. Tác phẩm luật mà sau này được biết đến dưới tên Corpus Iuris Civilis
bao gồm các quyển sách dạy về luật (công bố năm 533), tập san các bài văn của
các luật gia La Mã (tiếng La Tinh: digesta hay pandectae), các đạo luật do hoàng
đế ban hành (Codex Iustinianus, công bố năm 534) và các đạo luật đã được sửa đổi
bổ sung (novellae).
TÔN GIÁO
Thần thoại cổ xưa của La Mã có đặc điểm rằng các thần không ngự trị ở
đỉnh cao mà có yếu tố kết hợp giữa thần thánh và con người. Không giống như
thần thoại Hy Lạp, người La Mã không thần thánh hóa các thần, mà có thể hình
dung như những siêu tục. Người La Mã luôn tin tưởng trong mỗi con người, địa
thế, đồ vật đều có một thần bản mệnh của chính nó, kiểu như là linh hồn. Đến thời
Cộng hòa La Mã, tôn giáo là sự tuân phục của hệ thống các thầy tu, thầy tế bề trên,
mà họ là những người nắm giữ các vị trí ở Nghị viện La Mã. Các trường dòng ở
Roma có một vị trí quan trọng, ở đó các Đại Giáo chủ nắm giữ quyền lực lớn nhất.
Các giáo chủ nắm giữ việc thờ cúng các vị thần khác nhau, nhằm tạo niềm tin được
Lịch sử tư tưởng quản lý 1
(*)
Lớp QH-2010-X-QL.A 9

che chở. Dưới thời Đế quốc La Mã, hoàng đế là người nắm giữ mệnh lệnh của các
thần, và có quyền thờ cúng để tăng thêm sức mạnh, quyền uy.
Kết hợp với tín ngưỡng của Hy Lạp cổ đại, các thần La Mã cũ được tăng
thêm sức mạnh từ các thần Hy Lạp. Theo cách này, thần Jupiter là cách hiểu của sự
chuyển tải từ vị thần Zeus, thần Mars (vị thần của chiến tranh) là thần Ares và
Neptune (thần của biển) là thần Poseidon.

của Gaius Marius là quân lính thường có lòng trung thành với người chỉ huy của
họ nhiều hơn đối với thành phố, và một vị tướng hùng mạnh như Marius, hay đối
thủ của ông Lucius Cornelius Sulla, có đủ khả năng uy hiếp buộc thành phố và Hội
đồng Nguyên lão phải nhượng bộ.
Vào giữa thế kỉ 1 TCN ba người, Julius Caesar, Gnaeus Pompeius Magnus
(Pompey) và Marcus Licinius Crassus, đã nắm quyền kiểm soát không chính thức
của chính phủ cộng hoà thông qua một hiệp ước bí mật được biết đến như là Chế
độ Tam hùng đầu tiên. Caesar có thể hoà hợp với những đối thủ Pompey và
Crassus, cả hai đều là những người cực giàu với quân đội riêng và sự nghiệp
thượng nghị sĩ, và hành động vì lợi ích của cả hai người khi bầu chọn quan chấp
chính tối cao, trước khi dùng cương vị thống đốc của mình như người cầm quyền
của Gaule để tự mình có được danh tiếng quân sự.
Sau cái chết của Crassus và sự sụp đổ của chế độ Tam hùng, một sự tách biệt
giữa Caesar và Hội đồng Nguyên lão đã dẫn tới nội chiến, với Pompey dẫn đầu lực
lượng của Hội đồng. Caesar chiến thắng và được phong làm nhà độc tài suốt đời
Lịch sử tư tưởng quản lý 1
(*)
Lớp QH-2010-X-QL.A 11

sau khi từ chối tước hiệu quốc vương. Tuy nhiên, ông ta chiếm lấy quá nhiều
quyền lực quá nhanh đối với một vài thượng nghị sĩ, và bị ám sát trong một âm
mưu được tổ chức bởi Brutus và Cassius vào ngày 15 tháng 3 năm 44 TCN.
Một chế độ Tam hùng thứ hai, bao gồm người thừa kế đã được chỉ định của
Augustus và những cựu trợ thần Marcus Antonius và Marcus Aemilius Lepidus,
lên nắm quyền, nhưng những thành viên của nó nhanh chóng rơi vào một cuộc đấu
tranh giành quyền thống trị. Trong nỗ lực cuối giành chính quyền Cộng hoà,
Augustus đánh bại Antonius tại trận chiến Actium vào năm 31 TCN và thôn tính
những vùng lãnh thổ của Cleopatra, người vợ phương Đông của Antonius.
Augustus giữ lại Ai Cập như là thuộc địa không chính thức của nhà vua, bảo đảm
một thu nhập để lấy lòng những cư dân thủ đô. Giờ đây ông ta nắm lấy quyền lực

Cơ cấu nhà nước La Mã được hình thành trong mấy thế kỷ, đến TK 3 TCN
mới được hoàn chỉnh.Chính thể Cộng hòa quý tộc ở La Mã có những đặc điểm là ở
TW các cơ quan chuyên chính gồm : Nghị viện (viện nguyên lão), Đại hội nhân
dân và các cơ quan chấp chính.Nó thể hiện sâu sắc tính chất quý tộc của nhà nước
La Mã. Đó là chính thể Cộng hòa quý tộc.
-Nước Cộng hoà La Mã được điều hành bởi Hiến pháp bất thành văn, những
điều luật này dựa trên nguyên tắc phân quyền và nguyên tắc kiểm soát và cân bằng.
Sự phát triển của hiến pháp chịu ảnh hưởng lớn bởi cuộc đấu tranh giữa tầng lớp
quý tộc và những tầng lớp còn lại. Lúc đầu chính quyền được điều hành bởi tầng
lớp quý tộc (The patricians), những người đã sống lâu đời tại La Mã. Dần dần các
luật đưa ra đặc quyền của tầng lớp quý tộc bị loại bỏ, từ đó nổi lên tầng lớp quý tộc
mới dựa trên kết cấu xã hội thay vì điều luật để duy trì quyền lực.
-Viện nguyên lão (Roman Senate) : Đây là cơ quan Hành pháp, Lập pháp và
Tư pháp của Nhà nước La Mã nên có quyền lực rất lớn như quyết định những vấn
đề lớn của đất nước, ban hành chính sách đối nội, đối ngoại quyết định chiến tranh
hay hòa bình, ban hành qui định về nghi thức quốc gia, phê chuẩn những quan lại
cao nhất mới nhất được bầu ra quản lý tài sản cùa Nhà nước, giải thích Pháp luật,
kiến nghị xây dựng Luật mới, thành lập phiên tòa xét xử những vụ án quan trọng.
Lịch sử tư tưởng quản lý 1
(*)
Lớp QH-2010-X-QL.A 14

Do Đại hội nhân dân bầu ra, Nghị viện (viện nguyên lão) gồm ban đầu là 50
đại biểu, cuối thời kỳ Cộng hòa lên đến 900 vị. Gồm các quý tộc, giàu sang đã từng
nắm giữ chức quan cao cấp có độ tuổi từ 60 trở lên 300 người và chỉ những người
giàu có mới được bầu vào nghị viện. Nghị viện là chính phủ, là cơ quan hành chính
cấp cao nhất. Mặc dù không có quyền lập pháp nhưng nghị viện có quyền soạn
thảo tất cả các dự thảo luật và nếu như nghị viện không đông ý thì đại hội nhân dân
không thể thông qua được luật hoặc bầu ra những quan chấp chính. Điều kiện để
trở thành một nghị sĩ viện nguyên lão là phải sở hữu một vùng đất tương đương với

Người la Mã tin rằng tất cả các quyền lực đều đến từ nhân dân. Có thể nói
rằng kiểu nói này cũng xuất hiện trong chính trị hiện đại và các cuộc cách mạng xã
hội. Nhân dân ở ý nghĩa này chỉ toàn bộ chính quyền. Sau đó, về bản chất, từ ngữ
này đã phân chia ra thành một Viện Nguyên lão Quý tộc, những người sẽ được
điều hành bởi các chấp chính và các pháp quan, và comitia centuriata, "ủy ban của
nhân dân", những người sẽ được các hộ dân quan bảo vệ.
-Ở vị trí cao nhất là hai quan chấp chính, được bầu cử hàng năm trong số
những nhà quý tộc, là thành viên của Viện Nguyên Lão do Đại hội Centuries bầu
với nhiệm kỳ 1 năm. Là chức vị cao cấp trong hàng quan lại có quyền rất lớn về
quân sự và dân chính là Tổng chỉ huy quân đội, có quyền triệu tập Đại hội Viện
Nguyên Lão và Đại hội nhân dân chỉ đạo thực hiện những quyết nghị của Viện
Lịch sử tư tưởng quản lý 1
(*)
Lớp QH-2010-X-QL.A 16

Nguyên Lão và Đại hội Nhân dân có quyền sa thải những quan lại cấp dưới. Cũng
giống với các quốc vương trong thời quân chủ, 2 quan chấp chính đưa ra luật pháp,
nắm giữ tòa án, quân đội và vị trí trưởng tế của quốc gia. Phục sức của họ giống
với các vị vua trong quá khứ, áo choàng tía và ngồi trên ghế truyền thống dành
riêng cho nhà vua. Tuy nhiên, quyền lực của họ đã bị hạn chế rất nhiều. Thứ nhất,
họ tại vị chỉ có 1 năm, sau đó có thể được bầu lại hoặc trở về đời sống riêng. Thứ
hai, có 2 quan cùng chấp chính, và vị này có thể ngăn cản có hiệu quả bất cứ quyết
định hay hành động nào của vị kia bằng quyền phủ quyết. Thứ ba, các quan chấp
chính tiếp tục phải phục vụ ở Viện nguyên lão sau khi nhiệm kỳ chấm dứt, điều
này khiến họ chuyên tâm hợp tác với Viện nguyên lão. Kết quả của những việc này
là các quan chấp chính không thực sự chủ động và sáng tạo, bởi vậy chính phủ La
Mã có khuynh hướng bảo thủ và thận trọng. Đến năm 325 trước CN, vị trí này
được đổi thành quan thống đốc, là những quan chấp chính tại vị nhiều nhiệm kỳ do
yêu cầu của các chiến dịch quân sự.
-Dưới 2 quan chấp chính là 2 quan coi quốc khố và 2 pháp quan. Chức pháp

và chính sách ngoại giao thiết lập bởi giới quý tộc ngay lập tức đưa đến sự oán
giận của tầng lớp bình dân. Từ lúc bắt đầu năm 509 trước CN cho đến lúc tan rã
trong tay Caesar vào giữa thế kỷ thứ nhất trước CN, lịch sử chính trị của Cộng hòa
La Mã là 1 mớ hỗn độn, và thường xuyên xung đột giữa hai tầng lớp dân chúng
muốn tranh giành quyền lực chính trị.
-Hội đồng lập pháp là đại diện toàn bộ công dân La Mã, quyết định cuối
cùng đến bầu cử chấp chính quan, ban hành một đạo luật, thi hành các hình phạt,
tuyên chiến và cầu hoà, giải tán hoặc lập liên minh với các quốc gia khác. Có hai
loại hội đồng lập pháp. Thứ nhất là comitia là hội đồng của tất cả các công dân, thứ
hai là concilia hội đồng của một nhóm công dân nhất định.
Lịch sử tư tưởng quản lý 1
(*)
Lớp QH-2010-X-QL.A 18

-Hội đồng Centuries : Công dân La Mã được tổ chức theo các đơn vị cơ bản
là Centuries và Tribe. Dân chúng sẽ tập hợp theo các Century và Tribe. Hội đồng
Century (Comitia Centuriata) là tập hợp đại diện của các centuries. Người đứng
đầu hội đồng Century thông thường là Quan chấp chính. Các Century sẽ bỏ phiếu,
mỗi Century được một phiếu, quyết định sẽ theo đa số. Đại hội Century sẽ bầu ra
Magistrate có quyền lực tuyệt đối (gồm cả quyền của Pháp quan và Chấp chính
quan). Nó cũng bầu ra những người kiểm soát. Hội đồng Century cũng có thể
tuyên chiến, thông qua kết quả điều tra. Và cũng là toà án tối cao.
-Hội đồng Tribe hay Comitia Tributa chủ trì bởi chấp chính quan, được tập
hợp từ 35 tribe. Tribe không phải là nhóm người cùng một dân tộc hoặc cùng huyết
thống mà là nhóm được phân chia theo địa lý. Thứ tự bầu chọn của các tribe được
lấy ngẫu nhiên bằng cách rút thăm. Khi được số đông ủng hộ cuộc bỏ phiếu sẽ kết
thúc. Hội đồng Tribe không thông qua luật nó chỉ bầu cử Quan coi quốc khố, Quan
thị chính và thống lĩnh quân đội.
-Hội đồng Pleb là quốc hội của những người Pleb, những người bình dân
(không thuộc tầng lớp quý tộc), họ tự tổ chức thành những Tribe riêng, tự bầu cử

như đền đài, chợ búa, etc. Vì vậy cho nên aedile thường làm việc chung với các
censor. Ngoài ra aedile còn lo tổ chức các lể hội, đặt biệt nhất là những chương
trình vui chơi giải trí như các cuộc giác đấu ở các colosseum ở Romẹ Người nào tố
chức hay thì thường được dân La Mã tán dương. Cho nên trở thành aedile là một
trong những cách hay nhất để từng bước nhận được lòng hâm mộ từ quần chúng.

Tribune: Tribune thì được chia làm hai loại, military tribune và tribune of the
peoplẹ Military tribune thường là do Roman Senate bổ nhiệm, còn Tribune of the
people (tribunus plebis) là do chính thường dân (plebeian) bầu chọn. Có tât cã là
10_tribune._Tribune_cũng_là_chỉ_huy_trong_quân_đội_nhằm_mục_đích_để_giúp
Lịch sử tư tưởng quản lý 1
(*)
Lớp QH-2010-X-QL.A 20

_cho_các_pháp_quan_La_Mã.

Kể cũng nên nói, thật ra trước đây không có chức vụ Tribune of the people
(tribunus plebis). Sau một lần giận dử trước sự chống đối của Roman Senate đối
với các yêu cầu của thường dân, những người này tập họp lại rồi rút lên ngọn núi
Sacred để biểu tình phản đốị Nơi đây họ bầu ra một người trong số họ dể đại diện
cho họ, nói lên tiếng nói và bênh vực cho quyền lợi của họ. Trước áp lực khá lớn
từ những người dân cùng đinh này, Roman Senate bụộc phải công nhận người đại
diện đó trong chính quyền. Đó chính là sự ra đời của chức vụ tribune of the people
Tại hạ sẽ bàn thêm về hai người tribunus plebis nổi tiếng trong lịch sử La Mã ở các
bài_sau.

Quaestor : thường là 20 người trong tổng số. Đây là một trong những chức chức vụ
thấp nhất trong hàng pháp quan của La Mã. Quaestor có nhiệm vụ trông coi ngân
khố. Cho nên quaestor phối hợp rất chặt chẻ với censor trong việc lo quân hướng
và chi thụ Để được bầu thành quaestor, phải ít nhất là 25 tuổi và đã từng phục vụ

thống trị còn kết hợp với Cơ-đốc giáo để áp bức con người nhiều hơn là giải
phóng con người.
 Trong cơ cấu quyền lực nhà nước,mang tính chất dân chủ,nhưng nó vấn đảm
bảo lợi ích cho giai cấp thống trị là chủ yếu.
*Hậu sinh khả uý,người La Mã,qua những tìm tòi không ngừng,lại còn tiến xa hơn
hy Lạp,hình thành một chế độ dân chủ cộng hoà độc đáo,trở thành mẫu mực cho
quản lý chính trị của châu Âu và toàn thế giới.
Lịch sử tư tưởng quản lý 1
(*)
Lớp QH-2010-X-QL.A 22

ĐẶC ĐIỂM CỦA TƯ TƯỞNG QUẢN LÝ THỜI KÌ NÀY
-Phản ánh thế giới quan và ý thức của giai cấp chủ nô, bảo vệ giai cấp thống
trị, giai cấp chủ nô trong xã hội.
-Nội dung của tư tưởng thời kì này bàn luận chủ yếu về vấn đề nhà nước,
vấn đề quan hệ nhà nước-công dân, vấn đề pháp luật và pháp quyền.
-Đặc biệt coi trọng và đề cao vấn đề con người “ Con người hãy nhận thức
chính giá trị của bản thân mình”.
-Phản ánh cuộc đấu trang giữa những người duy vật và những người duy
tâm, giữa chủ nô dân chủ và chủ nô quý tộc.
A. Đê-mô-crit.
Ông sống trong khoảng 460-370 TCN, là một trong những hiền triết bậc
thầy, đại biểu duy nhất của chủ nghĩa duy vật cổ đại, một trong những người sáng
lập nguyên tử luận. Trong vấn đề đời sống xã hội, tư tưởng của Dê-mô-crit đã phản
ảnh thế giới quan và ý thức của giai cấp chủ nô, bảo vệ giai cấp thống trị, giai cấp
chủ nô trong xã hội. Ông ủng hộ và bảo vệ chế đố chủ nô trong quản lý xã hội, chủ
nghĩa duy vật của ông ảnh hưởng rất mạnh đến sự phát triển tiếp theo của tư tưởng
triết học tự nhiên phương Tây. Theo ông sự ra đời của nhà nước và xã hội là đi từ
vô tổ chức đến có trật tự và trật tự đó được xây dựng lên từ các đạo luật, duy trì trật
tự xã hội. Nhà nước xuất hiện lúc đầu theo một cách tự phát mà chưa có tổ chức rõ

Điều quan trọng là phải có đạo đức, nếu như không muốn thần dân của ông
ta sống trong cảnh cơ cực, oán than, nếu để diễn ra chuyện đó thì lòng dân oán than
và chẳng mấy chốc đất nước của ông sẽ mất ổn định.
Lịch sử tư tưởng quản lý 1
(*)
Lớp QH-2010-X-QL.A 24

Và cuối cùng là phải được phân công lao động hợp lý, bản thân họ làm
nhiệm vụ phân công lao động cho người khác nhưng họ cũng phải được phân công
lao động hợp lí, tránh ôm đồm quá nhiều việc.
Những phẩm chất này đều được ông xây dựng đều thuộc về phẩm chất của
một nhà thông thái.

Khi xây dựng nhà nước theo Platon phải dựa trên những cơ sở kinh tế, vật
chất nhất định. Một nhà nước không thể hình thành khi mà không có tiền đề sẵn có
gì cả,nguồn gốc nhà nước dựa vào sự tư hữu về tư liệu sản xuất, đó là khi đã có sản
xuất dư thừa của cải đã có kinh tế đã được tích lũy, xã hội cũng đi vào ổn
định.Chính từ những điều trên nên cần có sự ra đời của nhà nước để quản lý xã hội
và và đưa xã hội đi vào ổn định.
Đảm bảo tính thống nhất của nhà nước, thể hiện ở chỗ thống nhất quyền lợi
giai cấp thống trị với các giai cấp khác trong xã hội vì bản chất nhà nước là mang
tính giai cấp, nhà nước hình thành nhằm đảm bảo quyền lợi của giai cấp thống trị
nhưng nó cũng mang tính xã hội, đảm bảo quyền lợi cho số đông nhân dân vì thế
mà nhà nước xây dựng nên cần đảm bảo tính thống nhất giữa lợi ích nhà cầm cầm
quyền với nhân dân, thống nhất trong sự điều hành đất nước.
Đảm bảo tính luân lý, tức là đạo đứ của xã hội phải được giữ vững thế mới
tạo được một xã hội lành mạnh và phát triển.

NHẬN XÉT VỀ CHẾ ĐỘ CỘNG HÒA LA MÃ
Lịch sử tư tưởng quản lý 1


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status