ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ phát triển kinh tế - xã hội tỉnh vĩnh phúc - thực trạng và giải pháp - Pdf 11

2.1. Nghiên cứu ở ngoài nước ........................................................5
2.2. Nghiên cứu ở trong nước.........................................................6
32.1. Mục đích.................................................................................7
32.2. Nhiệm vụ................................................................................7
3.1. Nghiên cứu ở ngoài nước ........................................................8
3.2. Nghiên cứu ở trong nước.........................................................8
1.1.2.1. Công nghệ thông tin là công nghệ mũi nhọn..................13
1.1.2.2. Công nghệ thông tin là công nghệ phổ biến trong mọi lĩnh
vực..........................................................................................................13
1.1.2.3. Công nghệ thông tin là một công nghệ có nhiều tầng lớp13
1.1.2.4. Công nghệ thông tin là lĩnh vực phát triển và đào thải rất
nhanh......................................................................................................14
Mô hình “Bốn thành phần, ba chủ thể”........................................16
.......................................................................................................16
1.1.3.1. Ứng dụng công nghệ thông tin........................................17
1.1.3.2. Phát triển hạ tầng công nghệ thông tin ...........................18
1.1.3.3. Phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin .............19
1.1.3.4. Phát triển công nghiệp công nghệ thông tin ...................20
1.1.3.5. Hoàn thiện môi trường pháp lý .......................................20
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
CNTT là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ
kỹ thuật hiện đại, chủ yếu là kỹ thuật máy tính và viễn thông, nhằm tổ chức,
khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong
phú và tiềm tàng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội.
CNTT phục vụ trực tiếp cho việc cải tiến QLNN, nâng cao hiệu quả các hoạt
động sản xuất, kinh doanh và các hoạt động KT - XH khác, từ đó góp phần
nâng cao chất lượng đời sống xã hội, phúc lợi của nhân dân. (không nên mở
đầu bằng định nghĩa cụ thể như thế này, có thể theo cách sau:)
Trước đây, khi đề cập đến các nguồn tài nguyên cho phát triển, người ta
thường cho rằng, đó là các yếu tố nằm trong 4 chữ M: Men, Machines,

Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy BCH TW khoá VII xác định: "...Ưvề
ưu tiên ứng dụng và phát triển các công nghệ tiên tiến, trong đó có như
CNTT. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX nhấn mạnh:
"Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ: thương mại, kể
cả thương mại điện tử, các loại hình vận tải, bưu chính - viễn thông... Sớm
phổ cập sử dụng tin học và Mạng thông tin quốc tế (Internet) trong nền kinh
tế và đời sống xã hội” [20, tr.94].
Chỉ thị số 58-CT/TW của Bộ Chính trị khoá IX về đẩy mạnh ứng dụng
và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH, đã xác định rõ:
Ứng dụng và phát triển CNTT ở nước ta nhằm góp phần giải phóng
sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tộc, thúc đẩy công
cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại hoá các ngành kinh tế, tăng
cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả cho
quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao chất lượng cuộc
sống của nhân dân, bảo đảm an ninh, quốc phòng và tạo khả năng đi tắt
đón đầu để thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH [22, tr.7].
Gần đây, Chính phủ Việt Nam đã ký hiệp định khung E-Asian với mục
tiêu chính là: xây dựng cChính phủ điện tử ( CPĐT), tThương mại điện tử
(TMĐT) và cộng đồng điện tử,, có nghĩa là Việt Namchúng ta đã cam kết
đồng thuận triển khai các hoạt động của hiệp định, từng bước xây dựng cơ sở
hạ tầng nhằm thực hiện mô hình CPĐT, TMĐT, cộng đồng điện tử ở Việt
Nam. Việc áp dụng CPĐT, TMĐT, CĐĐT cũng đồng nghĩa với việc phải giải
quyết các vấn đề bảo đảm an ninh quốc gia và thành lập khung pháp lý điều
chỉnh. Một khi CPĐT, TMĐT, cộng đồng điện tử được vận hành có hiệu quả,
các thao tác kỹ thuật được chuẩn hoá và thực hiện nhanh chóng, như vậythì
mức độ chi phối chủ quan của yếu tố con người vào nhiều khâu của quá trình
quản lý sẽ được giảm đáng kể. Cộng đồng điện tử, TMĐT sẽ bảo đảm phát
triển nhanh một xã hội tri thức, thu hẹp sự khác biệt về kỹ thuật số, sự thông
thoáng và hiệu quả khi người dân được tiếp cận với hệ thống hành chính, luật
pháp và thông tin hiện đại trong nhiều lĩnh vực.

ứng nhu cầu ứng dụng và phát triển CNTT; QLNN trong các lĩnh vực CNTT
chưa thống nhất, thiếu đồng bộ, chưa tạo được môi trường cạnh tranh lành
mạnh cho việc cung ứng dịch vụ viễn thông và Internet, chưa coi đầu tư cho
xây dựng hạ tầng thông tin là loại hình đầu tư xây dựng hạ tầng KT - XH.
Với những lý do nêu trên, tôi chọn đề tài: “Ứng dụng công nghệ thông
tin phục vụ phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc - Thực trạng và giải
pháp” đã được tác giả chọn làm luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Nghiên cứu ở ngoài nước
Ở ngoài nước, đã có rất nhiều tài liệu nghiên cứu về vai trò của CNTT
đối với phát triển KT-XH. Tác giả luận văn đã tiếp cận được một số công
trình nghiên cứu khá điển hình như: Văn minh của làn sóng thứ ba, tác giả
Allvin Toffler, Hetdi Toffler; Làn sóng thứ ba, tác giả Allvin Toffler; Cú sốc
tương lai, tác giả Allvin Toffler; Đạo đức thông tin trong xã hội kinh tế tri
thức, tác giả Cameron Esslement. Trong các tác phẩm này, các tác giả đã đề
cập đến sự xuất hiện của một trào lưu hay một "làn sóng" mới, đó là làn sóng
CNTT. Cùng với sự xuất hiện này, tất yếu dẫn đến những đòi hỏi thay đổi
một cách toàn diện các phương thức vốn được coi là hợp lý trước đây đối với
việc vận hành và phát triển xã hội.
2.2. Nghiên cứu ở trong nước
- Có nhiều tác phẩm viết về vai trò của CNTT trong đời sống như: CNTT
- Tổng quan và một số vấn đề cơ bản, của Ban chỉ đạo Chương trình Quốc gia
về CNTT, Nxb. Giao thông vận tải, Hà Nội, năm 1997; Kỷ yếu hội thảo khoa
học Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam của Ban Khoa
giáo Trung ương, Bộ KHCN và Môi trường và Bộ Ngoại giao, Hà Nội, năm
2002; Ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH của Ban
Tư tưởng văn hóa Trung ương và Ban Khoa giáo Trung ương, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, năm 2001; Chủ nghĩa tư bản và thời đại thông tin của Bộ
KHCN và Môi trường, Lưu hành nội bộ, Hà Nội, năm 2001; CNTT Hà Nội
cất cánh của Hội Tin học Việt Nam, tạp chí Tin học và Đời sống, (số 3, 5, 6,

4.2. Phạm vi
- Để thuận lợi cho việc thu thập tư liệu, luận vănĐề tài giới hạn phạm vi
nghiên cứu ứng dụng CNTT của các cơ quan quản lý nhà nước tỉnh Vĩnh
Phúc từ ngày tái lập tỉnh 01/01/1997 đến nay. Luận văn không nghiên cứu về
phát triển công nghiệp CNTT, thị trường, kinh doanh sản phẩm CNTT và các
giải pháp liên quan đến kỹ thuật CNTT; luận văn cũng không đề cập đến các
đối tượng ứng dụng CNTT như: nhân dân, doanh nghiệp và các đơn vị tương
đương như: trường học, bệnh viện…
53. Tình hình nghiên cứu của đề tài
3.1. Nghiên cứu ở ngoài nước
Ở ngoài nước, đã có rất nhiều tài liệu nghiên cứu về vai trò của CNTT
đối với phát triển KT - XH. Tuy nhiên trong nguồn tham khảo hạn chế của
mình, tác giả luận văn đã tiếp cận được một số tác phẩm nghiên cứu như: Văn
minh của làn sóng thứ ba, tác giả Allvin Toffler, Hetdi Toffler, NXB. Thanh
niên, Hà Nội, năm 1998; Làn sóng thứ ba, tác giả Allvin Toffler NXB. Thanh
niên, Hà Nội, năm 2002; Cú sốc tương lai, tác giả Allvin Toffler, NXB.
Thanh niên, Hà Nội, năm 1998.
3.2. Nghiên cứu ở trong nước
- Trong thời gian qua ở trong nước đã có nhiều tác phẩm viết về vai trò
của CNTT trong đời sống như: CNTT - Tổng quan và một số vấn đề cơ bản,
của Ban chỉ đạo Chương trình Quốc gia về CNTT, NXB. Giao thông vận tải,
Hà Nội, năm 1997; Kỷ yếu hội thảo khoa học Kinh tế tri thức và những vấn
đề đặt ra đối với Việt Nam của Ban Khoa giáo Trung ương, Bộ KHCN và
Môi trường và Bộ Ngoại giao, Lưu hành nội bộ, Hà Nội, năm 2002; Ứng
dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH của Ban Tư tưởng
văn hóa Trung ương và Ban Khoa giáo Trung ương, NXB. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, năm 2001; Chủ nghĩa tư bản và thời đại thông tin của Bộ KHCN
và Môi trường, Lưu hành nội bộ, Hà Nội, năm 2001; CNTT Hà Nội cất cánh
của Hội Tin học Việt Nam, tạp chí Tin học và Đời sống, (số 3, 5, 6, 9, 11);
Thương mại Điện tử, tác giả Vũ Ngọc Cừ, Trịnh Thanh Lâm, NXB. Giao

triển KT-XH của tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Với các lý do đã trình bày ở trên, nNgoài phần mở đầu, kết luận, luận văn
được kết cấu làm 03 chương, 09 tiết.
Chương 1IChương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ỨNG DỤNG
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
1.1.1. Khái niệm về công nghệ thông tin
CNTT ngày nay đã và đang tạo đà cho những thay đổi cơ bản trong công
tác quản lý và các hoạt động sản xuất kinh doanh ở khu vực công và khu vực
tư trên phạm vi toàn cầu.
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về CNTT, sau đây chúng ta sẽ lần
lượt tìm hiểu một số khái niệm về CNTT có tính chất phổ biến.
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia (địa chỉ trên mạng Internet:
/>%C3%B4ng_tin) thì CNTT là công nghệ ứng dụng cho việc xử lý thông tin.
Theo GS. Liest Eathington và GS. Dave Swanson, Khoa Kinh tế học,
Đại học Iowa, Hoa Kỳ, thì CNTT là một chuỗi sản phẩm và dịch vụ mà thông
qua đó, việc biến đổi số liệu thành thông tin có thể tiếp cận được và trở nên có
ích. Sản phẩm và dịch vụ CNTT này bảo đảm cho doanh nghiệp, các tổ chức
và cá nhân có thể kiểm soát được các giao dịch kinh doanh hiệu quả hơn và
nhanh hơn [30, tr.1].
Theo GS. Phan Đình Diệu, “CNTT là ngành công nghệ về xử lý thông tin
bằng các phương tiện điện tử, trong đó nội dung xử lý thông tin bao gồm các
khâu cơ bản như thu thập, lưu trữ, chế biến và truyền nhận thông tin” [17, tr.7].
PGS. Hàn Viết Thuận cho rằng: “CNTT là sự kết hợp của công nghệ
máy tính với công nghệ liên lạc viễn thông được thực hiện trên cơ sở công
nghệ vi điện tử” [43, tr.16].
Dự thảo lần thứ 15 Luật CNTT đã được chỉnh lý theo ý kiến của các vị

Ngày nay, CNTT đã tác động mạnh mẽ đến tất các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Ứng dụng CNTT trở nên phổ biến trong tất cả các lĩnh vực công
nghiệp, nông nghiệp và các dịch vụ quan trọng trong đời sống hiện đại của
con người như: quản lý công, quản lý sản xuất kinh doanh, đến việc ứng dụng
trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật, các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm,

1.1.2.3. Công nghệ thông tin là một công nghệ có nhiều tầng lớp
CNTT có nhiều tầng lớp và tầng lớp trên lại được xây dựng dựa trên các
tầng lớp dưới. Cụ thể CNTT gồm có các tầng lớp sau.
- Các chương trình ứng dụng riêng cho từng cơ quan, đơn vị. Đây có thể
là chương trình ứng dụng được thành lập từ một ngôn ngữ lập trình, dựa trên
hệ quản trị cơ sở dữ liệu (CSDL). Tầng lớp trên cùng này thường được thiết
kế tại chỗ hoặc được đặt gia công bên ngoài.
- Các chương trình ứng dụng và hệ phần mềm cơ bản. Đây là phần phức
tạp nhất, bao gồm các chương trình cơ bản sau.
i) Các chương trình ứng dụng tổng quát, chuyên cho quản lý, xử lý văn
bản, tính toán công nghiệp hay tính toán khoa học mà người sử dụng cuối
cùng có thể viết những ứng dụng dễ dàng hay cũng có thể sử dụng ngay mà
không cần viết thêm chương trình.
ii) Các chương trình “phần mềm trung gian”, cho phép các chương trình
ứng dụng phân tán sử dụng tới mạng thông tin, thông qua hệ điều hành mạng.
Đây là những chương trình có vai trò ứng dụng quan trọng nhất vào lĩnh vực
quản lý hiện nay.
iii) Các chương trình gắn liền với một sản phẩm đặc biệt nào đó, với
những giao diện sử dụng đặc biệt trực tiếp với người tiêu dùng như máy nghe
nhạc, ti vi, máy giặt, máy bay… Các chương trình này thường do những hãng
làm sản phẩm tự viết ra hoặc đặt gia công tại các công ty chuyên phát triển
phần mềm.
- Hệ điều hành và hệ điều hành mạng là môi trường thiết yếu cho các
ứng dụng hoạt động.

Các doanh nghiệp về CNTT tham gia đầu tư, cung cấp sản phẩm, dịch
vụ, phát triển thị trường và cùng tham gia với Chính phủ trong các hoạt động
đào tạo, phổ biến kiến thức, kỹ thuật, công nghệ, xây dựng và thực hiện các
chính sách phát triển CNTT.
Người sử dụng là các tổ chức, nhân dân - với tư cách là những đơn vị, cá
nhân sử dụng các sản phẩm và dịch vụ CNTT. Người sử dụng gián tiếp đầu tư
vào CNTT thông qua thị trường và cùng với các doanh nghiệp CNTT thiết kế,
cải tiến các sản phẩm và dịch vụ CNTT, tham gia cùng với Chính phủ trong
các hoạt động xây dựng và thực hiện các chính sách phát triển CNTT.
Ba chủ thể này luôn gắn bó, phối hợp chặt chẽ với nhau, có quan hệ hữu
cơ trong một môi trường phát triển thống nhất bao gồm: hệ thống pháp lý,
chính sách về CNTT, môi trường đầu tư cho CNTT và thị trường CNTT
(Xem sơ đồ minh họa).
Mô hình “Bốn thành phần, ba chủ thể”

(Nguồn: Viện Chiến lược BCVT và CNTT, 2005).
Theo các chiến lược, kế hoạch, chương trình ứng dụng và phát triển
CNTT quốc gia thì đến năm 2020, với CNTT làm nòng cốt, Việt Nam sẽ
chuyển đổi cơ cấu KT-XH, cơ bản trở thành một nước công nghiệp và là một
trong những nước có trình độ tiên tiến về phát triển xã hội thông tin trong khu
vực ASEAN.
Đến năm 2010, trên cơ sở phát triển và ứng dụng mạnh mẽ CNTT, Việt
Nam đạt trình độ trung bình khá trong khu vực ASEAN về xã hội thông tin.
Theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 246/2005/QĐ-TTg ngày
ngày 06/10/2005 phê duyệt chiến lược phát triển công nghệ thông tin và
truyền thông Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, Quyết
định số 32/2006/QĐ-TTg ngày 07/02/2006 phê duyệt quy hoạch phát triển
viễn thông và Internet Việt Nam đến năm 2010, thì cấu trúc của ngành CNTT
của Việt Nam bao gồm một số nội dung chủ yếu sau.
1.1.3.1. Ứng dụng công nghệ thông tin

CNTT - TT trong những ngành dịch vụ kinh tế có tính hội nhập cao như viễn
thông, ngân hàng, hải quan, hàng không, du lịch, thuế,... bảo đảm năng lực
quản lý và chất lượng dịch vụ của các ngành này đạt trình độ tiên tiến trong
khu vực. 50-70% doanh nghiệp ứng dụng CNTT vào các hoạt động quản lý,
điều hành, quảng bá thương hiệu, tiếp thị, mở rộng thị trường, giám sát, tự
động hoá các quy trình sản xuất, thiết kế, kiểm tra, đánh giá chất lượng sản
phẩm… Hơn 50% doanh nghiệp tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh thực
hiện báo cáo thống kê, khai báo thuế, đăng ký và được cấp phép kinh doanh
qua mạng. Trên 40% doanh nghiệp khai báo, đăng ký và được cấp phép hải
quan qua mạng [41, tr.3].
Thứ tư, phát triển giao dịch và thực hiện TMĐT: hình thành và thúc đẩy
phát triển môi trường giao dịch và TMĐT. Hình thành các sàn giao dịch
TMĐT, mạng giá trị gia tăng, hệ thống quản lý dây chuyền cung ứng thông
tin. Bảo đảm 25-30% tổng số giao dịch của các ngành kinh tế được thực hiện
thông qua hệ thống giao dịch và TMĐT. Giao dịch và TMĐT đến 2010 có trị
giá tăng gấp 10 lần so với năm 2002 [41, tr.4].
1.1.3.2. Phát triển hạ tầng công nghệ thông tin
Xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin và truyền thông đáp ứng yêu cầu trao
đổi thông tin của toàn xã hội. Cơ sở hạ tầng viễn thông và Internet Việt Nam
đi thẳng vào công nghệ hiện đại, phát triển nhanh, đa dạng hoá, cung cấp cho
người sử dụng các dịch vụ chất lượng cao, bảo đảm an toàn thông tin, bảo
mật, giá cước thấp hơn hoặc tương đương mức bình quân của các nước trong
khu vực ASEAN+3. Tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia cung
cấp dịch vụ viễn thông và Internet. Hỗ trợ để các doanh nghiệp mới chiếm
40-50% thị phần dịch vụ viễn thông và Internet vào năm 2010 [41, tr.4].
Tất cả các bộ, ngành, cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền cấp tỉnh
và huyện được kết nối Internet băng rộng và kết nối với mạng diện rộng của
Chính phủ. 100% số xã trên toàn quốc có điện thoại; 100% các điểm bưu điện
văn hoá xã và các trung tâm giáo dục cộng đồng được kết nối Internet; 100%
số huyện và nhiều xã trong cả nước được phục vụ dịch vụ băng rộng với giá

điện tử, máy tính và viễn thông, sản xuất một số chủng loại linh, phụ kiện và
thiết kế chế tạo thiết bị mới. Công nghiệp phần cứng máy tính có tốc độ tăng
trưởng bình quân 20% một năm, đến năm 2010 đạt tổng doanh thu khoảng 3 tỷ
USD. Công nghiệp sản xuất thiết bị viễn thông có tốc độ tăng trưởng bình quân
22% một năm, đến năm 2010 đạt tổng doanh thu khoảng 700 triệu USD. Công
nghiệp điện tử (dân dụng và công nghiệp) có tốc độ tăng trưởng bình quân 22%
một năm, đến năm 2010 đạt tổng doanh thu khoảng 2 tỷ USD. Máy tính cá
nhân, điện thoại di động và phần mềm mang thương hiệu Việt Nam chiếm lĩnh
được tối đa thị phần trong nước và xuất khẩu không ít hơn 1 tỷ USD [41, tr.4].
1.1.3.5. Hoàn thiện môi trường pháp lý
Bộ Bưu chính, Viễn thông được giao nhiệm vụ QLNN về ứng dụng
CNTT, tiến hành việc rà soát, nghiên cứu hệ thống văn bản qui phạm pháp
luật đã ban hành để có định hướng xây dựng, sửa đổi cho phù hợp với tình
hình hiện nay. Đồng thời, việc hoàn thiện các thể chế, pháp lí và chính sách
tạo môi trường thúc đẩy ứng dụng CNTT, phát triển hạ tầng CNTT, phát triển
nguồn nhân lực CNTT, tạo thuận lợi cho đầu tư và phát triển công nghiệp
CNTT cũng được triển khai hết sức khẩn trương. Các cơ quan có thẩm quyền
đang tích cực hoàn thiện dự thảo Luật CNTT để trình Quốc hội xem xét,
thông qua theo chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội; các văn
bản hướng dẫn thực hiện Luật Giao dịch điện tử đang được Chính phủ và các
bộ, ngành có liên quan xem xét, ban hành.
Trong thời gian tới, sau khi Luật Giao dịch điện tử, Luật CNTT và các
văn bản hướng dẫn triển khai thực hiện hai luật này được ban hành thì nhiều
công việc quan trọng khác cũng sẽ được tiến hành như: xây dựng hệ thống
chuẩn thông tin và CNTT quốc gia; thể chế, cơ chế quản lý, điều hành ứng
dụng và phát triển CNTT; xây dựng và cập nhật thông tin cho hệ thống thông
tin, thống kê về CNTT và xây dựng các tiền đề, môi trường văn hoá phù hợp
với xã hội thông tin và kinh tế tri thức.
1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ ĐIỀU KIỆN ỨNG DỤNG CÔNG
NGHỆ THÔNG TIN

trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, số liệu sau đây chỉ nêu một số chỉ số
ấn tượng nhất.
- Hiệu suất/1USD: năm 2000/1980 66.000 lần; năm 2010/1975 10 triệu lần.
- Tháng 10/1990 mới có 300.000 máy tính kết nối Internet; đến tháng
01/2003 đã có 11 triệu máy chủ kết nối Internet.
- Trước đây cần 100 năm để đạt được 1 tỷ người sử dụng điện thoại;
ngày nay với Internet chỉ cần 20 năm đã đạt được 2 tỷ người (năm 2005) sử
dụng Internet [7].
- Ứng dụng công nghệ thông tin biến đổi cách thức giao tiếp
Nhờ có ứng dụng CNTT, một tỷ người trên thế giới có thể truy cập
Internet cùng một lúc và tham gia vào những cuộc gặp gỡ điện tử theo thời
gian thực, có thể tiếp nhận tin tức hàng ngày, tiến hành các giao dịch thương
mại hoặc trò truyện với bạn bè, người thân trên khắp thế giới. Việc giao tiếp
cá nhân và giao tiếp công vụ ngày nay có thể được thực hiện trong môi trường
mạng, không cần gặp mặt. Các phương tiện giao tiếp mới của CNTT còn làm
cho các phương tiện giao tiếp cũ trở nên lạc hậu, kém hiệu quả. Văn hóa giao
tiếp rốt cuộc cũng bị thay đổi rất nhiều. Tuy nhiên, việc phát triển mạng ở quy
mô toàn cầu sẽ đụng chạm đến các mối quan hệ quốc tế khi dòng thông tin vô
hình chảy xuyên biên giới và các công ty đa quốc gia sử dụng mạng toàn cầu
vào mục đích riêng. Vấn đề lớn nhất cho mọi thành viên trong xã hội là hiểu
được mình sử dụng các thành tựu tiên tiến của truyền thông điện tử hiện đại
trong giao tiếp như thế nào. Các vấn đề về bí mật đời riêng, bảo mật gặp
những thách thức lớn về kỹ thuật và xã hội.
- Ứng dụng công nghệ thông tin biến đổi cách thức sử dụng thông tin
Nhờ có ứng dụng CNTT mà ngày nay bất kỳ ai cũng có thể tiếp cận, yêu
cầu hoặc sao chép mọi cuốn sách, tạp chí, băng video, dữ liệu hoặc tài liệu
tham khảo bằng bất kỳ ngôn ngữ nào. Nhờ có công cụ phần mềm, người ta có
thể lựa chọn phương thức trình bày theo ý mình: số liệu, văn bản, hình ảnh,
âm thanh,… làm tăng thêm giá trị và hiểu biết của mỗi cá nhân. Tuy nhiên,
chính do điểm này của ứng dụng CNTT mà vấn đề tôn trọng sở hữu trí tuệ,

và yêu cầu về hội nhập khu vực và quốc tế, vai trò động lực và tiềm năng to
lớn của CNTT chưa được phát huy mạnh mẽ; việc phát triển nguồn nhân lực
CNTT chưa được chuẩn bị kịp thời cả về số lượng và chất lượng, về chuyên
môn cũng như về ngoại ngữ; viễn thông và Internet cũng chưa thuận lợi, chưa
đáp ứng các yêu cầu về tốc độ, chất lượng và giá cước cho ứng dụng và phát
triển CNTT; đầu tư cho CNTT chưa đủ mức cần thiết; QLNN về lĩnh vực này
vẫn phân tán và chưa hiệu quả, ứng dụng CNTT ở một số nơi còn hình thức,
chưa thiết thực và còn lãng phí.
Để khắc phục những hạn chế trên và tạo điều kiện ứng dụng CNTT một
cách có hiệu quả, cần hoàn thiện một số điều kiện cơ bản sau: xây dựng và
ban hành cơ chế, chính sách cho lĩnh vực CNTT; tạo dựng cơ sở hạ tầng cho
lĩnh vực CNTT; đào tạo đội ngũ nhân lực cho lĩnh vực CNTT. Sau đây sẽ
phân tích từng điều kiện.
- Điều kiện về cơ chế chính sách của Đảng và Nhà nước
Để đẩy nhanh việc ứng dụng CNTT, Đảng và Nhà nước đã ban hành
nhiều chính sách tạo điều kiện cho CNTT phát triển trong mọi ngành nghề và
mọi lĩnh vực. Tuy nhiên, để quá trình này diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ
hơn, Nhà nước cần có cơ chế, chính sách cởi mở hơn, khuyến khích hơn, tạo
điều kiện thuận lợi hơn nữa cho ứng dụng CNTT. Cụ thể:
Thực hiện các chính sách mạnh mẽ đối với CNTT; rà soát và tháo gỡ
mọi rào cản không phù hợp để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho ứng dụng và
phát triển CNTT trên cơ sở từng bước hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật.
Áp dụng mức ưu đãi hiện hành cao nhất, từng bước đạt mức ưu đãi bằng
hoặc cao hơn so với các nước trong khu vực cho các hoạt động của lĩnh vực
ứng dụng và phát triển CNTT.
Có biện pháp chủ động bảo mật thông tin, trước hết trong lĩnh vực
QLNN, an ninh, quốc phòng, trên cơ sở đó, tự do hóa các kênh của CNTT
để người dân có cơ hội tiếp cận nhanh chóng, đầy đủ nguồn thông tin của
thế giới.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status