Một số giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo ngành ở thành phố Hà Đông - Pdf 12

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
LỜI NÓI ĐẦU
Công nghiệp hoá – hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một chủ trương lớn
của Đảng nhằm đưa nông nghiệp và nông thôn nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo
nàn, lạc hậu và phát triển lên một trình độ mới.
Hà Đông là thành phố thuộc tỉnh Hà Tây có tốc độ phát triển kinh tế tương đối
cao, với nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân trên 10-11%. GDP bình quân đầu người
năm 2007 đạt 1715 USD. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch rõ nét theo hướng tiến bộ
giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng các ngành thuỷ sản, công nghiệp-xây
dựng và thương mại- dịch vụ
Đối với ngành nông nghiệp của thành phố Hà Đông, tốc độ tăng trưởng bình
quân hàng năm đạt 5-6%. Mặc dù ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng không cao trong
cơ cấu GDP nhưng lại là nguồn thu nhập chính của khoảng 50,4% dân số của thành
phố. Điều này cho thấy tầm quan trọng của ngành nông nghiệp trong phát triển kinh
tế, ổn định xã hội, trong việc cung cấp lương thực, thực phẩm cho nhu cầu của dân cư
và phát triển các loại sản phẩm hàng hoá có giá trị kinh tế cao.
Thành phố Hà Đông nằm ngay sát thủ đô Hà Nội, với diện tích đất nông
nghiệp ngày càng bị thu hẹp do quá trình phát triển đô thị vì vậy việc nâng cao hiệu
quả sử dụng đất thông qua chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp là một giải
pháp phù hợp với chính sách chủ trương của tỉnh cũng như của thành phố
Do vậy việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo ngành nhằm nâng cao
hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập cho người nông dân và phục vụ nhu cầu của thị
trường là một xu hướng tất yếu cho các vùng ven đô.
Mặt khác nhu cầu thị trường hiện nay đòi hỏi cần có nhiều sản phẩm có chất
lượng cao và an toàn như rau sạch, thịt sạch, quả sạch, lương thực sạch, các sản phẩm
có giá trị đặc sản, có tính thương mại cao như ba ba, ếch, vịt cỏ Vân Đình và các sản
phẩm phục vụ nhu cầu tinh thần như hoa, cây cảnh, đáp ứng tốt những nhu cầu thị
trường đó là mục tiêu của ngành nông nghiệp nói chung và của ngành nông nghiệp
thành phố Hà Đông nói riêng.
Vũ Thị Lụa Lớp NN K46B
1

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CƠ CẤU KINH TẾ VÀ CHUYỂN DỊCH
CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH NÔNG NGHIỆP
1.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH NÔNG NGHIỆP
1.1.1. Bản chất cơ cấu kinh tế nông nghiệp

Cơ cấu kinh tế” là một phạm trù biểu thị cấu trúc bên trong của mối liên kết
giữa các bộ phận hợp thành nền kinh tế. Nội dung cơ cấu kinh tế phản ánh vai trò vị
trí của từng bộ phận hợp thành nền kinh tế và mối tương tác lẫn nhau giữa chúng
trong tổng thể. Các bộ phận này có những mối liên hệ được hình thành trong những
điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Do đó, chúng không phải là bất biến mà chúng
luôn vận động, luôn thay đổi để phù hợp với những điều kiện nhất định.Cơ cấu kinh
tế biểu hiện dưới nhiều dạng khác nhau như: cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng kinh
tế, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu khu vực thể chế… Trong đó, cơ cấu ngành là
quan trọng nhất vì nó phản ánh sự phát triển của phân công lao động xã hội và sự
phát triển của lực lượng sản xuất.
Nếu phân theo cơ cấu ngành thì toàn bộ nền kinh tế quốc dân được chia ra làm
3 nhóm ngành (hay 3 khu vực) kinh tế lớn là: Khu vực I là ngành nông nghiệp (gồm
nông – lâm – thủy sản); Khu vực II là ngành công nghiệp và xây dựng cơ bản; Khu
vực III là ngành thương mại – dịch vụ.Trong đó, cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp là
một bộ phận cấu thành rất quan trọng trong cơ cấu kinh tế quốc dân, có ý nghĩa hết
sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Kinh tế nông nghiệp là một ngành kinh tế quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân. Kinh tế nông nghiệp cùng với kinh tế nông thôn tạo thành khu vực sản xuất cung
cấp lương thực thực phẩm cho toàn xã hội tồn tại và phát triển. Nó còn cung cấp ngày
càng nhiều các nguyên liệu cho công nghiệp chế biển, cung cấp nguồn lao động cho
khu vực thành thị. Cùng với khu vực nông thôn là thị trường rộng lớn để tiêu thụ sản
phẩm công nghiệp bao gồm cả tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Trong giai đoạn
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay do phát huy được lợi thế so sánh
tuyệt đối và tương đối có thể khai thác nguồn lợi nông -lâm -thuỷ sản làm tăng kim
ngạch xuất khẩu, tăng thêm nguồn tích luỹ cho đất nước góp phần phát triển kinh tế

kinh tế giữa các ngành trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ trong nông nghiệp và cơ cấu
kinh tế trong nội bộ các ngành đó.
Vũ Thị Lụa Lớp NN K46B
4
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Việc xác lập cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lý là một vấn đề cơ bản và rất
quan trọng để phát triển kinh tế xã hội trong nông nghiệp nói riêng và khu vực kinh tế
nông thôn nói chung. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp luôn tồn tại và vận động không
ngừng phát triển luôn gắn liền với tổng thể các mối quan hệ kinh tế nhất định. Các bộ
phận cấu thành của nó có mối quan hệ chặt chẽ tạo những tỷ lệ nhất định kể cả lượng
và chất giữa các ngành, giữa các vùng và các thành phần kinh tế.
Hiện nay cơ cấu kinh tế nông nghiệp đang dần chuyển dịch theo hướng tích
cực, việc thay đổi tỷ lệ của các ngành, các mối quan hệ của hệ thống kinh tế nông
nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, tạo sự giao lưu kinh tế giữa các vùng, tăng thu
nhập và nâng cao đời sống cho người dân góp phần xứng đáng vào phát triển nông
nghiệp nông thôn và sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
1.1.2. Đặc trưng của cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Từ bản chất của cơ cấu kinh tế nông nghiệp có thể rút ra một số đặc trưng chủ yếu
của cơ cấu kinh tế nông nghiệp như sau:
1.1.2.1 Cơ cấu kinh tế nông nghiệp mang tính khách quan và được hình thành trên
cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội chi phối.
Thật vậy, ở một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất và phân
công lao động xã hội thì tất sẽ phải có một cơ cấu kinh tế cụ thể để thích ứng với nó.
Như vậy việc xác lập cơ cấu kinh tế nông nghiệp cần phải tôn trọng tính khách quan
của nó và không thể áp đặt một cách chủ quan duy ý chí. Trong quá trình phát triển
của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội tự các mối quan hệ kinh tế đã có
thể xác lập những tỷ lệ nhất định mà người ta gọi là cơ cấu.
1.1.2.2 Cơ cấu kinh tế nông nghiệp mang tính lịch sử và xã hội nhất định.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp như đã được nói tới nó là một tổng thể các mối quan
hệ kinh tế được xác lập theo những tỷ lệ nhất định về mặt lượng trong thời gian cụ

cấu kinh tế nông nghiệp sẽ vận động và chuyển hoá từ cơ cấu cũ sang cơ cấu kinh tế
mới đòi hỏi phải có thời gian và qua các nấc thang nhất định của sự phát triển. Đầu
tiên là biến đổi về lượng và khi lượng được tích luỹ đến độ nhất định sẽ dẫn đến sự
chuyển đổi về chất. Đó là quá trình chuyển hoá cơ cấu kinh tế cũ sang một cơ cấu
kinh tế mới một cách phù hợp và có hiệu quả hơn.
Vũ Thị Lụa Lớp NN K46B
6
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Tất nhiên quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh hay chậm còn phụ thuộc
vào rất nhiều yếu tố, trong đó sự tác động của con người có ý nghĩa vô cùng quan
trọng. Đặc biệt cần phải có những giải pháp chính sách và cơ chế quản lý thích hợp
để định hướng cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng và
chuyển dịch kinh tế nông thôn nói riêng. Tất cả sự nóng vội sẽ dẫn tới sự trì trệ trong
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp gây phương hại đến sự phát triển
của nền kinh tế quốc dân nói chung. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải
là một quá trình không thể khác được nhưng không phải là một quá trình tự do của
con người. Nhưng vấn đề quan trọng là phải bắt nguồn từ đâu và với những biện
pháp nào mà khi tác động vào nó sẽ gây phản ứng dây truyền tạo ra bước phát triển
nói nên tổng thể kinh tế nông nghiệp nói riêng và nền kinh tế quốc dân nói chung.
1.1.2.5 Cơ cấu kinh tế nông nghiệp được hình thành và phát triển trên cơ sở của
điều kiện tự nhiên và mức độ khai thác cải tạo điều kiện tự nhiên ( đất đai, thời
tiết, khí hậu).
Thật vậy, sản xuất nông nghiệp luôn gắn liền với điều kiện tự nhiên vì vậy cơ
cấu kinh tế nông nghiệp chịu ảnh hưởng rất nhiều của điều kiện tự nhiên. Một nền
nông nghiệp hay, một cơ cấu kinh tế nông nghiệp hiệu quả là phải đạt năng suất cây
trồng, vật nuôi cao với chi phí ít trên một đơn vị. Muốn vậy phải lợi dụng tối đa các
yếu tố của điều kiện tự nhiên tham gia vào quá trình sản xuất. Cơ cấu kinh tế nông
nghiệp chuyển dịch theo xu hướng ngày càng lợi dụng được điều kiện tự nhiên có lợi
nhất.
1.1.2.6 Cơ cấu kinh tế nông nghiệp hình thành và biến đổi gắn liền với sự ra đời

nghiệp hay giữa các nhóm ngành trồng cây lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả,
cây thực phẩm...trong ngành trồng trọt. Do vậy cần phân biệt sự khác nhau giữa
chuyển dịch cơ cấu ngành và trong nội bộ ngành, phân biệt theo đặc trưng kinh tế kỹ
thuật của chúng để tạo ra hệ thống phân công lao động cho phù hợp, hướng tới xây
dựng một cơ cấu ngành đa dạng, hợp lý phát triển các ngành có nhiều lợi thế theo
hướng phục vụ nhu cầu thị trường, đồng thời kết hợp tối ưu giữa cơ cấu ngành với cơ
cấu vùng lãnh thổ và cơ cấu các thành phần kinh tế.
1.1.3.2 Cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo vùng lãnh thổ
Vũ Thị Lụa Lớp NN K46B
8
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Sự phân công lao động theo ngành kéo theo sự phân công lao động theo lãnh thổ
đó là hai mặt của một quá trình gắn bó hữu cơ với nhau. Sự phân công lao động theo
ngành bao giờ cũng diễn ra trên những vùng lãnh thổ nhất định, nghĩa là cơ cấu vùng
lãnh thổ chính là việc bố trí các ngành trong sản xuất nông nghiệp theo không gian cụ
thể nhằm khai thác mọi ưu thế tiềm năng to lớn. Ở đây, xu hướng chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp theo vùng lãnh thổ đi vào chuyên môn hoá và tập trung hoá hình
thành những vùng sản xuất lớn tập trung có hiệu quả cao mở với các vùng chuyên
môn hoá khác, gắn cơ cấu của từng khu vực với cơ cấu kinh tế của cả nước. Trong
từng vùng lãnh thổ coi trọng chuyên môn hoá kết hợp với phát triển tổng hợp đa
dạng.
Để hình thành cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo vùng lãnh thổ hợp lý thì cần bố trí
các ngành trên vùng lãnh thổ hợp lý, để khai thác đầy đủ tiềm năng của từng vùng.
Đặc biệt cần bố trí các ngành chuyên môn hoá dựa trên những lợi thế so sánh từng
vùng đó là những vùng có đất đai tốt, khí hậu thuận lợi, đường giao thông lớn và các
khu công nghiệp đô thị.
So với cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo ngành thì cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo
vùng lãnh thổ có sức ì hơn, chậm chuyển dịch vì thế khi bố trí các vùng chuyên môn
hoá cần được xem xét cụ thể thận trọng nếu phạm sai lầm khó khắc phục, bị tổn thất
rất lớn.

con người ngày càng được nâng cao thì nhu cầu của con người về lương thực, thực
phẩm cũng ngày càng tăng cả về số lượng, chất lượng và chủng loại. Mà lương thực,
thực phẩm là sản phẩm chỉ có ngành nông nghiệp sản xuất ra. Con người có thể sống
mà không cần sắt, thép, than, điện.. nhưng không thể thiếu lương thực. Hơn nữa,
không có sản phẩm của các ngành sản xuất nào có thể thay thế được nhiều loại sản
phẩm của nông nghiệp. Do vậy, một cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp hợp lý có ý
nghĩa quan trọng với nền kinh tế quốc dân.
Cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp hợp lý là cơ cấu cho phép khai thác và phát
huy tốt nhất, đạt hiệu quả cao nhất những nguồn lực để sản xuất nông nghiệp nhằm
đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng, tạo ra nhiều sản phẩm, đáp ứng nhu cầu
đời sống vật chất không ngừng tăng lên của con người.
Cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp hợp lý được xem xét trên các tiêu chí sau:
Vũ Thị Lụa Lớp NN K46B
10
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Thứ nhất, phải phù hợp với các quy luật khách quan, phù hợp với xu thế kinh
tế, chính trị của khu vực và thế giới.
Thứ hai, phản ánh khả năng khai thác và sử dụng nguồn lực kinh tế trong
nước và đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực và thế giới.
Do đó, một cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp hợp lý sẽ tạo điều kiện để phát
triển một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa đa dạng, sức cạnh tranh cao, phát huy
được lợi thế so sánh, đồng thời áp dụng được tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất
tạo ra sản phẩm nông sản có chất lượng cao, tạo công ăn việc làm, ổn định kinh tế,
chính trị, nâng cao đời sống của nông dân, tạo điều kiện hoàn thành mục tiêu công
nghiệp hoá – hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn của đất nước, nhất là hiện nay
chúng ta đang trong quá trình hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới.
1.2. CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
1.2.1.Khái niệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một quá trình làm thay đổi cấu trúc
và mối liên hệ của các bộ phận cấu thành kinh tế nông nghiệp theo mục đích và

1.2.2.1 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhằm phát triển một nền nông
nghiệp toàn diện đáp ứng yêu cầu về nông sản phẩm của xã hội.
Qúa trình chuyển đổi nền kinh tế đát nước sang kinh tế thị trường, sự phát
triển của nền kinh tế nông nghiệp nói riêng hay kinh tế nông thôn nói chung đang
đứng trước những thách thức của sự phát triển đó.
Trong nền kinh tế thị trường, thị trường luôn là yếu tố quyết định cho sự phát
triển kinh tế và đặc biệt nó ảnh hưởng quyết định đến việc hình thành và biển đổi cơ
cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng. Xã hội ngày càng phát
triển nhu cầu của con người về nông sản phẩm cũng theo đó mà tăng lên cả về số
lượng và chất lượng, chủng loại. Đó là đòi hỏi của thị trường mà yêu cầu người sản
xuất phải đáp ứng.
Để sản xuất nông nghiệp đáp ứng yêu cầu của thị trường và nhu cầu của người
tiê dùng đòi hỏi phải đa dạng hoá sản phẩm và dịch vụ nông nghiệp. Muốn vậy,
không thể dừng lại ở cơ cấu nông nghiệp truyền thống mà phải chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp đáp ứng yêu cầu và tác động của thị trường.
Vũ Thị Lụa Lớp NN K46B
12
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Qúa trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp mang lại lợi ích kinh tế
ngày càng cao cho hộ nông dân là nguyện vọng thiết thực, mặt khác với nhu cầu ngày
càng cao của người tiêu dùng về nông sản hàng hoá, thì chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp nhằm phát triển nền kinh tế cải thiện đời sống của nhân dân.
1.2.2.2 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là yêu cầu xây dựng một nền nông
nghiệp CNH, HĐH.
Đại hội Đảng làn thứ VIII đã khẳng định nước ta muốn phát triển nhất thiết
phải thực hiện công cuộc hiện đại hoá. Đại hội nhấn mạnh nội dung cơ bản của CNH,
HĐH giai đoạn hiện nay là; đặc biệt coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Phải chăng đó là mũi đột phá quan trọng nhằm giải phóng sức lao động trong nông
nghiệp hiện chiếm khoảng 70% lao động cả nước, tạo điều kiện khai thác tốt tiềm
năng dồi dào về lao động, đất đai.

với cấu trúc đa dạng và năng động. Tốc độ tăng giá trị sản lượng tuy cao nhưng chưa
có bước tiến mạnh mẽ về chuyển đổi cơ cấu nhất là chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật
nuôi. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong thời gian tới là: Đổi
mới cơ cấu giữa các ngành trong toàn ngành và đổi mới trong nội bộ từng ngành.
Trồng trọt và chăn nuôi là hai ngành chính của nông nghiệp, trong nhiều năm
giữa 2 ngành này mất cân đối nghiêm trọng, tỷ trọng của ngành trồng trọt luôn chiếm
ưu thế, chăn nuôi chưa được chú trọng phát triển. Hướng tới đẩy mạnh phát triển
chăn nuôi, đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính, có vị trí tương xứng với
ngành trồng trọt góp phần nâng cao tỷ trọng giá trị sản xuất của ngành này.
Ngay trong ngành chăn nuôi cần thiết phải đa dạng hoá, coi trọng phát triển đàn
gia súc nhằm cung cấp thịt, sữa cho toàn nền kinh tế. Phải đổi mới cơ cấu chăn nuôi hợp
lý, tăng nhanh tỷ trọng thịt trâu, bò và gia cầm bằng cách phát triển mạnh đàn bò thịt,
phát triển mạnh đàn gia cầm gồm gà, vịt, ngan, ngỗng trong đó coi trọng đàn gà, vịt. Phát
triển mạnh đàn lợn hướng nạc, nâng tỷ lệ nạc trong thịt lợn lên 40-50%.
Trong ngành trồng trọt, tiến hành đa dạng hoá sản xuất, giảm tỷ trọng giá trị
sản xuất lương thực, tuy vậy vẫn phải đảm bảo được an ninh lương thực bằng nhiều
biện pháp tăng năng suất, sản lượng lương thực như thâm canh, khai hoang, tăng vụ,
đưa các tiến bộ kho học kỹ thuật mới vào sản xuất. Thực hiện việc chuyển đổi cơ cấu
Vũ Thị Lụa Lớp NN K46B
14
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
cây trồng theo hướng đa dạng hoá, chú trọng phát triển những cây có giá trị kinh tế
cao như cây công nghiệp lâu năm, cây ăn quả, cây hoa, cây cảnh.
Phát triển nhanh ngành thuỷ sản bao gồm cả nuôi trồng, khai thác và chế biến
để nâng cao tỷ trọng giá trị ngành thuỷ sản, khai thác lợi thế của từng vùng. Khai
thác, sử dụng có hiệu quả mặt nước, kể cả chuyển một phần đất sản xuất nông nghiệp
hiệu quả thấp sang nuôi trồng thuỷ sản. Phát triển mạnh nuôi ở biển, nuôi nước lợ,
nước ngọt tăng sản lượng nuôi trồng tương đương sản lượng khai thác.
Đẩy mạnh phát triển ngành lâm nghiệp bao gồm cảc trồng rừng, khai thác và
chế biến. Đặc biệt phục vụ nhu cầu sản xuất giấy và chế biến gỗ góp phần giữ vững

kinh tế nông nghiệp như: Nhịp độ tăng trưởng kinh tế, phúc lợi xã hội (y tế, giáo dục,
đời sống của cộng đồng dân cư...).
Các chỉ tiêu trên có thể phản ánh cơ cấu kinh tế và hiệu quả của chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong cả nước, từng vùng lãnh thổ và các thành phần kinh
tế. Tuỳ thuộc từng phạm vi nghiên cứu mà sử dụng các chỉ tiêu, phương pháp cho
thích hợp.
1.3.NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI SỰ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH
TẾ NÔNG NGHIỆP
Nông nghiệp có cơ cấu nội tại phức tạp, cơ cấu ấy được biểu hiện ở các bộ
phận cấu thành hệ thống nông nghiệp và mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận ấy.
Sự hình thành và vận động của cơ cấu nông nghiệp phụ thuộc vào nhiều nhân tố
nhưng nhìn chung có 3 nhóm nhân tố ảnh hưởng chủ yếu sau:
1.3.1.Nhóm nhân tố về điều kiên tự nhiên
Nhóm này gồm: Vị trí địa lý của vùng lãnh thổ, điều kiện đất đai của các vùng: Điều
kiện khí hậu, thời tiết, các nguồn tài nguyên khác của vùng lãnh thổ như: Nguồn
nước, rừng, biển...Các nhân tố tự nhiên trên tác động một cách trực tiếp tới sự hình
thành, vận động và biển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Tuy nhiên sự tác động và
ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên tới mỗi nội dung của cơ cấu kinh tế là không giống
nhau. Trong các nội dung của cơ cấu kinh tế nông nghiệp thì cơ cấu ngành, cơ cấu
vùng lãnh thổ chịu sự ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên nhiều nhất còn cơ cấu các
thành phần kinh tế và cơ cấu kỹ thuật chịu ảnh hưởng ít hơn. Trong các điều kiện tự
nhiên nêu trên các điều kiện tự nhiên về đất đai khí hậu, vị trí địa lý có ảnh hưởng rất
Vũ Thị Lụa Lớp NN K46B
16
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
rõ rệt tới sự phát triển của nông nghiệp (theo nghĩa rộng gồm cả nông, lâm, ngư
nghiêp) qua nông nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến các ngành khác.
Đất đai là cơ sở tự nhiên, là tiền đề đầu tiên của mọi quá trình sản xuất nhất là
đối với nông nghiệp nó là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế được. Trong
nông nghiệp, đất đai vừa là đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao động. Đất là đối

phát triển bình thường.
Ngoài ra, điều kiện thủy văn cũng chi phối mạnh cơ cấu ngành nông nghiệp.
Ở những vùng đồng bằng, mưa nhiều lúa nước chiếm ưu thế, ở những vùng cao
nguyên, thiếu nước thì thích hợp với các cây công nghiệp dài ngày.
Trong mỗi quốc gia các vùng lãnh thổ với vị trí địa lý khác nhau có điều kiện
đất đai, điều kiện khí hậu các nguồn tài nguyên tự nhiên khác (nước, rừng, biển...)
và hệ sinh thái khác về số lượng và quy mô các phân ngành chuyên ngành sâu của
nông lâm ngư nghiệp, giữa các vùng có sự khác nhau, dẫn tới sự khác nhau của cơ
cấu ngành. Điều này được thể hiện rõ rêt từng sự phân biệt về cơ cấu các ngành kinh
tế trong nông nghiệp giữa các vùng đồng bằng, trung du miền núi. Ngay giữa các
vùng cơ cấu kinh tế các ngành cũng có sự khác nhau rõ rệt, do tính đa dạng và phong
phú của tự nhiên nước ta và sự phát triển không đồng đều của nguồn lực. Một số
vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển một số ngành sản xuất, tạo ra các
lợi thế so với các vùng khác của đất nước. Đây là cơ sở tự nhiên để hình thành các
vùng kinh tế.
1.3.2.Nhóm các nhân tố kinh tế xã hội
Các nhân tố kinh tế xã hội ảnh hưởng tới cơ cấu kinh tế nông nghiệp bao gồm:
Thị trường (cả thị trường trong và ngoài nước ), hệ thống các chính sách kinh tế vĩ
mô của nhà nước, vốn, cơ sở hạ tầng nông thôn, sự phát triển các khu công nghiệp và
đô thị; kinh nghiệm, tập quán và truyền thống sản xuất của dân cư...
Trong nền kinh tế hàng hoá, nhân tố thị trường có ảnh hưởng quyết định tới sự phát
triển kinh tế nói chung và biến đổi của cơ cấu kinh tế nói riêng. Bởi suy đến cùng cơ
cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng chỉ tồn tại và vận động
thông qua hoạt động của con người. Nhưng người sản xuất hàng hoá chỉ sản xuất và
đem ra thị trường trao đổi những sản phẩm mà họ cảm thấy chúng đem lại lợi nhuận
thoả đáng. Như vậy, thị trường thông qua quan hệ cung cầu mà tín hiệu là giá cả hàng
Vũ Thị Lụa Lớp NN K46B
18
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
hoá thúc đẩy hay ngăn cản người sản xuất tham gia hay không tham gia vào thị

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
lập hành lang và khuôn khổ cho các chủ thể kinh tế hoạt động, pháp luật kinh doanh
cũng là chỗ dựa pháp lý của các chủ thể kinh tế trong các hoạt động của mình.
Để có thể đảm bảo phát huy những tác động tích cực, hạn chế những ảnh
hưởng tiêu cực của thị trường nhằm mục đích tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng
trưởng và phát triển với tốc độ cao và ổn định thì một trong những hướng tác động
quan trọng nhất của các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước là sự tác động đến cơ
cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp nói riêng. Nếu chỉ có tác
động của các quy luật thị trường thì cơ cấu kinh tế chỉ hình thành và vận động một
cách tự phát và tất yếu dẫn đến sự lãng phí trong sử dụng các nguồn lực của đất
nước. Để thực hiện chức năng điều tiết của mình nhà nước không còn cách nào khác
phải ban hành một hệ thống các chính sách kinh tế cùng với các công cụ quản lý vĩ
mô khác thúc đẩy việc hình thành một cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp hợp lý nhằm
khai thác có hiệu quả nhất các nguồn lực và các lợi thế của khu vực kinh tế nông
nghiệp.
Muốn bảo đảm tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp
lâu dài, bên vững và chất lượng cao thì việc bảo đảm tiền vốn là rất quan trọng. Vốn
đầu tư trong nông nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tư liệu lao động và đối tượng lao
động được đầu tư vào sản xuất nông nghiệp. Các nguồn vốn đầu tư để chuyển đổi cơ
cấu kinh tế nông nghiệp gồm có:
- Nguồn vốn tự huy động của dân cư vào phát triển sản xuất, kinh doanh: đặc
điểm quan trọng của nguồn vốn này ở nông thôn khác với ở đô thị, đó là tính nhỏ lẻ,
tỷ lệ huy động thấp.
- Nguồn vốn huy động từ chính phủ: thường được coi là nguồn đầu tư trực
tiếp từ ngân sách. Đây là nguồn vốn rất quan trọng mang tính định hướng, quy mô
lớn và tập trung.
- Nguồn vốn tín dụng có nguồn gốc hình thành từ ngân sách nhà nước(các tổ
chức tín dụng nhà nước) và nguồn huy động trong dân cư đô thị hoặc nông thôn. Vốn
tín dụng thường được phân làm hai loại: chính thức và phi chính thức. Trong nền
Vũ Thị Lụa Lớp NN K46B

lao động, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn.
Vũ Thị Lụa Lớp NN K46B
21
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Nguồn lao động bao gồm cả số lượng và chất lượng của dân số, là điều kiện
tiên quyết cho tăng trưởng kinh tế, hình thành và biến đổi cơ cấu kinh tế ngành nông
nghiệp. Chính con người lao động là nhân tố đem lại nguồn lực ban đầu và là nhân tố
then chốt nâng cao năng suất, đẩy nhanh tốc độ phát triển nông nghiệp, nhân tố thúc
đẩy tiến bộ khoa học – công nghệ. Quy mô dân số và thu nhập của họ là yếu tố ảnh
hưởng lớn đến quy mô và cơ cấu nhu cầu về hàng nông sản. Thu nhập của người lao
động càng tăng thì nhu cầu của họ về hàng nông sản càng phong phú và đa dạng – cở
sở để phát triển các ngành trong nông nghiệp, hình thành cơ cấu kinh tế ngành nông
nghiệp theo nhu cầu.
Trước đây, người ta chỉ xem xét mặt lượng của nguồn lao động, nhưng ngày
nay, khi khoa học công nghệ đang ngày càng phát triển, các nguồn lực cho sự phát
triển đang có nhiều thay đổi căn bản, tài nguyên thiên nhiên đang lùi về thứ yếu, kinh
tế tri thức đang lên ngôi thì lao động trí tuệ trở thành đặc trưng cơ bản. Nguồn lao
động dồi dào về số lượng thôi là chưa đủ, mà còn đòi hỏi một nguồn lao động có chất
lượng, một nguồn lao động dồi dào hiểu biết về khoa học, có sức khỏe và trình độ
văn hóa hiện đại, kỹ năng lao động thành thạo đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế tri
thức. Nguồn lao động có ý nghĩa quyết định đến năng lực cạnh tranh, đến trình độ
phát triển kinh tế của một quốc gia.
Ngoài ra, kinh nghiệm, tập quán, truyền thống sản xuất của dân cư cũng ảnh
hưởng đến việc hình thành và phát triển của cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp. Ở đâu
phong tục tập quán canh tác lạc hậu thì sự chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp diễn ra khó
khăn, chậm chạp. Ngược lại nếu tập quán canh tác tiến bộ thì việc chuyển đổi cơ cấu
nông nghiệp sẽ diễn ra nhanh chóng hơn.
1.3.3. Nhóm nhân tố về tổ chức - Kỹ thuật
Nhóm nhân tố này bao gồm: Các hình thức tổ chức trong nông nghiệp, sự phát
triển của khoa học kỹ thuật và việc dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vảo sản

hội và khu vực nông thôn. Đồng thời việc ứng dụng khoa học kỹ thuật cũng làm tăng
năng lực sản xuất trong nông nghiệp tác động mạnh đến cơ cấu nông nghiệp. Như
công nghệ sinh học với các công nghệ tế bào, công nghệ gen, công nghệ vi sinh đã
tạo ra những giống cây trồng và vật nuôi mới. Các loại giống cây, con có năng suất
Vũ Thị Lụa Lớp NN K46B
23
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
cao, chất lượng tốt cho phép tăng quy mô sản lượng nuôi trồng mà không cần mở
rộng diện tích. Các loại giống mới có sức kháng chịu dịch bệnh cao giúp ổn định
năng suất cây trồng, vật nuôi, ổn định sản lượng sản phẩm hàng hóa qua đó thúc đẩy
sự phát triển của các ngành sản xuất, các vùng kinh tế trong nông nghiệp đặc biệt là
những ngành, những vùng có nhiều lợi thế.
Sự phát triển của quy trình công nghệ bảo quản và chế biến sản phẩm sẽ tạo ra
những điều kiện có tính cách mạng để vận chuyển sản phẩm đi tiêu thụ tại những thị
trường thị trường xa xôi. Điều đó cũng có ý nghĩa to lớn mở rộng thị trường tiêu thụ
sản phẩm của từng vùng chuyên canh xét về không gian. Thay vì nông sản chỉ được
tiêu thụ tại chỗ, hoặc ở những vùng lân cận quanh vùng chuyên môn hóa thì nay sản
phẩm được đưa đi tiêu thụ tại những thị trường cách vùng sản xuất hàng ngàn hàng
vạn km nhờ công nghệ bảo quản và chế biến nông sản tiên tiến. Đồng thời, cuộc cách
mạng trong lĩnh vực này cũng tạo điều kiện để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm
của vùng xét về thời gian. Thay vì nông sản chỉ được tiêu dùng trong một khoảng
thời gian ngắn vào thời vụ thu hoạch thì nay ngày càng có điều kiện để tiêu thụ nông
sản loại nào đó ngày càng dài hơn, thậm chí là quanh năm.
Công nghệ chế biến cũng mở rộng dung lượng thị trường nông sản của vùng
nhờ sự tác động của quá trình đó đã đa dạng hóa sản phẩm tiêu dùng cuối cùng. Ví
dụ, thay vì chỉ tiêu thụ dứa quả tươi, ngày nay công nghệ chế biến còn cung cấp cho
thị trường dứa khoanh,dứa miếng và đặc biệt là nước dứa cô đặc
1.4. KINH NGHIỆM CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ Ở MỘT SỐ NƠI
TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
Sơn Tây là thành phố có truyền thống sản xuất nông nghiệp lâu đời với trên

sông Tích hay ven sông Hồng cho thu nhập cao. Trong đó cây rau và cây lạc cho thu
nhập cao, chiếm trên 70% diện tích. Điển hình trong phát triển cây rau màu là xã
Viên Sơn với gần 50ha rau mỗi năm, trong đó có 15ha chuyên rau cho thu nhập cao
hơn cấy lúa, trồng ngô 3 - 4 lần. Đặc biệt, Viên Sơn còn là xã đầu tiên xây dựng
thành công mô hình rau an toàn với diện tích gần 10ha đáp ứng được nhu cầu thị
trường đô thị. Bên cạnh vùng rau màu, các vườn bưởi, cam, vải, nhãn cũng được
nhân rộng với trên 170ha (gồm cả diện tích gắn với công tác trồng rừng)... Không
chỉ có các loại cây trồng mà các mô hình kinh tế trang trại, vườn trại cũng từng bước
Vũ Thị Lụa Lớp NN K46B
25

Trích đoạn Cơ cấu kinh tế của thành phố Hà Đụng
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status