Luận văn tốt nghiệp: Bước đầu xây dựng câu hỏi trắc nghiệm khách quan chương I và chương II phần “ Sinh học tế bào”, SH10 nâng cao - THPT - Pdf 12



Luận văn tốt nghiệp

Đề tài:

Bước đầu xây dựng câu hỏi trắc nghiệm khách quan chương I
và chương II phần “ Sinh học tế bào”, SH10 nâng cao - THPT
Phần I: mở đầu


TNTL, rất ít bằng TNKQ.
Trong mỗi hình thức trắc nghiệm điều có ưu nhược điểm riêng. Trắc
nghiệm tự luận có ưu điểm là: đo được khả năng diễn đạt câu từ, hành văn, lập
luận Song nó bộc lộ nhiều nhược điểm đó là: làm bài mất nhiều thời gian
dẫn đến không KTĐG được nhiều nội dung và mục tiêu dạy học, đánh giá còn
lệ thuộc vào quan điểm cá nhân nên không đảm bảo tính khách quan công
bằng.
Trắc nghiệm khách quan có nhược điểm là khó đo được khả năng suy luận,
diễn đạt của học sinh. Song nó có nhiều ưu điểm đó là: kiểm tra được nhiều nội
dung và mục tiêu dạy học, tránh học tủ, học lệch; có thể áp dụng phương pháp
chấm điểm nhanh chóng, tiện lợi (đục lỗ đáp án, sử dụng vi tính) đảm bảo tính
khách quan độ chính xác cao.
Hiện nay, Bộ GD&ĐT đang khuyến khích sử dụng TNKQ trong KTĐG,
kỳ thi tuyển sinh 2006 - 2007 đã sử dụng TNKQ đối với môn tiếng Anh, năm
2007-2008 áp dụng thêm đối với môn Lý, Hoá, Sinh và sau đó sẽ lần lượt áp
dụng đối với môn học còn lại.
Để có thể KTĐG thành quả học tập bằng TNKQ đạt hiệu quả, mỗi môn
học, phần học cần xây dựng bộ ngân hàng câu hỏi dựa trên nội dung kiến thức
và các mục tiêu cụ thể cần đạt được khi giảng dạy. Các câu hỏi phải đảm bảo đo
được nhiều mức độ nhận thức khác nhau như: nhớ, hiểu, vận dụng, sáng tạo.
Câu hỏi TNKQ không chỉ được dùng ở khâu KTĐG mà còn được dùng ở
các khâu: dạy bài mới, củng cố, hoàn thiện, nâng cao. Dùng loại câu hỏi này
không chỉ truyền tải nội dung dạy học mà còn phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của người học. Câu hỏi TNKQ còn có thể dùng làm tài liệu để tự học,
tự nghiên cứu, tự kiểm tra đánh giá trong quá trình dạy học.
Kiến thức tế bào học SH10 - THPT là phần khá trừu tượng đối với học
sinh, nên giáo viên cần phải khai thác kĩ nội dung từng khía cạnh để học sinh
nắm vững kiến thức. Vì thế việc xây dựng bộ câu hỏi TNKQ trong dạy học là
một việc làm hết sức cần thiết để tích cực hoá quá trình học tập phần “ Sinh
học tế bào” SH 10 nâng cao –THPT. Cho đến đã có nhiều đề tài về xây dựng

trong công tác giáo dục và các tài liệu, sách báo có liên quan đến đề tài.
- Nghiên cứu nội dung chương trình sách giáo khoa lớp 10- THPT phần
“ Sinh học tế bào”.
- Nghiên cứu tài liệu lý luận về câu hỏi TNKQ, quy trình, nguyên tắc, kỹ
thuật thiết kế và sử dụng câu hỏi TNKQ nói chung.

6.2. Phương pháp điều tra, quan sát sư phạm:
Trao đổi với giáo viên, học sinh về bộ câu hỏi đã soạn thảo làm cơ sở
hoàn chỉnh câu hỏi đưa vào thực nghiệm.
6.3. Phương pháp thực nghiệm:
Thực nghiệm chính thức: Thu thập số liệu và phân tích bằng xác suất
thống kê, xác định các chỉ tiêu đo lường, và đánh giá chất lượng câu hỏi.
6.4. Phương pháp xử lý số liệu:
Sử dụng các chỉ tiêu và công thức sau:
6.4.1. Xác định độ khó của mỗi câu hỏi(FV):
áp dụng công thức:
Số thí sinh trả lời đúng
FV= x 100% (1)
Tổng số thí sinh dự thi
Thang phân loại được quy ước như sau:
- Câu dễ có: 76%-100% số thí sinh trả lời đúng
- Câu trung bình có: 30% - 75% số thí sinh trả lời đúng.
- Câu khó có : 0%- 29% số thí sinh trả lời đúng.
Câu hỏi dùng trong dạy học có: 20%

FV

80% là đạt yêu cầu sử dụng.
6.4.2. Xác định độ phân biệt của mỗi câu hỏi(DI):
áp dụng công thức: (2)

)(

K
XKX 
(3)
Trong đó:
K: Số lượng câu hỏi của bài trắc nghiệm của bài trắc nghiệm tổng
thể.

X
: Điểm trung bình của bài trắc nghiệm tổng thể.


: Phương sai của bài trắc nghiệm tổng thể.
Thang phân loại độ tin cậy được quy ước như sau:
0

R
2,1
< 0,6: Độ tin cậy thấp.
0,6

R
2,1
< 0,9: Độ tin cậy trung bình.
0,9

R
2,1


và sau đó là đối với một số loại kiến thức khác.
Đến năm 1940 ở Hoa Kỳ đã xuất bản nhiều hệ thống T dùng để đánh giá
thành tích học tập của học sinh.
Năm 1961 Hoa Kỳ đã có hơn 2000 chương trình T chuẩn.
Năm 1963 đã xuất hiện công trình của Ghecberich dùng máy tính điện tử
xử lí các kết quả T trên diện rộng.
Vào thời điểm đó ở Anh đã có Hội đồng quốc gia hàng năm quyết định
các T chuẩn cho trường trung học.
Trong thời kì đầu việc sử dụng phương pháp T ở các nước phương Tây
đã có một số sai lầm như đã sa vào quan điểm hình thức, máy móc trong việc
đánh giá năng lực trí tuệ, chất lượng kiến thức của học sinh hoặc quan điểm
phân biệt giai cấp, phủ nhận năng lực học tập của con em nhân dân lao động.
ở Liên Xô từ năm 1926 - 1931 đã có một số nhà sư phạm tại Matxcơva,
Lêningrat, Kiép thí nghiệm dùng T để chẩn đoán đặc điểm tâm lý cá nhân và
kiểm tra kiến thức học sinh. Nhưng do ảnh hưởng các sai lầm nói trên, sử dụng
mà chưa thấy hết những nhược điểm của T nên ở thời kì này tại Liên Xô có
nhiều người phản đối dùng T. Ban chấp hành TW Đảng Cộng sản Liên Xô
cũng đã chính thức phê phán dùng T (4/9/1936).
Chỉ từ năm 1963 tại Liên Xô mới phục hồi việc sử dụng T để kiểm tra
kiến thức học sinh. Đã xuất hiện những công trình nghiên cứu dùng T trong
các môn học khác nhau như E.E.Solovieva (1963), V.A.Korinskaia và
L.M.Pansetnicova (1964) K.A.Craxmianscaia (1963)…Người ta vẫn tiếp tục
thảo luận về những ưu, nhược điểm của T.
Mới đây, ở nhiều nước trên thế giới (Anh, Mỹ, úc, Hà lan, Bỉ, Pháp…)
với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin họ đã cải tiến việc thực
hiện T như: cài đặt chương trình chấm điểm, xử lí kết quả trên máy tính. Khiến
cho T trở thành công cụ hữu ích, nhất là đối với chương trình tự học, tự đào
tạo.
Vì vậy việc soạn thảo các câu hỏi T có chất lượng ngày càng được
khuyến khích trên nhiều lĩnh vực thuộc nhiều ngành khác nhau.

Aristotle là người đầu tiên đã phân tích câu hỏi dưới góc độ logic ông
cho rằng: “Câu hỏi là một mệnh đề trong đó chứa đựng cả cái đã biết và cái
chưa biết “ [6.Tr 23]
Khái niệm câu hỏi cũng được diễn đạt dưới dạng khác như: Câu hỏi là
dạng cấu trúc ngôn ngữ, diễn đạt một yêu cầu, một đòi hỏi, một mệnh lệnh
cần được giải quyết. [6.Tr 23]
Trong dạy học, câu hỏi được sử dụng như là một công cụ dùng để tổ
chức hướng dẫn quá trình nhận thức, quá trình kiểm tra, tự kiểm tra và tự học.
Đó là những yêu cầu được đặt ra (trong câu hỏi) mà người học cần phải giải
quyết.
1.2 . Các loại câu hỏi trong dạy học:
Tuỳ theo bản chất, mục đích, cách sử dụng mà người ta chia câu hỏi
thành nhiều loại khác nhau: [4] ,[6]
1.2.1. Dựa vào mức độ nhận thức của học sinh:
- Câu hỏi yêu cầu tái hiện sự kiện, hiện tượng, quá trình…
-Câu hỏi yêu cầu mức hiểu khái niệm.
- Câu hỏi yêu cầu mức vận dụng khái niệm.
- Câu hỏi yêu cầu mức sáng tạo.
1.2.2. Dựa vào sự phát triển năng lực nhận thức của học sinh:
- Câu hỏi rèn luyện kỹ năng quan sát
- Câu hỏi rèn luyện kỹ năng phân tích
- Câu hỏi rèn luyện kỹ năng tổng hợp
- Câu hỏi rèn luyện kỹ năng so sánh
- Câu hỏi rèn luyện kỹ năng sử dụng con đường quy nạp
- Câu hỏi rèn luyện kỹ năng sử dụng con đường diễn dịch
1.2.3. Dựa vào các khâu của quá trình dạy học:
- Câu hỏi sử dụng trong khâu nghiên cứu tài liệu mới.
- Câu hỏi sử dụng trong khâu ôn tập, củng cố, hoàn thiện, nâng cao.
- Câu hỏi sử dụng trong khâu kiểm tra, đánh giá.
1.2.4. Dựa vào mức độ tích cực:


Trắc nghiệm tự luận Trắc nghiệm khách quan
Diễn giải Tiểu luận Luận văn Đúng- Sai MCQ Ghép nối
Điềnkhuyết

1.3.1. Trắc nghiệm tự luận ( TNTL )
* Khái niệm:
Là dạng T dùng những câu hỏi mở đòi hỏi học sinh tự xây dựng câu trả
lời. Câu trả lời có thể là một đoạn văn ngắn, một bài tóm tắt, một bài diễn giải
hoặc một tiểu luận [2]
* Ưu điểm:
TNTL có những ưu điểm sau: Đòi hỏi thí sinh tự trả lời và diễn đạt bằng
ngôn ngữ của chính mình, giáo viên ít tốn thời gian cho việc soạn thảo câu hỏi,
thí sinh có thể tự do diễn đạt ý tưởng phát huy khả năng sáng tạo, cách thức
giải quyết vấn đề, rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh.
* Nhược điểm:
TNTL có số lượng câu hỏi ít, giá trị nội dung không cao, chấm bài tốn
thời gian, cho điểm gặp khó khăn, tính khách quan không cao nên độ tin cậy
thấp.
1.3.2. Trắc nghiệm khách quan ( TNKQ )
* Khái niệm về TEST – TNKQ:
Trên thế giới người ta đã sử dụng câu hỏi TEST vào quá trình dạy học từ
những năm 1930 của thế kỷ XX. Đã có nhiều nhà lý luận đi sâu vào nghiên
cứu về Test và đưa ra định nghĩa “Test là bài tập làm trong một thời gian ngắn
nhất, mà thực hiện bài tập đó nhờ có sự đánh giá về số lượng và chất lượng, có
thể coi là dấu hiệu về sự hoàn thiện một số chức năng tâm lý.”
A.V.PETROPSKI. 1970 hoặc “Test là thử nghiệm mang tính tích cực”.

lựa chọn đáp án.
+ Có ít phương án để lựa chọn ( Đúng–Sai ) vì thế khó xác định được
điểm yếu của học sinh do yếu tố đoán mò, xác suất đúng / sai là 50%, có độ tin
cậy thấp.
Loại T này thường chỉ đòi hỏi trí nhớ, ít kích thích suy nghĩ, khả năng
phân biệt học sinh giỏi và học sinh kém rất thấp.
• Loại câu trắc nghiệm ghép- nối:
- Khái niệm: Là dạng câu hỏi T mà trong đó gồm những câu hỏi có 2
dãy thông tin, một bên là câu hỏi, bên kia là câu trả lời, học sinh phải ghép với
nhau trở thành thông tin hoàn chỉnh.
- Ưu điểm: Loại này thích hợp với các câu hỏi sự kiện, khả năng nhận
biết kiến thức hay tìm những mối tương quan (giữa cấu tạo và chức năng, đặc
điểm với cấu trúc…)
- Nhược điểm: Khó có thể đánh giá học sinh ở mức độ tư duy cao do học
sinh có thể đạt điểm bằng cách loại suy chứ không phải bằng kiến thức.
• Loại câu trắc nghiệm dạng điền khuyết:
- Khái niệm: Là loại câu T trong đó câu dẫn có để một vài chỗ trống học
sinh phải điền vào chỗ trống những từ thích hợp.
Có 2 dạng: Có thể là những câu hỏi với giải đáp ngắn, hay là những câu
phát biểu với một hay nhiều chỗ trống, thí sinh phải điền vào bằng một từ hay
một nhóm từ thích hợp.
- Ưu điểm:
+ Làm mất khả năng đoán mò cuả học sinh và có cơ hội trình bày những
câu trả lời phát huy óc sáng tạo.
+ Giáo viên dễ soạn câu hỏi, thích hợp với các môn tự nhiên.
- Nhược điểm:
+ Nhược điểm lớn nhất của loại trắc nghiệm này việc chấm bài mất
nhiều thời gian.
+ Hơn nữa giáo viên sẽ khó cho điểm và tính khách quan không cao, đối
với những câu trả lời của học sinh không đúng với đáp án mà vẫn có lý

Bộ câu hỏi TNKQ được xây dựng dựa trên các mục tiêu dạy học cụ thể.
Do đó bộ câu hỏi như là một mẫu hình tiêu biểu mà qua đó có thể thực hiện
được các mục tiêu dạy học. Khi học sinh được trắc nghiệm tiếp cận với những
yêu cầu có trong nội dung câu hỏi T, họ phải sử dụng các thao tác tư duy, phân
tích, so sánh, tổng hợp…cùng với những kiến thức đã có để tìm ra phương án
đúng. Để tìm được câu trả lời đúng học sinh không chỉ nắm vững kiến thức mà
cần phải hiểu rõ vấn đề. Nhất là đối với câu hỏi TNKQ-MCQ có khả năng gây
nên những thắc mắc, những khó khăn trong tư duy, kích thích học sinh có nhu
cầu hiểu biết để giải quyết yêu cầu của câu hỏi.Từ đó, không chỉ hình thành
được kiến thức mới cho người học mà còn rèn luyện cho họ năng lực tư duy,
óc suy đoán nhanh nhậy.
+ Sử dụng ở khâu ôn tập, củng cố, hoàn thiện, nâng cao:
Hình thành kiến thức cho học sinh ở khâu nghiên cứu tài liệu mới có vai trò
quan trọng trong quá trình dạy học, song kiến thức của học sinh có trở nên
vững chắc hay không, lại nhờ vào khâu ôn tập, củng cố và hoàn thiện, nâng
cao. Sử dụng câu hỏi TNKQ là biện pháp có hiệu quả để nâng cao trình độ
trước khi bước vào kì thi.
Bộ câu hỏi được soạn thảo dựa vào các mục tiêu dạy học, phủ kín và
phân bố số lượng câu hỏi theo mức độ quan trọng của từng mục tiêu, nên
người ôn tập có thể coi việc trả lời bộ câu hỏi như là kế hoạch chi tiết cho quá
trình ôn tập.
Việc giải quyết các câu hỏi theo hệ thống các câu hỏi là điều kiện để cho
người đọc rà soát, ôn lại kiến thức mà mình đã học. Như vậy sẽ củng cố lại
những kiến thức cơ bản trong 1 thời gian ngắn. Mặt khác khi gặp những câu
hỏi T khó họ phải huy động tìm lời giải đáp, giúp cho người học vừa ôn lại
kiến thức, vừa nâng cao được trình độ .
+ Sử dụng TNKQ trong khâu tự học:
Vấn đề tự học là rất cần thiết đối với mỗi học sinh do sự phát triển ngày
càng mạnh mẽ của KHKT, đòi hỏi sự hiểu biết sâu rộng, mà những kiến thức
trên lớp do thầy cô cung cấp không thể đáp ứng được. Trong quá trình tự học

liên quan với nhau.
Cột câu hỏi và cột trả lời không nên bằng nhau, nên có những câu trả lời
dư ra để tăng sự cân nhắc khi lựa chọn.
- Thứ tự các câu trả lời không ăn khớp với thứ tự các câu hỏi để gây
thêm khó khăn cho sự lựa chọn.
2.4. Quy tắc xây dựng câu hỏi T nhiều lựa chọn ( MCQ ): [4. Tr. 27]
- Quy tắc lập câu dẫn:
+ Diễn đạt trong câu dẫn cần thể hiện rõ những nhiệm vụ mà các thí sinh
phải làm, phải đưa ra đầy đủ các thông tin cần thiết cho thí sinh để họ xác định
được yêu cầu trong câu hỏi.
+ Thường dùng một câu hỏi, hay câu nhận định không đầy đủ hoặc chưa
hoàn chỉnh để lập câu dẫn, đôi khi người ta có thể viết câu dẫn dưới dạng đưa
ra nhiều tổ rồi sau đó tổ hợp lại thành các phương án chọn.
+ Trường hợp nhiều câu hỏi trắc nghiệm được xây dựng dựa trên cùng
một lượng thông tin như: một đoạn văn, một đồ thị, một sơ đồ, một số các câu
trả lời sẵn… thì cần phải chọn câu dẫn sao cho có thể đảm bảo chắc chắn có sự
liên quan với những thông tin đã đưa ra đó. Câu nọ phải độc lập với câu kia,
chứ không có sự phụ thuộc vào nhau.
+ Khi lập câu dẫn càng cần phải tránh những từ có tính chất gợi ý hoặc
tạo đầu mối dẫn đến câu trả lời như “Những câu nào sau đây” trong khi một
trong các phương án lựa chọn là tổ hợp của hai hay nhiều câu.
+ Những từ chung cho các câu lựa chọn nên chuyển lên phần cấu trúc
của câu dẫn.
+ Nên ít dùng hoặc tránh dùng thể phủ định trong câu hỏi, nếu cần thiết
phải dùng thì nhấn mạnh bằng cách gạch chân, in nghiêng hoặc in đậm thể phủ
định, nhằm thu hút sự chú ý của thí sinh, tránh hiểu nhầm yêu cầu của câu hỏi.
+ Nội dung của câu dẫn phải nằm trong nội dung và mục tiêu cần đánh giá
- Quy tắc lập phương án chọn: [3]
Đó là những phương án đưa ra để giải quyết nhiệm vụ đặt ra ở câu dẫn
thông thường có từ 3-5 phương án lựa chọn, trong đó có một câu chọn là đúng

Bước 2 : Xây dựng kế hoạch cho nội dung cần trắc nghiệm:
Mục đích của việc xây dựng kế hoạch cho nội dung cần trắc nghiệm là:
- Nhằm đạt cao nhất về nội dung (đo được cái cần đo)
- Hệ thống câu hỏi tương xứng với thời gian phân bố và tầm quan trọng
của từng đơn vị kiến thức.
Do vậy, cần phải có kế hoạch chung, kế hoạch chi tiết phân bố cụ thể
trên từng nội dung tương ứng với các mức độ mục tiêu dạy học cụ thể.
Để đạt được mục tiêu cần có sự phân tích cấu trúc nội dung toàn bộ
chương trình tìm ra mục tiêu cụ thể cần đạt được trong giảng dạy và học tập.
Sau đó xác định tầm quan trọng và thời gian phân bố cho từng nội dung đó,
xác định các trọng số cụ thể theo thứ tự nội dung tổng quát, chi tiết.Từ việc
phân tích ở trên chúng ta có thể lập ra một kế hoạch chi tiết cho toàn bộ câu
hỏi.
Bước 3 : Soạn thảo câu hỏi.
- Căn cứ vào các quy tắc nêu ở trên về xây dựng các câu hỏi TNKQ cho
từng loại (Đúng sai, ghép nối, điền khuyết, MCQ) và dựa vào kế hoạch đã vạch
ra, xây dựng từng câu hỏi theo mục tiêu dạy học.Tuy nhiên để có được lượng
câu hỏi theo đúng kế hoạch đặt ra, khi soạn thảo cần xây dựng lượng câu hỏi
nhiều hơn thế. Để đến khi kiểm định câu hỏi qua thực nghiệm sẽ giúp ta loại
được những câu không đạt yêu cầu mà vẫn đảm bảo tính hệ thống của bộ câu
hỏi
- Khi soạn thảo câu hỏi, người soạn luôn tự hỏi: soạn câu ấy để làm gì?
Đánh giá được ai? Mức trí lực nào? Độ khó áng chừng khoảng bao nhiêu? Học
sinh phải mất bao nhiêu thời gian để trả lời câu hỏi ấy?
- Khi soạn xong cần có sự rà soát nhiều lần để tránh những sơ suất do chủ
quan
Bước 4 : Thực nghiệm kiểm định các câu hỏi:
- Các câu hỏi dù có soạn thảo cẩn thận, công phu đến đâu cũng chỉ là ý
tưởng chủ quan của người soạn. Muốn biết được các chỉ tiêu của từng loại câu
hỏi đạt đến đâu? Có khiếm khuyết đó như thế nào? Chất lượng câu hỏi so với

2.2.1 : Cấu trúc: Phần “Sinh học tế bào” bao gồm:
Chương
Số
bàiTên bài
Số tiếtI. Thành phần
hoá học của tế
bào 6 Bài 7: Các nguyên tố hoá học và nước của tế
bào
Bài 8: Các bon hiđrat và lipit
Bài 9: Prôtêin
Bài 10: Axít nuclêic
Bài 11: Axít nuclêic (tiếp theo)
Bài 12 :Thực hành:Thí nghiệm nhận biết một số
thành phần hoá học của tế bào
Tiết 7

Tiết 13

Tiết14
Tiết 15

Tiết 16

Tiết 17

Tiết 18

Tiết 19Tiết 20

III:Chuyển hoá
vật chất và
chuyển hoá
năng lượng
của tế bào
7
Bài 21: Chuyển hoá năng lượng
Bài 22: Enzim và vai trò của enzim trong quá
trình chuyển hoá vật chất
Bài 23: Hô hấp tế bào
Bài 24: Hô hấp tế bào (tiếp theo)
Tiết 21

Tiết 22

Tiết 31Tiết 32Để đảm bảo việc xây dựng câu hỏi có tính hệ thống và bám sát các nội
dung và mục tiêu dạy học. Cần phân tích tính hệ thống của chương trình tế bào
học.
2.2.2. Nội dung:
•Tính hệ thống, tính kế thừa, tính lô gic của phần “ Sinh học tế bào”
SH 10 – nâng cao-THPT:
Mở đầu của SH 10 là phần “Giới thiệu chung về thế giới sống” giúp cho
học sinh có cái nhìn tổng quát về sinh giới. Sinh giới rất đa dạng và phong phú,
từ những dạng sống đơn giản và nhỏ bé nhất như vi rút (kích thước tính bằng
nm) đến những dạng động vật có vú to lớn cấu tạo cơ thể phức tạp, nhưng
chúng đều có những đặc điểm chung.Tất cả các cơ thể sống bất luận hình dạng
và kích thước như thế nào, đều được cấu tạo từ tế bào. Chính vì vậy sau khi
học sinh có cái nhìn tổng thể về sinh giới, về cơ thể sinh vật, sinh học 10 đã đi
sâu nghiên cứu về đơn vị cấu tạo nên cơ thể đó là tế bào. Phần “ sinh học tế
bào” giúp học sinh tìm hiểu về tế bào: Thành phần hoá học của tế bào, cấu trúc
của tế bào, chuyển hoá năng lượng và sự phân bào.
Phần “Sinh học tế bào” là phần kiến thức khá trừu tượng, học sinh
không thể dễ dàng qua sát được, vì thế học sinh phải có tính tư duy lô gic cao.
Đồng thời kế thừa những hiểu biết từ các lớp dưới, về thực vật, động vật, cơ
thể người, nghiên cứu những kiến thức cụ thể về những đối tượng này ở mức
độ đại cương, tìm hiểu về sự phân bào, về ADN, ARN, prôtêin. Vì thế phần “
Sinh học tế bào” lớp 10 có nhiệm vụ kế thừa, khái quát hoá, hệ thống hoá,
những kiến thức về tế bào mà học sinh đã được học, đồng thời bổ sung những
kiến thức về thành phần hoá học của tế bào, cấu trúc tế bào và nâng cao những



Steroit
ADN
ARN
mARN
tARN
rARN


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status