LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta potx - Pdf 12

LUẬN VĂN:

Cơ sở lý luận và thực tiễn của
vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại
hoá ở nước ta

Mở đầu I- Tính cấp bách của đề tài:
Công nghiệp hoá không phải là một chủ trương mới của Đảng mà ngay từ Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (1960). Đảng ta đã xác định công nghiệp hoá là
nhiệm vụ trung tâm của thời kì quá độ. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện công

nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta nhằm có những giải pháp, những hướng
đi thích hợp, đáp ứng những đòi hỏi của quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội và
phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
 Để thực hiện mục tiêu trên, đề án có nhiệm vụ:
Một là, nghiên cứu một số vấn đề lí luận về nội dung, bản chất chung của công
nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Hai là, phân tích, tổng hợp, tìm kiếm những khó khăn cũng như những thuận
lợi khi tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Ba là, hiện trạng của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta thông
qua “5 hoá”.
Bốn là, các giải pháp, hướng đi cơ bản để tiến hành công nghiệp hoá hiện đại
hoá ở nước ta hiện nay.
 Bằng phương pháp lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và những thành tựu của khoa học xã hội, đồng thời coi trọng các
phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê để làm rõ nội dung nghiên
cứu của đề án, đưa ra những kiến nghị về phương hướng và giải pháp đổi mới
và hoàn thiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá hợp với điều kiện thực
tế của nước ta.

Chương I

Công nghiệp hoá hiện đại hoá
những vấn đề về quan điểm



2. Quan điểm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta:
Việt Nam đang hướng tới một nền kinh tế thị trường theo hướng xã hội chủ
nghĩa, có sự quản lý của nhà nước với mục tiêu là đảm bảo cho dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh, an ninh quốc gia và sự bền vững của môi
trường. Nền kinh tế Việt Nam chỉ có thể đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, hiệu
quả kinh tế xã hội cao khi nền kinh tế ấy thực sự dựa trên cơ sở công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Đảng ta đã xác định công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước
ta thành nước công nghiệp có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời
sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Dựa vào
nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây
dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất
khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những mặt hàng trong nước sản xuất có
hiệu quả. Khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hoá. Nâng cao dân
trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người Việt Nam là nhân tố quyết định cho
thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

II- Thực chất, nội dung của công nghiệp hoá hiện đại hoá:
Thực chất của nền công nghiệp hoá là sự phát triển công nghệ, là quá trình
chuyển nền sản xuất xã hội công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ từ trình độ công
nghệ thấp lên trình độ công nghệ hiện đại. Lực lượng lao động sẽ chuyển dịch thích ứng về cơ cấu ngành nghề, về trình độ tay nghề và học vấn. Công nghệ được biểu
hiện trong 4 thành phần: thiết bị, con người, thông tin và tổ chức quản lý. Phát triển
công nghệ theo nội dung trên là công nghiệp hoá về bản chất. Công nghệ đem lại
khả năng cạnh tranh hàng hoá trên thị trường và duy trì sự phát triển kinh tế - xã hội
bền vững, ngày càng cao là cơ sở vật chất để ổn định xã hội.

cách khác công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình phát triển cơ khí hoá, tự động
hoá, hoá học hoá, tin học hoá, sinh học hoá trong quản lý sản xuất, kinh doanh,
dụch vụ, quản lý kinh tế xã hội của đất nước, của các ngành kinh tế quốc dân. Để
thực hiện được quá trình này chúng ta phải có một thời gian lâu dài (khoảng 25
năm) kể từ năm 1995 và cùng với những cố gắng vượt bậc và phải vượt qua nhiều
thử thách, khó khăn thậm chí gay gắt khốc liệt. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá trong thời gian này được chia thành các giai đoạn.
 Giai đoạn đẩy tới một bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế năm
1995 - 2000.
Giai đoạn này thực hiện trên cở sở những thành quả bước đầu rất quan trọng
của 10 năm đổi mới kinh tế là về cơ bản đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh
tế, đẩy lùi được tình trạng lạm phát tốc độ kinh khủng (đỉnh điểm = 800%), ổn
định tình hình kinh tế xã hội và đời sống nhân dân.
Mục tiêu cơ bản của giai đoạn đẩy tới một bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nền kinh tế quốc dân là đưa đất nước ta thoát khỏi một đất nước nghèo và kém
phát triển, tạo được những điều kiện và môi trường thuận lợi để thực hiện giai
đoạn tiếp theo. Để thực hiện được mục tiêu này chúng ta phải tạo ra thu nhập
quốc dân cần thiết để đạt mức bình quân GDP đầu người tăng từ 2 - 2,5 lần so
với những năm 1990 tức là khoảng 400 - 500 USD. Muốn vậy dự kiến tốc độ
GDP bình quân hàng năm phải đạt khoảng 10%, dựa trên cơ sở phát triển
nhanh các ngành công nghiệp, công nghệ, kết cấu hạ tầng, công nghiệp hoá
công nghiệp, dịch vụ và kinh tế đối ngoại theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Giai đoạn này phải phấn đấu đạt tới sử dụng 20% sức lao động cộng
với công nghệ, phương tiện và phương pháp công nghiệp tiên tiến, hiện đại.
 Giai đoạn phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế từ năm 2001 -
2010. Mục tiêu cơ bản của giai đoạn phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền
kinh tế quốc dân là đưa đất nước ta trở thành một nước có nền kinh tế phát

I- NHững khó khăn
1. NHững khó khăn khách quan:
Sự sụp đổ chế độ XHCN của Liên Xô và các nước Đông Âu khiến cho chúng
ta mất thị trường lớn và sự giúp đỡ không nhỏ từ các nước này. Hơn nữa, trên thế
giới các nước đều đứng trước những cơ hội để phát triển, nhưng do ưu thế về vốn,
công nghệ, thị trường thuộc về các nước tư bản chủ nghĩa phát triển và các công
ty xuyên quốc gia cho nên các nước đang phát triển và chậm phát triển đang đứng
trước những thách thức to lớn, chênh lệch giàu nghèo giữa các nước còn mở rộng.
Cuộc cạnh tranh kinh tế, thương mại, khoa học, công nghệ diễn ra gay gắt trên
phạm vi toàn thế giới. Đặc biệt các thế lực đế quốc và thù địch, những kẻ chống chủ
nghĩa xã hội và độc lập dân tộc luôn chĩa mũi nhọn vào nước ta, tập trung phá hoại
nền tảng tư tưởng và tổ chức, lòng tin của nhân dân thông qua các diễn biến hoà
bình, xuyên tạc lịch sử, gieo rắc hoài nghi phủ nhận thành tựu cách mạng
2. Những khó khăn chủ quan:
Trước hết hiện nay nước ta vẫn là một trong những nước nghèo nhất trên thế
giới, trình độ phát triển kinh tế, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh
thấp, cơ sở vật chất kĩ thuật còn nhiều mặt lạc hậu, nhu cầu vốn đầu tư phát triển rất
lớn và cấp bách nhưng một bộ phận cán bộ và nhân dân còn tiêu xài lãng phí, tiêu
dùng quá mức mình làm ra, chưa tiết kiệm để dồn vốn cho phát triển. Nhà nước còn
thiếu chính sách để huy động vốn có hiệu quả nguồn vốn trong nhân dân. Như năm
1995, đầu tư xây dựng cơ bản bằng vốn trong nước (kể cả nguồn vốn khấu hao cơ
bản) chỉ chiếm 16,7% GDP, trong đó phần vốn ngân sách chỉ chiếm 4,2% GDP, còn
rất thấp so với yêu cầu phát triển kinh tế để tiếp thu có hiệu quả nguồn vốn bên
ngoài. Hơn nữa nước ta có xuất phát điểm thấp, là một nước nông nghiệp có trình
độ thấp kém, hậu quả của chiến tranh và những thói quen còn tồn tại ở chế độ quan
liêu, bao cấp, kế hoạch hoá tập chung. Cơ chế thị trường ở nước ta còn sơ khai, vai trò quản lí nhà nước đối với nền kinh tế xã hội còn yếu. Hệ thống quản lý kinh tế
còn đang trong quá trình chuyển đổi luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ,

vực đang phát triển và sẽ tiếp tục phát triển với tốc độ cao. Trong khu vực diễn ra
xu thế tự do hoá thương mại và quá trình liên kết, hợp tác kinh tế cạnh tranh trên
nhiều tầng nếu: đại khu vực, khu vực, tiểu khu vực, tam giác, tứ giác trên thế
giới, cuộc chiến tranh lạnh giữa các nước đã kết thúc, nguy cơ chiến tranh thế giới
huỷ diệt bị đẩy lùi và hoà bình, ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành
đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và quốc gia trên thế giới. Các nước dành ưu tiên
cho phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng
cường sức mạnh tổng hợp.
2. Những thuận lợi chủ quan.
Công cuộc đổi mới đang diễn ra ở nước ta sau 12 năm đã đạt được những
thành tựu to lớn, tạo tiền đề cần thiết cho phát triển kinh tế xã hội. Lạm phát ở
những năm 1986 - 1989 là 3 con số, bội chi ngân sách lớn 1987 là 5,5% GDP và
1988 là 8,3% GDP; năm 1988 so với năm 1989 thu nhập quốc dân tăng 2,7% nông
nghiệp giảm 2,3%. Cho đến những năm gần đây lạm phát giảm xuống còn 2 con số,
thiếu hụt ngân sách giảm từ 6,5% GDP xuống 4% và 1,2% (1991), cán cân thương
mại chuyển từ thiếu tình tràng hụt trên 9% GDP vào giữa những năm 80 sang mức
thặng dư khoảng 2% GDP (1991) GDP thực tế tăng 7% (1989), 4,5% (1990), 4%
(1991), 8,2% (1992). Đặc biệt nền kinh tế Việt Nam có dịp tăng tổng sản phẩm
trong nước năm 1996 (GDP) là 9,3%, sản lượng lương thực 29,14 triệu tấn, xuất
khẩu 3 triệu tấn gạo (là nước xuất khẩu gạo lớn thứ 3 trên thế giới), chỉ só lạm phát
chỉ còn 4,5% và bội chi ngân sách chiếm 3,2% GDP.
Ngoài ra, từ khi có luật đầu tư nước ngoài thì số vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào nước ta không chỉ tăng lên số lượng vốn và dự án mà ngày càng có những
chuyển biến tích cực về cơ cấu đầu tư và chất lượng dự án. Nếu tổng số vốn đầu tư
đăng ký năm 1988 là 360 triệu USD thì đến năm 1996 là 8,6 tỉ USD. Hơn nữa nước
ta còn có một thuận lợi lớn là có nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng, có đủ 60
loại khoáng sản chủ yếu, có hơn 2000 km đường bờ biển, truyền thống cần cù chăm
chỉ của dân tộc, học hỏi nhanh. Đồng thời nước ta có lợi thế là được áp dụng những
khoa học, công nghệ tiên tiến nhất đã đang được sử dụng trên thế giới. Một thuận

sản phẩm. Hiện nay, ngành cơ khí đã sản xuất được một số mặt hàng bảo đảm chất
lượng, không thua kém hàng nhập ngoại nên tiêu thụ nhanh, đáp ứng nhu cầu thị
trường trong nước và xuất khẩu nhưng số lượng còn hạn chế chỉ giới hạn trong một
số loại sản phẩm. Ngành cơ khí đã sản xuất được nhiều thiết bị phụ tùng thay thế
hàng nhập ngoại, tuy nhiên phần lớn các cơ sở đều là vừa và nhỏ, thiết bị công cụ
lạc hậu, thua kém so với các nước từ 4 - 5 thế hệ.
- Về công cụ cơ khí: Các công cụ, phương tiện cơ khí và cơ giới của các ngành
sản xuất vật chất hiện nay rất cũ, chắp vá, thiếu đồng bộ và lạc hậu. Tuổi trung bình
của thiết bị cơ khí nói chung là 15 - 30 năm . Hệ số sử dụng phương tiện công cụ cơ
khí cơ giới rất thấp, tính trung bình chỉ số sử dụng 20 - 30% số đầu máy công cụ và
động cơ, còn lại trong tình trạng hư hỏng nặng, thiếu phụ tùng thay thế, thời gian sử
dụng bình quân của các thiết bị chỉ đạt 65 - 70%. Đặc biệt, hầu hết trong các lĩnh
vực sản xuất còn thiếu thiết bị có độ chính xác cao dẫn đến hậu quả hao mòn vật
chất cao, giá trị sử dụng thực tế còn lại thấp
- Trình độ cơ khí hoá một số ngành sản xuất nhìn chung còn rất thấp, ở dưới
mức trung bình trong đó cao nhất là ngành công nghiệp, thấp nhất là ngành nông
nghiệp. Trong nông nghiệp chủ yếu vẫn là lao động thủ công, tỷ lệ cơ giới hoá thấp.
Trong công nghiệp, công nghiệp cơ khí được áp dụng rộng rãi trong các đơn vị sản
xuất công nghiệp quốc doanh nhưng lao động thủ công cũng còn trong nhiều khâu:
vận chuyển nội bộ. bao gói, cung ứng
b. Thực trạng tự động hoá: Tình trạng chung là rất thấp.
- Trong công nghiệp việc tự động hoá thường được áp dụng ở mức cao trong
dây chuyền công nghệ có tính liên hợp qui mô lớn như xi măng, luyện kim, sản xuất
u rê Trừ các nhà máy mới được đầu tư của các kinh tế phát triển hầu hết dây
chuyền tự động của Liên Xô (cũ) Trung Quốc và các nước Đông Âu đều lạc hậu,
nhiều bộ phận hư hỏng phải thay thế bằng các thiết bị nhập ngoại ở các nước kinh tế
phát triển. Tự động hoá từng bộ phận của dâychuyền sản xuất được áp dụng trong
một số khâu một số máy công cụ tự động cũng được áp dụng trong sản xuất công

e. Tin học hoá. Trong thời kì đổi mới ngành tin học đã phát triển với tốc độ nhanh. Việt Nam
đã xây dựng được một hệ thống thông tin liên lạc với tổng số vốn trên 6.000 tỉ, đã
sử dụng nhiều trang thiết bị hiện đại. Hệ thống tổ chức vi tính tin học được thành
lập ở hầu hết các cơ sở kinh doanh lớn và đã có sự nối mạng giữa các ngành, khu
vực. Tuy nhiên, ở nước ta thông tin tin học qui mô lớn chưa phát triển.
IV- Các giải pháp, phương hướng để tiến hành cong nghiệp hoá, hiện đại
hoá ở nước ta:
Từ thực trạng của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta cũng như
những khó khăn và thuận lợi mà chúng ta gặp phải trong quá trình thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá dẫn đến nước ta cần phải có một số giải pháp chủ yếu để
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
1. Phát triển nguồn nhân lực, có chính sách đào tạo con người.
Như Đảng ta đã xác định công cuộc tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá là
một sự nghiệp của toàn dân, của nhiều thành phần kinh tế trong đó phát huy nguồn
lực con người làm yếu tố cơ bản. Trên cơ sở quán triệt quan điểm này cần có hệ
thống biện pháp đồng bộ và phân bố, sử dụng đào tạo bồi dưỡng nguồn lao động.
Sử dụng lao động xã hội phải trên cơ sở phân bố lao động hợp lý giữa các ngành và
các vùng. Muốn sử dụng và phân bố lao động hợp lý phải đào tạo và bồi dưỡng.
Đồng thời đào tạo bồi dưỡng cũng phải gắn với phân bố sử dụng. Trong đó giáo
dục, đào tạo phải là quốc sách hàng đầu và để phát triển giáo dục đào tạo phải có
một số biện pháp như sau:
a. Tăng cường nguồn lực cho giáo dục.
- Về ngân sách giáo dục: Tăng dần tỷ trọng chi ngân sách cho giáo dục để đến
năm 2000 đạt 15% so với tổng chi ngân sách.
- Mở các trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng đại học, lập các
cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ khoa học gắn với ngành nghề đào tạo, ưu tiên
cho xuất bản sách phục phụ cho đào tạo, ưu tiên cho xuất bản sách phục phụ cho

lao động thực sự trở thành người chủ doanh nghiệp. Cần có các biện pháp sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn ngân sách cấp cho
xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật và sản xuất hàng hoá công cộng. Nhà nước cần áp
dụng hình thức đấu thầu, định mức cấp phát có biện pháp thu lệ phí từ người sử
dụng ngân sách sẽ đầu tư qua tín dụng với lãi suất ưu đãi đối với những ngành,
những sản phẩm những công trình cần ưu tiên. Thực hiện việc cấp phát cho vay ưu
đãi theo chương trình đã nêu.
c. Đẩy mạnh việc nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ
trong các doanh nghiệp công nghiệp.
Tiến bộ khoa học công nghệ trong công nghiệp là yếu tố quyết định và là nền
tảng không chỉ cho phát triển nâng cao hiệu quả sản xuất mà còn cho sự phát triển
nhanh, có hiệu quả các ngành công nghiệp cũng như nền kinh tế quốc dân.
Đổi mới công nghệ - nội dung của tiến bộ khoa học, công nghệ trong công
nghiệp - là công việc của doanh nghiệp do các daonh nghiệp đề xướng, quyết định
và thực hiện. Đồng thời nhà nước có vai trò quyết định hướng, hỗ trợ kiểm tra thực
hiện theo luật định.
d. Phát triển và nâng cao hiệu quả liên doanh liên kết.
Phát triển và nâng cao hiệu quả liên doanh, liên kết là xu thế tất yếu của phát
triển các ngành công nghiệp.
Đa dạng hoá và đa phương hoá các quan hệ liên doanh, liên kết kinh tế (bao
gồm cả trong nước và nước ngoài) nhằm huy động và sử dụng tốt các nguồn lực và
phát triển các ngành công nghiệp. Khắc phục khuynh hướng chỉ thiên về liên doanh
liên kết với nước ngoài, xem nhẹ liên doanh, liên kết kinh tế trong nước.
Nâng cao vai trò, vị trí của Việt Nam trong liên doanh với nước ngoài thông
qua các biện pháp như: nâng phần vốn góp của VIệt Nam, nâng cao trình độ năng
lực của cán bộ Việt Nam khi tham gia đàm phán và trong quá trình quản lý công ty
liên doanh nước ngoài.
Đặt và gắn các dự án liên doanh với nước ngaòi, với chiến lượng và quy hoạch

cách ứng dụng khoa học: cho phép các doanh nghiệp dùng vốn để làm khoa học.
Bảo đảm thu nhập cho các cán bộ khoa học tương xứng với giá trị chất xám, tạo
điều kiện trang thiết bị làm việc cho cán bộ khoa học và các cơ sở nghiên cứu phải
được áp dụng vào trong kinh doanh sản xuất. Khuyến khích tạo điều kiện trang thiết bị làm việc cho cán bộ khoa học và các cơ sở nghiên cứu phải được áp dụng vào
trong kinh doanh sản xuất. Khuyến khích tạo điều kiện để đội ngũ khoa học và công
nghệ người Việt Nam ở nước ngoài chuyển giao về tri thức và công nghệ tiên tiến.
Ngoài ra còn phải phát động phong trào quần chúng tiến công khoa học, ứng dụng
tiến bộ khoa học và công nghệ cao vào các công việc của mình.
c. Tăng cường với phát triển khoa học, công nghệ. Việc tăng cường này còn
được chú ý ở cả 2 phía: đầu tư của nhà nước và đầu tư của các cơ sở sản xuất, vốn
huy động trong nước và từ nước ngoài cho phát triển công nghệ. Cần phải có cơ chế
để các doanh nghiệp danh một phần vốn cho nghiên cứu đổi mới, cải tiến công nghệ
và đào tạo nhân lực, các dự án đầu tư cũng phải dành một phần kinh phí cho nghiên
cứu khoa học nhằm bảo đảm hiệu quả của dự án.
d. Việc thiết kế đồng bộ các biện pháp kích thích cung để công nghệ còn liên
quan trực tiếp tới định hướng xây dựng nền công nghệ nhiều tầng của đất nước. Sự
“co lại” thậm chí thui chột đi của các công nghệ ở tầng dưới và tầng công nghệ bên
trên tiếp nhận công nghệ thải loại của các nước khác không chỉ chậm lại sự phát
triển chung của nền công nghệ quốc gia bởi thiếu sự phối hợp đồng bộ chung trong
hệ thống công nghệ.
e. Xác định công nghệ ưu tiên cho những ngành, sản phẩm, lĩnh vực sản xuất
làm cơ sở cho việc xác định các biện pháp ưu tiên hoặc kích thích trong sản xuất và
đầu tư phát triển cũng như sửa đổi những bất hợp lý trong biểu thuế xuất - nhập
khẩu và điều đặc biệt quan trọng là để bố trí kế hoạch đào tạo kiến thức kỹ năng
nghề nghiệp phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế.
f. Nhà nước tập trung xây dựng một số khu công nghệ cao và các trung tâm

nghiệp là quan trọng nhất bởi vì khu vực này là nơi tạo ra và tích tụ vốn, là nguồn
nguyên thuỷ để tạo ra vốn cho ngân sách và cho hệ thống tín dụng.
Để huy động tối đa mọi nguồn vốn trong nước, đáp ứng nhu cầu đầu tư cho
công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì ngoài việc tạo ra các điều kiện cơ bản như hoàn
thiện cơ sở pháp lý, bảo vệ quyền lợi của người đầu tư, khuyến khích đầu tư trong
nước thì còn phải thực hiện những biện pháp như:  Coi tiết kiệm là quốc sách. Chính sách tiết kiệm phải được quán triệt trong cả
lĩnh vực sản xuất vật chất và tiêu dùng, trong cả khu vực Nhà nước, các doanh
nghiệp và các tầng lớp dân cư:
+ Tăng thuế đánh vào hàng tiêu dùng xa xỉ, không cần thiết, không phù hợp
với hoàn cảnh kinh tế hiện tại của đất nước, hạn chế xuất vốn ra nước
ngoài.
+ Thực hiện thắt chặt trong chi tiêu dùng tiền của ngân sách Nhà nước, thực
hiện nguyên tắc tốc độ tăng chi tiêu dùng thường xuyên của ngân sách Nhà
nước phải nhỏ hơn tốc độ tăng GDP và nhỏ hơn tốc độ tăng chi cho đầu tư.
 Khai thác tối đa các nguồn vốn trong dân đòi hỏi các chính sách kinh tế, tài
chính phải được hoàn thiện theo hướng đảm bảo cho người dân yên tam bỏ vốn
sản xuất kinh doanh. Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Nhà
nước, doanh nghiệp tư nhân tăng tích luỹ, tích tụ và tập trung vốn đầu tư cho
công nghiệp hoá.
 Tăng cường tạo vốn qua ngân sách bằng các biện pháp mở rộng diện thu thuế
và chống thất thu có hiệu quả, xoá bỏ chế độ bao cấp về nhà ở và bán bất động
sản cho người có nhu cầu. Mở rộng các hình thức phát hành trái phiếu kho bạc,
trái phiếu Chính phủ, trái phiếu địa phương để huy động vốn trong nước. Tiết
kiệm chi tiêu, chống tham nhũng, lãng phí.
 Nhanh chóng mở rộng và đa dạng hoá các hình thức huy động vốn thông qua
các tổ chức tín dụng.
b. Huy động vố nước ngoài.

việc cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế, trước hết là điện năng, giao thông vận
tải, bưu chính viễn thông. Việc đầu tư này có ý nghĩa sống còn bởi vì cơ sở hạ tầng
nghèo nàn, yếu kém sẽ gây trở ngại lớn cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá.
- Cần sớm xác định và lựa chọn các ngành công nghiệp mũi nhọn có ý nghĩa
quan trọng và tập trung đầu tư vốn cho các ngành công nghiệp này, nhằm khai thác mọi tiềm năng về nguyên vật liệu, tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động để tạo ra
những sản phẩm có hiệu quả kinh tế cao, có lợi thế so sánh trên thị trường quốc tế.
- Bằng các biện pháp tài chính: Tín dụng, thuế để khuyến khích các thành
phần kinh tế từng bước hiện đại hoá các ngành nghề tiểu thủ công truyền thống,
phát triển mạnh việc đầu tư nhập máy, thiết bị có trình độ tiên tiến, áp dụng công
nghệ mới trong các ngành công nghiệp, chế biến và chế tạo, đặc biệt là ngành cơ
khí, điện tử và tin học.
- Trong điều kiện nguồn vốn có hạn, ta nên áp dụng cơ cấu công nghệ thích
hợp, kết hợp nhiều trình độ công nghệ, tận dụng và từng bước cải tiến công nghệ
sẵn có, tranh thủ công nghệ mới. Mọi sự lựa chọn công nghệ phải xuất phát từ hiệu
quả sử dụng.
5. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
và phát triển nâng cao hiệu quả kinh tế của liên kết kinh tế giữa các ngành, các
vùng.
a. Chuyển dịch cơ cấu và phát triển kinh tế ở các vùng.
- Ưu tiên phát triển ven biển, tập trung xây dựng vào các thành phố cảng biển
thành các thành phố mở (Quảng Ninh, Hải Phòng, Đà Nẵng) chuyển chức năng của
Cam Ranh từ quân cảng sang thương cảng.
- Ưu tiên đầu tư phát triển cơ cấu hạ tầng sản xuất (kỹ thuật) và xã hội, tăng
cường định hướng phát triển công nghiệp kỹ thuật cao, thương mại và dịch vụ cho
các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Hồ Chí Minh
- Quy hoạch tổng thể tam giác phát triển Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh,


Kết luận

Sau những nghiên cứu trên thì ta có thể khẳng định lại rằng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước là một đòi hỏi tất yếu khách quan. Chỉ có công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì chúng ta mới khắc phục được những khó khăn, giữ vững độc lập
dân tộc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chủ nghĩa xã hội là một
xã hội cao đẹp mà bất cứ quốc gia nào cũng hướng tới. Như Các Mác đã nhận định
sau chủ nghĩa tư bản sẽ là xã hội chủ nghĩa. Chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội sau
khi thực hiện cách mạng dân tộc, Nhà nước do giai cấp công nhân lãnh đạo là điều
kiện phù hợp để lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên chúng ta đã bỏ qua giai đoạn tư
bản chủ nghĩa cho nên nền kinh tế còn chưa phát triển, cơ sở vật chất còn non kém.
Do đó nếu không muốn tụt hậu thì chúng ta phải có thời kỳ quá độ. Trong thời kỳ
quá độ thì công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một trong những mục tiêu quan trọng
nhất. Trong thời kỳ quá độ thì chúng ta tồn tại kinh tế nhiều thành phần, vận động
theo cơ chế thị trường vì vậy công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ của toàn
Đảng toàn dân, toàn quân ta. Mặc dù trong bối cảnh hiện nay chúng ta có nhiều khó
khăn tuy nhiên cũng có nhiều thuận lợi, do đó niềm tin, hy vọng vào sự thành công
của công cuộc đổi mới là hoàn toàn có cơ sở. Xuất phát điểm của nước ta tuy thấp
nhưng so với xuất phát điểm ở một số nước khác thì chúng ta còn cao hơn. Lấy ví
dụ như Nhật Bản, là một nước bại trận trong thể chiến II, bị thiệt hại nặng nề, tài
nguyên thiên nhiên khan hiểm. Tuy nhiên với những chính sách, đường lối đúng
đắn, lòng kiên định, cần cù, chăm chỉ thì đến nay Nhật Bản đã trở thành một cường
quốc trên thế giới. Nhật Bản là thành viên của nhóm bảy nước phát triển hàng đầu
thế giới (G7), là một trong ba trung tâm tài chính của thế giới (cùng với Mỹ và Tây
Âu). Hay đơn giản những nước trong khu vực ASEAN cùng với nước ta như
Singapore, Thái Lan hay Trung Quốc cũng đã có những bước tiến vượt bậc.
Nước ta với thế mạnh là người đi sau sẽ rút được kinh nghiệm, phát huy


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status