Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty ARTEX Thăng Long sang thị trường EU Thực trạng và giải pháp - Pdf 12

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Cấn Anh Tuấn
MỤC LỤC
SV: Vũ Thị Lan Anh Lớp: QTKD Thương Mại 46 A
1
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Cấn Anh Tuấn
DANH MỤC TÊN BẢNG BIỂU
Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam giai đoạn
1999- 2007
Bảng 2: Kim ngạch xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam sang EU
Bảng 3: Số liệu về việc nhập hàng từ các nguồn hàng quan trọng đối với từng
mặt hàng chính của công ty trong 3 năm gần đây
Bảng 4: Tình hình xuất khẩu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ của công ty từ
2004-2007
Bảng 5: Km ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ theo thị trường của công
ty ARTEX Thăng Long năm 2005-2007
Bảng 6: Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty gần B ảng 7:
Vốn của công ty trong 4 năm gần đây
Bảng 8: Thu nhập bình quân của mỗi người trong từng phòng ban của công ty
Bảng 9: Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU giai đoạn 2005- 2007 của
công ty ARTEX Thăng Long.
Bảng 10: Tỷ trọng hàng thêu ren xuất khẩu sang thị trường EU của công ty
ARTEX Thăng Long giai đoạn 2005- 2007
Bảng 11: Kim ngạch xuất khẩu hàng mây tre, cói, guột, gỗ, nhựa các loại sang
thị trường EU của công ty ARTEX Thăng Long giai đoạn 2005- 2007
Bảng 12: Kim ngạch xuất khẩu hàng g ốm s ứ sang thị trường EU của công ty
ARTEX Thăng Long giai đoạn 2005- 2007
Bảng 13: Kim ngạch xuất khẩu h àng TCMN kh ác sang thị trường EU của
công ty ARTEX Thăng Long giai đoạn 2005- 2007
Bảng 14: Kim ngạch xuất khẩu hàng TCMN sang các nước EU của công ty
ARTEX Thăng Long giai đoạn 2005- 2007.
Bảng 15: Kim ngạch xuất khẩu trực tiếp hàng TCMN sang EU của công ty

EU là một cơ hội cho công ty.
Trong bối cảnh như vậy, việc tìm ra những biện pháp cụ thể để nâng
cao khả năng xuất khẩu các sản phẩm TCMN của công ty ARTEX Thăng
Long vào EU là rất cần thiết. Chính vì những lý do trên nên em đã chọn đề
tài: “Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty ARTEX Thăng Long
sang thị trường EU: Thực trạng và giải pháp.”
SV: Vũ Thị Lan Anh Lớp: QTKD Thương Mại 46 A
3
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Cấn Anh Tuấn
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Như ở trên đây đã nói, phát triển xuất khẩu hàng TCMN của công ty
ARTEX Thăng Long vào thị trường EU có vai trò rất lớn trong hoạt động
kinh doanh của công ty. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là tìm hiểu
về thực trạng xuất khẩu hàng TCMN của công ty ARTEX Thăng Long sang
thị trường EU trong những năm gần đây và từ đó đưa ra được những giải pháp
cụ thể để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài.
Xuất khẩu nói chung là một vấn đề rất rộng lớn nên không thể đề cập
hết được ở đây. Trong đề tài này ta chỉ nghiên cứu trong phạm vi xuất khẩu
hàng TCMN của công ty ARTEX Thăng Long chỉ trong thị trường EU. Đối
tượng nghiên cứu của đề tài chính là hàng TCMN của công ty ARTEX Thăng
Long.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài: Trong đề tài em có dùng những
phương pháp như: phương pháp phân tích theo mô hình, phân tích ngoại suy,
phương pháp phân tích số liệu, đưa ra số liệu thống kê và phân tích…
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, đề tài có kết cấu 3 chương:
Chương 1: Thực trạng xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam và giới
thiệu khái quát quá trình hình thành phát triển của công ty ARTEX
Thăng Long.

đơn chiếc và có tính mỹ thuật cao. Mỗi sản phẩm có thể nói là một tác phẩm
nghệ thuật, quá trình sản xuất tuân theo công nghệ truyền thống và thường
nhậy bén với thị trường trong mẫu mã, chất lượng và có điều kiện linh hoạt
thay đổi hướng sản xuất.
* Các nghệ nhân làm trong nghề thì quan niệm rằng mặt hàng TCMN
thuộc nhóm ngành tiểu thủ công nghiệp truyền thống, hình thành lâu đời ở
một địa phương mà quy trình sản xuất thường do những nghệ nhân hoặc công
nhân lành nghề đảm nhận và có trách nhiệm. Sản phẩm thường có tính địa
phương và mang bản sắc văn hóa địa phương, dân tộc sâu sắc. Hình thức đào
tạo thường mang tính chất truyền thống theo dòng họ và làng tộc.
* Theo từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học thì cho rằng hàng thủ
công mỹ nghệ là mặt hàng bao gồm các đồ trang sức trang trí làm bằng tay, sử
dụng công cụ đơn giản để sản xuất ra sản phẩm.
Từ những quan niệm trên ta có thể rút ra một quan niệm chung như
sau: Hàng TCMN những hàng hóa được sản xuất bằng phương pháp thủ
SV: Vũ Thị Lan Anh Lớp: QTKD Thương Mại 46 A
6
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Cấn Anh Tuấn
công, gắn liền với phong tục tập quán và mang đậm các nét văn hóa của nơi
tạo ra hàng hóa đó. Ở nước ta từ trước đến nay vẫn tồn tại nhiều nghề với
nhiều làng nghề truyền thống và đã có tên tuổi trong lịch sử phát triển đất
nước, con người Việt Nam như: Tơ lụa Hà Đông, Gốm Phù Lãng, Gỗ Đông
Kỵ, Gốm Bát Tràng…Ở những nơi đó hội tụ các nghệ nhân lành nghề và
chính họ đã tạo ra những sản phẩm có thể nói là những tác phẩm nghệ thuật
Từ đó cho thấy hàng TCMN là những sản phẩm mang tính chất truyền
thống và độc đáo của từng vùng, có giá trị chất lượng cao, vừa là hàng hóa lại
là những sản phẩm văn hóa, nghệ thuật, mỹ thuật thậm chí có thể trở thành di
sản văn hóa của dân tộc, mang bản sắc văn hóa của từng vùng lãnh thổ hay
từng quốc gia nơi sản xuất ra những sản phẩm đó. Hàng thủ công mỹ nghệ
không những là những tác phẩm phục vụ cho đời sống tinh thần hay nhu cầu

Theo cách phân loại này sẽ giúp cho khách hàng biết rõ hơn về nguồn gốc của
hàng thủ công mỹ nghệ và có thể làm tăng được mức độ nổi tiếng của từng
sản phẩm thủ công mỹ nghệ khi so sánh các sản phẩm này ở từng làng nghề
khác nhau.
- Ngoài ra chúng ta có thể phân loại hàng TCMN theo công dụng của
từng sản phẩm. Tức là có thể phân hàng thủ công mỹ nghệ thành hàng để sử
dụng (giỏ hoa, lọ, cốc, chén, giường, tủ, bàn, ghế…) và hàng để “chơi” (đồ
lưu niệm, tranh treo tường, đồ trang trí…). Qua cách phân loại có thể thấy
được hàng thủ công mỹ nghệ là loại hàng hóa có thể thỏa mãn cùng lúc hai
mục đích “dùng” và “chơi”, tuy nhiên mỗi sản phẩm vẫn giữ được nét văn
hóa và nghệ riêng của từng làng nghề sản xuất ra chúng.
Trên đây là một số cách phân loại hàng thủ công mỹ nghệ, tuy nhiên
trong đề tài này chỉ đề cập đến cách phân loại thứ nhất là phân loại theo mặt
hàng và dùng cách phân loại này để phân tích xuyên suốt đề tài.
SV: Vũ Thị Lan Anh Lớp: QTKD Thương Mại 46 A
8
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Cấn Anh Tuấn
1.1.1.3. Đặc điểm của hàng Thủ công mỹ nghệ.
a) Đặc điểm chung của hàng thủ công mỹ nghệ
- Tính đa dạng: Hàng thủ công mỹ nghệ được sản xuất ra từ những
nguyên liệu rẻ tiền và sẵn có ở thiên nhiên bao gồm các loại nguyên liệu có
nguồn gốc từ thực vật: vỏ cây, thân gỗ, thân sợi, các loại lá, củ…hay các loại
nguyên liệu xuất phát từ các loại động vật như da động vật, ngà sừng…cùng
với một số loại nguyên liệu được lấy từ đất, đá hay các kim loại, các phế liệu
của ngành sản xuất khác…Đây là ưu thế lớn nhất của ngành sản xuất hàng thủ
công mỹ nghệ của Việt Nam, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ có cơ hội phát triển từ việc tận dụng
nguyên vật liệu sẵn có trong nước để tạo ra các sản phẩm này. Sự phong phú
của nguyên liệu cũng thể hiện được tính đa dạng của sản phẩm thủ công mỹ
nghệ và tạo nên những sản phẩm độc đáo. Tính đa dạng của sản phẩm thủ

- Tính văn hóa: Thủ công mỹ nghệ là sản phẩm có từ lâu đời, tồn tại và
phát triển trong các làng nghề truyền thống, được làm ra từ các thợ thủ công
hay các nghệ nhân. Mỗi sản phẩm thủ công mỹ nghệ đều được tạo ra trong
một làng nghề nhất định, mang sắc thái của một khu vực địa lý và của một
cộng đồng dân cư đó với những điều kiện tự nhiên, phong tục tập quán xã hội
khác nhau nên đã hình thành nhiều ý tưởng, kiểu dáng loại sản phẩm khác
nhau.
Thông qua tiêu dùng sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ khách hàng có
thể cùng lúc thỏa mãn hai mục đích: “dùng” và “chơi”. Khách hàng khi tiêu
dùng hàng thủ công mỹ nghệ có xu hướng tạo ra sự kết hợp hài hòa giữa nhu
cầu tiêu dùng và và cảm nhận được giá trị nghệ thuật của sản phẩm từ sáng
tạo trong tạo dáng, sự khác biệt của từng loại sản phẩm, sự tinh xảo và điêu
luyện của người thợ và hơn cả là sự kết tinh những nét văn hóa của dân tộc
được truyền vào từng sản phẩm. Do đó việc nắm bắt xu hướng tiêu dùng của
SV: Vũ Thị Lan Anh Lớp: QTKD Thương Mại 46 A
10
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Cấn Anh Tuấn
khách hàng sẽ giúp làng nghề có cơ hội để định hướng tập trung sản phẩm của
mình cho phù hợp với đòi hỏi của các nhóm khách hàng tiêu dùng khác nhau.
Theo nghiên cứu của Ủy ban Thương mại Quốc tế thì khách hàng khi sở hữu
một thứ hàng thủ công mỹ nghệ nào đó, họ thường nghĩ chính mình đang nắm
giữ một biểu tượng minh chứng đặc trưng cho nền văn hóa truyền thống của
một dân tộc hay một địa phương, nơi sản xuất ra hàng thủ công mỹ nghệ đó.
Chính vì vậy hàng TCMN mang tính văn hóa cao.
- Tính mỹ thuật: Một đặc trưng rất dễ dàng nhận biết từ hàng thủ công mỹ
nghệ là tính mỹ thuật. Mỗi sản phẩm là một tác phẩm nghệ thuật vừa có giá trị sử
dụng, vừa có giá trị thẩm mỹ cao, đậm đà bản sắc dân tộc và mỗi sản phẩm có thể
nói là đều mang linh hồn đất Việt. Khác với những sản phẩm công nghiệp khác
được sản xuất bằng nhiều loại máy móc hiện đại thì hàng thủ công mỹ nghệ có giá
trị cao là vì sản phầm mang tính thủ công và chủ yếu là dựa vào đôi bàn tay khéo

và đồ lưu niệm…Những sản phẩm đó được trang trí bởi rất nhiều màu men
nhưng phổ biến là các màu men được ưa chuộng như: men ngọc, men vàng
nhẹ, men chảy và được kết hợp với các hoạ tiết gắn liền với những nét quen
thuộc trong cuộc sống hàng ngày như: mái chùa, cây đa, cổng làng, hoa sen,
thiếu nữ gẩy đàn…
* Hàng mây tre đan, hàng cói.
Đây là những sản phẩm rất độc đáo được làm từ các nguyên liệu từ
cây tre, cây mây, cây song là những loại cây đặc sản của miền nhiệt đới. Từ
lâu rồi các nghệ nhân đã tạo ra rất nhiều sản phẩm từ những nguyên liệu này
như: giường, bàn, ghế, lãng hoa, đồ lưu niệm…Hàng mây tre đan được phát
triển trong cả nước với những làng nghề nổi tiếng như: làng Phú Vinh – Hà
Tây, Ngọc Động- Hà Nam, Thượng Hiền- Thái Bình, Vĩnh Ba- Phú Yên, Yên
Sở- Hà Tây, Nho Quan- Ninh Bình…
SV: Vũ Thị Lan Anh Lớp: QTKD Thương Mại 46 A
12
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Cấn Anh Tuấn
Ngoài ra, hàng cói cũng rất nổi tiếng với các địa danh như: làng Tân
Lễ- Thái Bình, Kim Sơn – Ninh Bình, Nga Sơn – Thanh Hoá…
* Hàng gỗ thủ công mỹ nghệ
Loại hàng này đã xuất hiện từ lâu đời và đã đạt đến trình độ chất lượng
khá cao, là đồ dùng thông dụng khắp mọi nơi. Người Việt Nam nước ta dùng
sản phẩm đồ gỗ để làm giường tủ, bàn, ghế hay tranh gỗ, ngai, tượng, bàn thờ,
ống hương…
Chạm khắc gỗ nổi tiếng ở nước ta có làng Phù Khê, Hương Mạc, Đồng
Kị, Đồng Quan (Bắc Ninh), Bích Chu (Vĩnh Phú), Vân Hà (Hà Nội), Lý
Nhâm (Hà Nam), La Xuyên (Nam Định), Mỹ Xuyên (Huế)…
* Hàng dệt: Kỹ thuật dệt vải bông gai tơ tằm có từ thời Hùng Vương,
cho đến bây giờ ở Việt Nam đã có rất nhiều những làng nghề nổi tiếng như:
Tương Giang- Bắc Ninh, Vạn phúc- Hà Tây, Ninh Giang- Ninh Bình…Hàng
dệt rất phong phú và thường được làm ra từ những đôi bàn tay khéo léo của

như: Vàng, bạc. Các sản phẩm được tạo ra rất đa dạng như: Nhẫn, vòng tay,
dây truyền, hoa tai…Riêng ở Việt Nam, các hàng hóa làm từ vàng được bắt
nguồn từ làng Định Công (Hà Nội), nghề bạc bắt nguồn từ làng Đồng Xâm
( Thái Bình). Hiện nay, đây là ngành hàng rất phát triển và có tiềm năng rất
lớn có thể đánh giá được tiềm lực của nước xuất khẩu mặt hàng này.
Ngoài ra có một số sản phẩm trên thì ở Việt Nam còn phát triển ngành
giấy thủ công, các mặt hàng thổ cẩm …cũng là những ngành nghề có từ lâu
đời và phát triển cho đến bây giờ.
1.1.2.Tình hình xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam.
1.1.2.1. Các làng nghề sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam
a) Những làng nghề có xu hướng phát triển mạnh.
Những làng nghề có xu hướng phát triển mạnh thường phải là những làng
nghề có nhiều ưu thế trong việc bảo đảm và cung cấp nguồn nguyên liệu đầu vào
SV: Vũ Thị Lan Anh Lớp: QTKD Thương Mại 46 A
14
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Cấn Anh Tuấn
và có nhu cầu thị trường ổn định. Ở Việt Nam thì những làng nghề như làng nghề
chế biến lương thực, thực phẩm (đặc biệt là chế biến nông sản), chế biến gỗ, mây
tre đan, chạm khảm…là những làng nghề khá phát triển từ trước tới nay.
Những làng nghề này có đặc điểm chung là có đội ngũ lao động trong
nghề co tay nghề khá cao, có khả năng sản xuất sản phẩm có độ tinh xảo, độc
đáo và có độ nhanh nhậy về thị trường và mẫu mã hàng hóa, có nhiều bí quyết
nghề nghiệp, bí quyết kỹ thuật và nghệ thuật cho phép họ có khả năng cạnh
tranh hơn.
b) Những làng nghề phát triển không ổn định.
Ngược với các làng nghề thuộc nhóm những làng nghề có xu hướng
phát triển mạnh ở trên, thì các làng nghề này thường sản xuất những sản phẩm
mà nhu cầu có sự biến đổi khá nhanh và biến động lớn, tuy nhiên khả năng
cải tiến lại, đổi mới, đa dạng hoá sản phẩm, thay đổi công nghệ lại rất chậm
và tương đối khó khăn. Sản phẩm của những làng nghề này chủ yếu phục vụ

này chưa đồng bộ. Nhà nước tạo ra môi trường kinh doanh cho các
doanh nghiệp, các làng nghề bằng cách ban hành những chính sách
hay các văn bản pháp luật…và từ đó các làng nghề có những điều
kiện thuận lợi để hoạt động và phát triển. Các làng nghề thủ công
truyền thống Việt Nam không chỉ có lợi thế mà còn có vận hội mới
để phát triển. Tuy vậy, vẫn còn có những tồn tại như:
+ Chính sách của nhà nước ban hành rất nhiều nhưng chưa đầy đủ đối
với các làng nghề truyền thống. Hơn nữa, các chính sách này chưa đi sâu vào
cuộc sống nhất là các làng nghề . Việc tuyên truyền, phổ biến chính sách
trong nhân dân các vùng nông thôn luôn còn nhiều hạn chế, do đó chưa tạo
được hành lang pháp lý cần thiết cho người sản xuất và kinh doanh các loại
sản phẩm mang tính nghệ thuật cao này.
SV: Vũ Thị Lan Anh Lớp: QTKD Thương Mại 46 A
16
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Cấn Anh Tuấn
+ Một số quy định và chính sách chưa hợp lý: đánh đồng mặt hàng thủ
công mỹ nghệ với các mặt hàng công nghiệp khác về mức thuế suất, chưa có
chế độ trợ giá, bảo hộ mậu dịch, vay vốn cho các làng nghề, hay cho các thợ
thủ công. Còn rất ít những chính sách đãi ngộ cần thiết cho các nghệ nhân,
nghệ sĩ nổi tiếng, có cống hiến lớn lao…
+ Khó khăn trong chính sách mở cửa, giaolưu hàng hoá làm hàng nước
ngoài tràn ngập vào thị trường Việt Nam, bằng nhiều cách khác nhau làm cho
mặt hàng thủ công trong nước chịu sức ép nặng của cạnh tranh.
- Cơ sở hạ tầng còn yếu kém và trình độ kỹ thuật công nghệ còn rất thô
sơ và ít được cải tiến là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng nhiều làng nghề
chậm được mở rộng, ít có doanh nghiệp có quy mô vừa và lớn.
Hệ thống đường giao thông và mặt bằng để xây dựng lò, xưởng sản
xuất có vị trí quan trọng đã được nhiều làng nghề chú ý đến song nhiều nơi
còn chưa làm được do chi phí cao. Chính vì thế, các làng nghề gặp không ít
những khó khăn và trở ngại cho việc đi lại và việc sản xuất.

Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt
Nam giai đoạn 1999- 2007
Năm Giá trị XK hàng
TCMN (tr. USD)
Tổng giá trị XK cả
nước (tr. USD)
Tỷ trọng kim ngạch XK hàng
TCMN/TKNXK(%)
1999 168.28 14520.2 1.46
2000 227.44 14448.7 1.57
2001 229.94 15027.3 1.53
2002 334.69 16705.9 2.00
2003 361.24 20176.1 1.79
2004 398.13 26003.00 1.53
2005 560 30850.00 1.81
2006 630.4 39600.00 1.59
2007 750 47540.00 1.58
Nguồn: Vụ XNK- Bộ Thương Mại
Qua bảng 1 trên ta thấy kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
của Việt Nam trong thời gian qua tăng lên một cách đều đặn. Tỷ trọng kim
SV: Vũ Thị Lan Anh Lớp: QTKD Thương Mại 46 A
18
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Cấn Anh Tuấn
ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trên tổng kim ngạch xuất khẩu hàng
hóa của cả nước nói chung có xu hướng tăng lên cho đến năm 2002 tuy nhiên
lại bị giảm xuống trong những năm về sau. Điều này là do Việt Nam đã mở
rộng được thêm nhiều thị trường mới trong khu vực thị trường Châu Á- Thái
Bình Dương. Tuy nhiên, tỷ trọng một số năm gần đây bị giảm xuống là do tỷ
trọng xuất khẩu của các ngành công nghiệp dịch vụ khác tăng lên một cách
mạnh mẽ.

biến động chính trị (năm 2000 chỉ đạt 40 triệu USD). Từ sau năm 2000, thị
trường xuất khẩu chính là Mỹ, EU, Nhật Bản, Nga và nhiều nước ASEAN, do
những nỗ lực tìm kiếm thị trường. Trong đó, EU chiếm 50% giá trị xuất khẩu,
Nhật Bản được xem là thị trường chính ở Châu Á, với 5% tỷ trọng. Mỹ là thị
trường đầy triển vọng. Số các nước nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, từ 50
năm 1996, tăng lên 133 nước vào năm 2005; và hiện nay, sản phẩm thủ công
mỹ nghệ của Việt Nam đã có mặt hầu khắp các quốc gia trên thế giới.
Theo một con số thống kê gần đây, giá trị xuất khẩu các mặt hàng thủ
công mỹ nghệ chính yếu qua các năm từ 2000 đến 2006 như sau: 2000 đạt
235 (triệu USD), 2001 đạt 235, 2002 đạt 331, 2003 đạt 367, năm 2004 đạt
450, năm 2005 đạt 560 và 630,4 vào năm 2006. Tốc độ tăng trưởng bình quân
trong giai đoạn này là 17,87%.Với thị trường EU ta xuất khẩu mặt hàng chính
là gỗ, trong đó, Đức, Pháp, Hà Lan đã chiếm 10% tổng hàng hóa nhập khẩu.
Tỷ lệ tăng trưởng trong tổng kim ngạch xuất khẩu là 21,28%, nhưng giá trị
kim ngạch xuất khẩu đạt 2,8%. Thị trường Nhật Bản: kim ngạch xuất khẩu
sang thị trường này là 3,79 triệu USD năm 2004 (tăng 16,6% so với 2003).
Khách hàng Nhật rất ưa thích mặt hàng gỗ và số lượng khách du lịch cũng gia
tăng. Hiện có nhiều công ty Việt Nam sản xuất và xuất khẩu sang thị trường
Nhật Bản. Ngoài ra, thị trường Nam Phi cũng tăng trưởng với nhiều triển
SV: Vũ Thị Lan Anh Lớp: QTKD Thương Mại 46 A
20
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Cấn Anh Tuấn
vọng khi nhiều Cty Việt Nam đang tiến hành nhiều hoạt động xúc tiến thương
mại tại thị trường Nam Phi.
Theo TS. Nguyễn Văn Sánh, Phó viện trưởng Viện nghiên cứu phát
triển ĐBSCL thì: "Người Việt vốn có tập quán sử dụng hàng thủ công mỹ
nghệ từ lâu đời. Do đó, khi có thu nhập cao, hành vi tiêu dùng sẽ theo xu
hướng sử dụng những hàng hóa có nguồn gốc nguyên liệu từ thiên nhiên và từ
các nghề truyền thống". Tuy nhiên, mặc dù đã và đang có những đóng góp
tích cực vào kim ngạch xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn,

179.7 200 275 378 458.5
Nguồn: Bộ Thương Mại
EU là khu vực thị trường có nhiều triển vọng cho xuất khẩu hàng thủ
công mỹ nghệ của Việt Nam, và từ năm 2000 trở lại đây thị trường EU chiếm
khoảng 50% giá trị xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam. Nước ta
xuất khẩu sang thị trường EU các mặt hàng chính là gỗ, trong đó, Đức, Pháp,
Hà Lan đã chiếm 10% tổng hàng hóa nhập khẩu. Qua bảng trên ta thấy được
sự tăng lên rõ rệt của xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở nước ta sang thị
trường EU. Cụ thể là từ năm 2003, kim ngạch mới chỉ đạt 179.7 triệu USD,
đến năm 2004 thì kim ngạch đó tăng lên là 200 triệu USD, năm 2005 đạt 275
triệu USD- chiếm 5,4% kim ngạch nhập khẩu của khu vực này. Năm 2006, v
ới kim ng ạch l à 378 tri ệu USD Việt Nam xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
vào Pháp đạt 81,8 triệu USD; Đức đạt 62,5 triệu USD; Bỉ đạt 36 triệu USD;
Anh 21,4 triệu USD; Hà Lan 18,9 triệu USD; Italia 16,2 triệu USD; Tây Ban
Nha 18,8 triệu USD... Theo nhận định của Bộ Thương mại, trong tương lai,
đây là khu vực thị trường có khả năng tiêu thụ mạnh nhiều mặt hàng thủ công
mỹ nghệ của Việt Nam. Vì vậy, mục tiêu phấn đấu đến năm 2010 sẽ nâng tỷ
lệ này lên trên 6,4% (đạt kim ngạch trên 0,6 tỷ USD). Riêng năm 2007 kim
ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sang thị trường EU đạt
458.5 triệu USD tăng 21.3% so với năm 2006
SV: Vũ Thị Lan Anh Lớp: QTKD Thương Mại 46 A
22
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Cấn Anh Tuấn
Các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam trong khối Liên Minh
Châu Âu (EU) là: thị trường xuất khẩu hàng TCMN lớn nhất của Việt Nam
trong khối EU là thị trường Đức (26.4%), tiếp đến là Pháp(14,7%), Hà Lan
(11.6%), Anh(11%), Bỉ(10.7%), Ý(7,4%), Tây Ban Nha(6.3%), Thụy Điển
(5%), còn lại là một số thị trường như: Đan Mạch, Phần Lan, Hy Lạp…Các
sản phẩm thủ công mỹ nghệ chủ yếu xủa Việt Nam xuất khẩu sang thị trường
EU như: hàng gốm sứ, hàng mây tre đan, hàng sơn mài, đồ gỗ mỹ nghệ, hàng

xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ theo hình thức xuất khẩu tại chỗ.Đó là một
thế mạnh của Việt Nam cần được phát huy và cần được hỗ trợ để phát triển cho
việc xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống ở Việt Nam.
Hàng TCMN của Việt Nam mặc dù chiếm được nhiều ưu thế trong
xuất khẩu, nhưng vấn đề đặt ra bây giờ là làm thế nào để chiếm giữ thị trường
xuất khẩu. Theo nghiên cứu thị trường, nhu cầu của một số thị trường lớn về
hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam như sau: Nhu cầu của thị trường Hoa
Kỳ nghiên cứu cho đến năm 2010 là khoảng 400 triệu USD hàng TCMN của
Việt Nam, với thị trường EU thì nhu cầu hàng TCMN này cao hơn với con số
600 triệu USD năm 2010. Đặc biệt hơn với thị trường Nhật Bản là thị trường
được xếp thứ hạng cao trong số những thị trường xuất khẩu của Việt Nam, là
thị trường có nhiều tiềm năng tăng trưởng hứa hẹn trong tương lai. Kim ngạch
xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản mỗi năm
khoảng 54 triệu USD/ năm, chiếm 3% kim ngạch nhập khẩu hàng TCMN của
Nhật Bản. Đó là một số thị trường có tiềm năng lớn để Việt Nam có thể xuất
SV: Vũ Thị Lan Anh Lớp: QTKD Thương Mại 46 A
24
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Cấn Anh Tuấn
khẩu hàng TCMN sang, và dựa vào những con số này, Việt Nam sẽ phải cố
gắng nhiều hơn để phát triển xuất khẩu hàng TCMN.
1.1.3.2.Tiềm năng của Việt Nam trong việc sản xuất và xuất khẩu hàng thủ
công mỹ nghệ.
* Tiềm năng về lao động.
Việt Nam là nước có nguồn lao động trẻ, rất dồi dào và có tri thức, có khả
năng tiếp thu nhanh thêm với cần cù, sáng tạo và có tính cộng đồng cao. Đó là ưu
điểm lớn nhất của lao động ở Việt Nam. Mặt khác trong các làng nghề sản xuất
những mặt hàng thủ công mỹ nghệ ở nước ta lại có những nghệ nhân hay những
người thợ rất giỏi, có khả năng tiếp nối truyền thống và rất tâm huyết với nghề, có
ý thức và tinh thần trách nhiệm đào tạo rất cao trong việc truyền lại nghề và những
kiến thức cần có cho thế hệ trẻ. Như vậy, có thể nói tiềm năng về lao động là tiềm


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status