Nghiên cứu thực trạng, các yếu tố nguy cơ và các phương pháp điều trị thoát vị địa đệm cột sống - Pdf 13

B KHOA HC V CễNG NGH B Y T

000 TI C LP CP NH NC BO CO TNG HP
KT QU KHOA HC CễNG NGH TI NGHIấN CU THC TRNG, CC YU T
NGUY C V CC PHNG PHP IU TR
THOT V A M CT SNG

M S: TL.2008G/19

cơ quan chủ trì: bệnh viện hn việt đức
chủ nhiệm đề tài: ts. nguyễn văn thạch 8734 hµ néi - 2011LỜI CAM ĐOAN

Chúng tôi cam đoan tất cả kết quả công bố dưới đây là trung
thực, do các thành viên đã đăng ký tham gia đề tài cấp nhà nước
“Nghiên cứu thực trạng, các yếu tố nguy cơ và các phương pháp
điều trị thoát vị đĩa đệm cột sống” Mã số: ĐTĐL.2008G/19 thực
hiện. Các kết quả này chưa được công bố ở bất kỳ công trình nghiên
cứu nào.

Chủ nhiệm đề
tài
TS. Nguyễn Văn Thạch

1
ĐẶT VẤN ĐỀ

Thoát vị đĩa đệm (TVĐĐ) là tình trạng dịch chuyển chỗ của nhân nhầy
đĩa đệm vượt quá giới hạn sinh lý của vòng xơ, gây nên sự chèn ép các thành
phần lân cận (tủy sống, các rễ thần kinh…), biểu hiện chính là đau thắt lưng

các phương pháp điều trị thoát vị đĩa đệm. Ngay từ 1986, Hồ Hữu Lương [15]
đã thông báo 61 bệnh nhân thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng với kết quả
cho thấy thoát vị đĩa đệm nhiều tầng chiếm 22.9% trong tổng số thoát vị đĩa
đệm. Các nghiên cứu về thoát vị đĩa đệm đề
u thực hiện trên các đối tượng
bệnh nhân điều trị tại cơ sở y tế. Chưa có nghiên cứu nào về tỷ lệ thoát vị đĩa
đệm, mức độ thoát vị, yếu tố nguy cơ, các phương pháp điều trị thoát vị đĩa
đệm cũng như quy trình điều trị khoa học, hợp lý ở nước ta. Việc xác định tỷ
lệ thoát vị đĩa đệm c
ột sống cũng như xác định các yếu tố nguy cơ gây bệnh,
quy trình điều trị tại điều kiện cụ thể Việt Nam giúp chúng ta đề xuất phương
án dự phòng, giáo dục vệ sinh lao động cho người dân, phóng tránh và điều trị
có hiệu quả thoát vị đĩa đệm cột sống, giảm gánh nặng kinh tế y tế, nâng cao
chất lượng cuộc sống của người dân. Vì vậy chúng tôi tiế
n hành nghiên cứu
này với hai mục tiêu sau:
1. Đánh giá được thực trạng, các yếu tố nguy cơ của thoát vị đĩa đệm
2. Xây dựng và đánh giá được các quy trình điều trị thoát vị đĩa đệm 

lối trước bằng đường mổ trước bên trong mổ thoát vị đĩa đệm đốt sống cổ.
Tại Việt Nam TVĐĐ cột sống cổ chỉ được chú ý và phát hiện vào những
năm 80 - 90 của thế kỷ trước. Năm 1981, Lê Xuân Trung, Trương Văn Việt
và Võ Văn Nho [29] đã báo cáo 6 trường hợp thoát vị đĩa đệm c
ột sống cổ

4
được mổ trong đó có 4 trường hợp được mổ lối trước với bộ dụng cụ tự chế
tạo theo nguyên tắc dụng cụ Cloward. Các trường hợp này đều có ảnh hưởng
trực tiếp từ chấn thương và tất cả các trường hợp đều cho kết quả tốt. Năm
1995, Trương Văn Việt và Võ Văn Nho báo cáo 8 trường hợp thoát vị đĩa
đệm cột sống c
ổ được điều trị phẫu thuật bằng phương pháp Robinson tại
bệnh viện Chợ Rẫy. Năm 1996, tại bệnh viện Việt Đức và học viện Quân Y
103 đã áp dụng mổ cột sống cổ bằng đường mổ lối trước. Tháng 3/1999,
Dương Chạm Uyên và Hà Kim Trung [29] báo cáo 64 trường hợp mổ cột
sống cổ lối trước tại hội nghị phẫu thuật thầ
n kinh Việt Úc. Năm 2005, Võ
Văn Thành, Ngô Minh Lý và Trương Minh Hiển [23] ở bệnh viện chấn
thương chỉnh hình báo cáo 100 trường hợp mổ thoát vị đĩa đệm ở lối trước.
Năm 2007, Nguyễn Công Tô và Nguyễn Đình Hưng [26] đã báo cáo phẫu
thuật 24 trường hợp thoát vị đĩa đệm cột sống cổ có hội chứng rễ và hội
chứng tủy bằng sử dụng Cespace hàn liên thân đốt có kết quả
tốt.
1.1.2 Những nghiên cứu về TVĐĐ cột sống thắt lưng
Những nghiên cứu về lâm sàng và mô tả triệu chứng học của đau thắt
lưng đã được hoàn chỉnh bởi các nhà lâm sàng học nổi tiếng của thế kỷ 19 và
đầu thế kỷ 20, nhưng trước thời Mixter và Barr (1934) [67], chưa có ai tìm
được nguồn gốc chủ yếu của đau thắt lưng là do TVĐĐ, các mô tả đầ
u tiên về

đây là phẫu thuật nhanh, thời gian trung bình từ 30 phút đến 1 giờ. Khoảng
90% bệnh nhân sau mổ giảm đ
au từ tốt đến rất tốt. Tỷ lệ biến chứng như tổn
thương rễ, rách màng cứng dưới 1.5%. Tỷ lệ phải mổ lại theo dõi lâu dài sau
5-10 năm là dưới 5%. Tỷ lệ thành công từ 88% đến 98.5% qua nhiều tác giả
báo cáo. Maroon cho rằng đây là phương pháp có kết quả tốt hơn các phương
pháp trước đây ông đã áp dụng như tiêm tinh chất đu đủ, cắt đĩa đệm qua da
tự
động , phẫu thuật mổ mở
Phẫu thuật nội soi được Kambin [57] phát triển và trở thành một phương
pháp được nhiều phẫu thuật viên về chấn thương chỉnh hình ưa chuộng vì hệ
thống nội soi trên nguyên lý của nội soi khớp. Phương pháp này cũng được
một số tác giả như Anthony Yeung, Martin Knight, Sang Ho Lee, Thomas

6
Hoogland ủng hộ [91]. Hiện nay, với hệ thống nội soi mới nhất cho phép lấy
được cả các thoát vị đã vỡ và di rời trong ống sống, điều mà trước kia mọi
người nghĩ là chỉ có mổ mở mới giải quyết được.
Nhìn chung phẫu thuật nội soi đem lại nhiều ưu điểm như: thời gian
nằm viện ngắn (1-2 ngày), phương pháp mổ an toàn (vì bệnh nhân tỉ
nh nên
khi dụng cụ chạm hoặc cạnh tổ chức thần kinh sẽ thấy đau hoặc tê chân), sau
mổ đau rất ít (vì tổn thương phần mềm ít nhất), bảo vệ được các thánh phần
phía sau của cột sống (không làm mất vững).
Nucleoplasty là một kỹ thuật ít xâm lấn nhằm làm giảm áp lực nội đĩa
đệm bằng cách sử dụng công nghệ coblation. Công nghệ coblation là một quá
trình không tạo ra sức nóng, có kiể
m soát, sử dụng năng lượng của sóng cao
tần để kích thích chất điện phân ở trong môi trường dẫn, giống như dung dịch
muối, tạo ra một đám mây điện tích. Năng lượng phân tử của đám mây điện

Mai (1991- 2000), đứng thứ hai sau viêm khớp dạng thấp.
Trần Đức Thái và cộng sự (2001) [20], nghiên cứu 45 trường hợp mổ
TVĐĐ/ CSTL thấy kết quả đạt tố
t và khá đạt 91.12 %, tỷ lệ nhiễm trùng và
tái phát sau mổ thấp (2.2%).
Vũ Hùng Liên, Trần Mạnh Trí [14] báo cáo 158 trường hợp phẫu thuật
mổ mở thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng cho kết quả tốt là 64.5%, tỷ lệ
thoát vị tái phát là 7/158( 0.04%) sau theo dõi 2-3 năm.
Nguyễn Văn Chương [5] báo cáo điều trị thoát vị đĩa đệm cột sống thắt
lưng bằng phương pháp chọc hút đĩa đệm qua da nhân 15 tr
ường hợp đầu tiên.
Kết quả rất tốt( 20%), tốt (26.67%), vừa( 40%), kém (13.33%).
Vũ Hùng Liên và Bùi Quang Tuyển [13] báo cáo kết quả điều trị ngoại
khoa thoát vị đĩa đệm thắt lưng – cùng tại khoa phẫu thuật thần kinh BV 103
cho 2303 lượt bệnh nhân bị thoát vị đĩa đệm với kết quả: 65.28% tốt, 24.15%
khá, 9.2% vừa, 1.35% là kém. Tỷ lệ thoát vị tái phát là 1.95% (1996-2002).
1.2 Một số đặc điểm dịch tễ họ
c của bệnh thoát vị đĩa đệm
Thoát vị đĩa đệm là một trong những nguyên nhân chủ yếu của "hội
chứng đau cột sống" (TVĐĐ, chấn thương dây chằng đốt sống, thoái hóa dốt
sống). Đây là một vấn đề sức khỏe lớn của cộng đồng, tác động đến rất nhiều
người, ở mọi giới và mọi lứa tuổi, làm ảnh h
ưởng đến khả năng lao động và

8
tốn phí rất nhiều tiền bạc cho việc điều trị. Vấn đề này hiện đang được sự
quan tâm đặc biệt của xã hội và các nhà khoa học vì tỷ lệ mắc bệnh ngày càng
gia tăng. Nhiều khảo sát dịch tễ học ở cộng đồng cho thấy khoảng 80% dân số
ít nhất có một lần biểu hiện hội chứng đau lưng. Một báo cáo công bố trên tạp
chí Forbes tháng 8 n

thẳng thì đĩa đệm phải chịu áp lực cao thường xuyên, đĩa đệm lại chỉ được
nuôi dưỡng bằng thẩm thấu nên loạn dưỡng và thoái hóa xuất hiện. Ở lứa tuổi
30 đã xuất hiện thoái hóa về cấu trúc và hình thái và quá trình này diễn ra liên
tục, tăng dần theo tuổi [60].
- Giới: Nhiều khảo sát dịch tễ học cho thấy, tỷ lệ bệnh TVĐĐ tại cộng
đồng phân b
ố đều ở cả 2 giới nam và nữ. Điều rõ ràng là những người lao động
mang vác nặng có nguy cơ bị TVĐĐ cao hơn. Lao động phụ nữ mà mang vác
nặng thì dễ bị tổn thương cột sống hơn, nhưng vì số lao động năng là nam giới
chiếm số đông nên tỷ lệ mắc TVĐĐ cao hơn nghiêng về phía nam giới [60].
- Nghề nghiệp: Một số nghề buộc c
ột sống phải vận động quá giới hạn
sinh lý như lái xe cơ giới, công nhân khuân vác, thợ xây dựng, thợ may …
hoặc sau một đợt mang vác nặng đã trở thành yếu tố thúc đẩy nhanh quá trình
thoái hóa đĩa đệm. Những nghề đòi hỏi ngồi lâu trên ghế không có tay vịn/ghế
đẩu/võng. Ngồi trên sàn nhà, ngồi bắt chéo chân/tư thế ép táo, ví dụ: cầu
nguyện, xem ti vi, ngồi ăn…
Ngồi liên tục kéo dài (ví dụ, các công nhân làm việc ngồi, các công
việc tôn giáo, những giám đốc phải ngồi nhiều, nhân viên lễ tân, người bán
vé, lái xe, điều hành máy tính, người soạn văn bản, trực điện thoại…). Ngồi
xổm. Sử dụng những dụng cụ phẳng, thấp khi ngồi (ví dụ cạo sàn nhà, nấu ăn,
chế biến thực phẩm, thợ sửa xe đạp, xe máy, nhổ cỏ bằng tay, thợ gốm, làm
đường, giặt giũ quần áo…).
Đ
i lên dốc, xuống dốc, đạp xe đạp nhiều.
Cúi nhiều (ví dụ: làm nghề nông, làm việc trên cánh đồng (không có
mang vác nặng), nhổ cỏ, làm vườn, câu cá, chèo thuyền, giặt giũ, rải đường,
thợ gốm, sửa khóa, dệt, đập gạch đá, làm nghề mộc, trát tường, làm gạch, đúc
đồng, vv).
Đứng kéo dài (Ví dụ: xếp hàng, bán hàng, y tá, bán hàng rong, thợ cắt

theo chức năng, đó là đoạn cổ (7 đố
t), đoạn lưng (12 đốt), đoạn thắt lưng (5
đốt), đoạn cùng (5 đốt) và đoạn cụt (3 – 4 đốt). Mỗi đốt có 3 phần chính: thân,
cung sau và các mỏm. Giữa cung và thân có lỗ đốt sống, tạo nên ống tủy khi
các đốt sống chồng lên nhau, trong đó chứa đựng tủy sống. Các đốt sống nằm

11
chồng lên nhau và đệm giữa các đốt sống là các đĩa đệm gian đốt sống, riêng
giữa CI-CII và đoạn cùng cụt không có đĩa đệm.
1.3.1.1 Thân đốt sống cổ
Có hình trụ, trên và dưới được viền xung quanh bởi gờ xương, các mặt
này giáp với đĩa đệm, do vậy đĩa đệm chịu lực trực tiếp từ thân đốt sống. Mặt
trên có hai gờ xương nổi lên ở hai bên và khớp với phần dướ
i của thân phía
trên, ở giữa có tổ chức tạo keo, có cấu trúc như một khớp, có vai trò giữ đĩa
đệm không lệch sang hai bên, là đặc điểm riêng của vùng cổ.

Hình 1.1: Cột sống cổ nhìn thẳng và nghiêng [52]
Từ C
3 – 7
các thân sống có hình dạng tương tự nhau như một tam giác
rỗng, đường kính ngang lớn hơn đường kính trước sau. Bờ dưới của đốt sống
trên hơi lồi ra trước và xuống dưới hơn bờ trên đốt sống dưới. Phía sau thân
đốt sống có hai cuống xuất phát và nhô ra phía sau, từ hai cuống này có hai
bản sống hướng ra phía sau để tạo nên ống sống. Mỏm gai nhô ra phía sau từ
nơi hai bản sống gạp nhau tại đường gi
ữa, cho phép các cơ bám vào. Hai bên
thân sống là các mỏm ngang hướng ra ngoài và tạo nên bờ trước ngoài của
ống sống. Các mỏm ngang từ C
3 – 6

dưới sâu.
- Mỏm ngang dài và hẹp, mỏm gai rộng, thô, dày, hình chữ nhật đi thẳng
ra sau.
- Mặt khớp của mỏm khớp nhìn vào trong và về sau, mặt khớp d
ưới có
tư thế ngược lại.

Hình 1.2: Giải phẫu đốt sống thắt lưng nhìn từ trên xuống [52]

13
Đây là đoạn cột sống đảm nhiệm chủ yếu các chức năng của cả cột
sống, đó là chức năng chịu tải trọng và chức năng vận động. Các quá trình
bệnh lý liên quan đến yếu tố cơ học thường hay xảy ra ở đây, do chức năng
vận động bản lề, nhất là ở các đốt cuối L4, L5.
1.3.1.3 Đĩa đệm
Có hình thấ
u kính hai mặt lồi, cấu tạo bởi cấu trúc liên kết, dày chừng
3mm gồm các đĩa sụn, bao xơ và nhân đệm. Đĩa đệm bản chất là sụn và sợi,
nằm giữa các đốt sống từ C
2
trở xuống, chiều cao của mỗi đĩa đệm khoảng
45% chiều cao của thân sống phía dưới. Các đĩa đệm chiếm khoảng 20%
chiều cao cột sống cổ. Mặc dù độ cao phía sau của các thân sống lớn hơn phía
trước một chút, nhưng cột sống cổ lại ưỡn ra phía trước vì phía trước của mỗi
đĩa đệm lại cao hơn phía sau.
1.3.1.4 Đĩa sụn
Đĩa sụn là một hợ
p chất chứa sụn hyaline cho các chân bám vào mặt
xương của thân sống, qua các lỗ này các dưỡng chất xâm nhập và nuôi các
thành phần của đĩa đệm.

nén vào đĩa [47] . Đĩa đệm có mật độ tế bào thấp, chất tế bào này có vai trò
duy trì sự khỏe mạnh của đĩa đệm bằng việc tạo ra các chất xơ ngoại sinh
[66]. Trên thí nghiệm cho thấy đĩa đệm trưởng thành có khả năng đáp ứng với
yếu tố tăng trưởng và có thể sữa chữa đĩa đệm qua yếu tố tăng trưởng [81] .
S
ự mô tả chung này về vòng sợi có thể không được áp dụng cho tất cả các
đoạn cột sống . Ở đoạn sống cổ các vòng sợi thường không hoàn chỉnh về
phía sau.
1.3.1.6 Nhân nhày
Nhân nhày chiếm khoảng 40% thể tích của khoang liên đốt sống, chứa
khoảng 1ml chất đệm gelatin có đường kính nhỏ hơn 50% đường kính ngang
của đĩa đệm và nằm hơi lệch ra sau. Chính các cấu trúc gelatin cho phép nhân
đệm hoạt động như một c
ấu trúc hấp thu lực. Cùng với tuổi tác, các thành
phần protein của đĩa đệm thay đổi, từ đó thay đổi các đặc tính của đĩa đệm.
Khi mới sinh, nhân nhầy to, mềm giống như keo và được tạo nên bằng
chất nhầy, như một tấm tận mỏng nằm giữa hai thân đốt [46], Nhân nhày bình
thường bao gồm: một nhân giữ nước tốt chứa proteoglycan (PG), những sợi

15
colagen đan với nhau thành 1 cung sợi, nước chiếm 80% trọng lượng nhân
nhày ở trẻ em và người trẻ.
1.3.1.7 Dây chằng
Cột sống được bao phủ phía trước và phía sau theo chiều dài của nó bởi
dây chằng dọc trước và dây chằng dọc sau. Dây chằng dọc sau được mô tả
gồm 2 lớp sâu và nông. Dây chằng dọc trước và dọc sau đều đóng góp vào độ
vững, mức độ di động và mềm dẻo của cột sống.
Dây chằng dọc trước được tạo nên bởi các sợi dọc dày đặc. Những sợi
này dính chặt và các đĩa gian đốt sống và các rìa lồi lên của thân đốt sống
nhưng không dính và phần giữa của các thân đốt sống. Phần giữa các thân đốt

dọc trước, các sợi trước của đĩa và sự áp lại gần nhau của các đốt sống và các
mặt khớp.
Dây chằng dọc sau đóng vai trò quan trọng trong quá trình hình thành
khối thoát vị đĩa đệm. Dây chằng dọc sau chạy dọc từ sọ tới xương cùng, làm
thành một lá chắn ngăn không cho đĩa đệm thoát vị ra sau. Các sợi dây chằng
d
ọc sau ở vùng cổ không tập trung dày đặc ở giữa mà trải đều trong phạm vi
mặt sau ống sống. Cùng với sự hiện diện của mỏm móc, đặc điểm giải phẫu
này của dây chằng dọc sau làm giới hạn tỷ lệ các thoát vị đĩa đệm cột sống cổ
ở vùng lỗ liên hợp và tăng tỉ lệ thoát vị đĩa đệm trung tâm và cạnh trung tâm.
Khi nghiêng luôn kết hợp v
ới xoay quanh trục, các đĩa gian đốt sống bị
ép ở bên và bị căng và dài ra ở bên phía đối diện, và chuyển động được hạn
chế bởi sự căng của các cơ và các dây chằng đối kháng.
Dây chằng vàng:
Dây chằng vàng phủ phần sau của ống sống và bám từ cung đốt này
đến cung đốt khác và tạo nên một bức vách thẳng ở phía sau ống sống để bảo
vệ tuỷ sống và các rễ th
ần kinh. Chiều dày của dây chằng vàng tăng dần từ
trên xuống dưới. Dây chằng vàng có tính đàn hồi, khi cột sống cử động, sẽ
góp phần kéo cột sống trở về nguyên vị trí.
Sự phì đại của dây chằng vàng cũng là một nguyên nhân gây đau kiểu
rễ vùng thắt lưng cùng.


17
Các dây chằng khác:
Dây chằng bao khớp: bao quanh giữa khớp trên và dưới của hai đốt
sống kế cận.
Dây chằng trên gai và dây chằng liên gai có chức năng liên kết các

dọc xuống theo đường giữa, trước khe trước của tủy sống
Động mạch gai sau:
Tách ra từ động mạch đốt sống hoặc động mạch tiểu não dưới ở ngang
mức mặt trên hành não, đi dọc xuống dưới chia thành 2 nhánh: Nhánh đi
trước rễ trước, nhanh đi sau rễ sau cảu thần kinh gai số
ng.


19
Động mạch rễ:
Tách ra từ động mạch đốt sống, đi theo 2 rễ thần kinh gai sống, cho các
nhánh nối với động mạch gai trước và động mạch gai sau.
Tĩnh mạch:
Máu tĩnh mạch của tủy sống được dẫn lưu từ hệ thống tĩnh mạch của
màng cứng theo mạng cột sống trong và mạng dưới nhện trước và mạng dưới
nhện sau để ti
ếp nối 1 cách dồi dào với tĩnh mạch liên đốt và mạng trước và
mạng sau nông của cột sống
1.3.1.9 Rễ thần kinh
Mỗi tầng đĩa đệm có một đôi rễ thần kinh đi ra từ bao màng cứng qua
lỗ liên hợp. Các rễ phía sau dẫn truyền các sợi cảm giác từ thần kinh sống đến
tủy sống, rễ phía trước chủ yếu mang các sợi vận động và dọc theo đó có
những sợi cảm giác, từ tủy sống đến rễ thần kinh. Các rễ phía sau và phía
trước ở hai bên được bao bọc bởi bao rễ trong ống thần kinh. Các thụ thể của
rễ trước nằm ở phần trước của tủy sống trong khi đó các thụ thể của các rễ
phía sau nằm ở vùng hạch rễ phía sau. Vùng hạch phía sau thường nằm ở
phần tận của rễ sau trong phần
đỉnh của bao rễ, hướng xuống dưới đến chân
cung và gần đến nách rễ. Các rễ thần kinh được bao bọc bởi màng cứng và
màng nhện được gọi là bao rễ, bao rễ có thể dài từ 2-3cm [69].

ạo thành các lỗ dò của bao xơ được tìm
thấy sau thoát vị đĩa đệm trong ống sống. Có 3 dạng của rách bao xơ được
nghiên cứu trên xác: rách hoàn toàn, rách đồng tâm và rách ngang [92]. Từ cơ
chế này, TVĐĐ có thể xảy ra sau rách bao xơ. Áp lực trong nhân đĩa trở nên
thấp hơn khi nhân đĩa đệm đi qua bao xơ bị rách [83] và làm giảm áp lực
trong bao xơ [30].
Khối thoát vị thường chứa nhân đĩa có gelatin, nhưng nó cũng có thể
bao gồm bao xơ s
ụn hay mảnh vỡ của chồi xương. Nghiên cứu trên 508
trường hợp cắt đĩa sống, 85% các trường hợp chỉ chứa nhân đĩa và phần còn
lại có sự phối hợp giữa nhân đĩa và bao xơ [37]. Mảnh vỡ của chồi xương
thường được thấy ở những người già có tuổi [53]. Lồi đĩa đệm có thể bao gồm
nhân đệm và bao xơ, tùy thuộc đĩa đệm có bị rách hoàn toàn hay không hoàn
toàn.

21
Tuổi liên quan đến sự thay đổi cấu trúc đĩa đệm, nghiên cứu trên xác
bởi Adam và Hutton (1985) [31] thoát vị đĩa đệm không xảy ra ở người lớn
tuổi sau khi chịu lực nén mặc dù trên thực tế cho thấy có những lỗ rách của
bao xơ. Trong khi đó thoát vị nhân đĩa được ghi nhận ở nhóm trẻ tuổi. TVĐĐ
điển hình có thể tạo ra sau khi có 1 lực tác động lên phía sau bên của bao xơ.
TVĐĐ gây ra do sự lặp đ
i lặp lại chấn thương nhỏ tác động lên cột
sống cổ, hiếm khi gây ra do một chấn thương đơn thuần. Nguy cơ của TVĐĐ
tăng lên do các tác động rung, chiu lực nén hay là giữ nguyên một vị trí kéo
dài, chấn thương cột sống cổ thường làm tăng quá trình thoát vị đĩa đệm.
Thoái hóa đĩa đệm là một phần của thoái hóa tự nhiên theo tuổi nhưng nó
cũng có thể hậu quả của tình trạ
ng kém dinh dưỡng, hút thuốc lá, xơ hóa động
mạch, những hoạt động liên quan đến nghề nghiệp, di truyền, chấn thương,

theo phản ứng viêm xung quanh rễ làm tổn thương mạch máu gây phù nề,
thiếu máu thứ phát, làm cho rễ nhạy cảm với sự va chạm. Do đó các rối loạn
cảm giác xuất hiện trước các rối loạn vận động. Mặc dù phần đĩa đệm thoát vị
nằm phía trước rễ và chạm vào các sợi vận động, như
ng do áp lực phản hồi
các sợi cảm giác sẽ bị đè ép vào dây chằng vàng. Đè ép rễ mạn tính dẫn đến
xơ hóa bao rễ, lâu ngày dẫn đến tổn thương sợi trục, gây rối loạn dẫn truyền,
dẫn đến liệt các mức độ và rối loạn cảm giác. Ngoài ra TVĐĐ còn chèn ép
hoặc xuyên qua dây chằng dọc sau, nơi có các tận cùng cảm giác đau của dây
thần kinh quặt ngược Lucshka, cũng gây ra triệ
u chứng đau trong hội chứng
rễ.
Thoái hóa đĩa đệm mãn tính thường sau giai đoạn 20 tuổi. Rách xung
quanh bao xơ ở vùng sau bên của bao xơ thường được thấy, rách nặng ở vùng
chu vi sẽ tạo nên những lỗ thủng, nhân đĩa đệm sau đó bị vỡ và đi qua lỗ
thủng này. Giảm chiều cao đĩa đệm thường là hậu quả của rách xung quanh
bao xơ. Chất proteolycan và nước sẽ thoát qua những đường vòng bao x
ơ gây
nên tình trạng thoái hóa nhân và sau đó sẽ làm giảm chiều cao đĩa đệm. Thoái
hóa thân đốt sống và hình thành gai cột sống được nhìn thấy ở giai đoạn cuối.
Cử động gập cột sống cổ hay xoay sẽ làm tăng tình trạng chấn thương bao xơ.
Phân bố thần kinh ở phía ngoài bao xơ là yếu tố chính gây đau.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status