Tiểu luận môn học - Phân tích môi trường 1: Xác định bụi trong không khí - Pdf 13


ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
KHOA MÔ TRƯỜNG
-o0o- Tiểu Luận môn học:

PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG 1 “XÁC ĐỊNH BỤI TRONG KHÔNG KHÍ”
GVHD: TS. TÔ THỊ HIỀN
Nhóm thực hiện: 10
Tp. HCM 05/2008
MỤC LỤC

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ 1

2.2.6. Tính toán kết quả 19
2.3. Phương pháp khối lượng xác định bụi TCVN 5498 - 1995- Chất lượng không
khí 20
2.3.1. Phạm vi áp dụng 20
2.2.2. Phương pháp xác định lượng bụi lắng khô 20
2.2.3. Phương pháp xác định khối lượng bụi lắng tổng cộng 24
2.3.4. Tính toán kết quả 27
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1
PHỤ LỤC 1: MỘT SỐ THIẾT BỊ TRONG XÁC ĐỊNH BỤI TRONG KHÔNG KHÍ
2
PHỤC LỤC 2: MỘT SỐ TIÊU CHUẨN MÔI TRƯỜNG (TCVN) 4

DANH MỤC HÌNH

Hình 1: Ùn tắc giao thông ở Hà Nội 3
Hình 2: Ống khói mới và cũ của nhà máy Nhiệt điện Ninh Bình 4
Hình 3: Giới thiệu diễn biến nồng độ bụi trong không khí từ năm 1995 đến hết năm 2002
ở các khu dân cư bên cạnh các khu công nghiệp. (Nguồn: Cục Môi trường, Báco cáo
Quan trắc và Phân tích môi trường) 5
Hình 4: Diễn biến nồng độ khí S0
4
(mg/m
3
) trung bình năm từ 1995 đến 2002 trong
không khí xung quanh gần các khu công nghiệp (Nguồn: Cục Môi trường, Báco cáo
Quan trắc và Phân tích môi trường) 7
Hình 5: Diễn biến mức ồn tương đương trung bình ngày (dBA) và lưu lượng dòng xe ở
giờ cao điểm trên đoạn đường bến xe phía Nam thành phố Hà Nội từ năm 1995 đến năm
2002 ( Nguồn: Báo cáo hàng năm của Trạm Quan trắc và Phân tích môi trường tại
CEETIA) 11


Công nghiệp cũ (được xây dựng trước năm 1975) đều là công nghiệp vừa và
nhỏ, công nghệ sản xuất lạc hậu, một số cơ sở sản xuất có thiết bị lọc bụi, hầu như
chưa có thiết bị xử lý khí thải độc hại. Nói chung, công nghiệp cũ không đạt tiêu
chuẩn về chất lượng môi trường. Công nghiệp cũ lại rất phân tán, do quá trình đô
thị hoá, phạm vi thành phố ngày càng mở rộng nên hiện nay phần lớn công nghiệp
cũ này nằm trong nội thành của nhiều thành phố. Ví dụ ở thành phố Hồ Chí Minh,
không kể các cơ sở thủ công nghiệp, có khoảng 500 xí nghiệp trong tổng số hơn
700 cơ sở công nghiệp nằm trong nội thành, ở thành phố Hà Nội có khoảng 200 xí
nghiệp trong tổng số khoảng 300 cơ sở công nghiệp nằm trong nội thành. Trong
các năm gần đây nguồn ô nhiễm từ hoạt động công nghiệp nằm trong nội thành có
phần giảm bớt do các tỉnh, thành đã tích cực thực hiện chỉ thị xử lý triệt để các cơ
sở gây ô nhiễm nghiêm trọng nằm xen kẽ trong các khu dân cư. Ví dụ như ở Hà
Nội đã đầu tư xây dựng kỹ thuật hạ tầng 10 cụm công nghiệp nhỏ ở các huyện
ngoại thành với tổng diện tích đất quy hoạch 2.573ha để khuyến khích các xí
nghiệp cũ ở trong nội thành di dời ra các cụm công nghiệp đó. Đặc biệt, thành phố
Hà Nội có chế độ thưởng tiến độ di chuyển sớm trong giai đoạn từ 2003 - 2004,
mức thưởng từ 10 triệu đến 500 triệu đồng/đơn vị sản xuất. Cho đến nay Hà Nội
đã di chuyển được 10 cơ sở sản xuất gây ô nhiễm nặng ra ngoại thành như: Công
ty Cổ phần Dệt 10/10, Công ty Thuỷ tinh Hà Nội, Công ty Giầy Thụy Khuê,
Hiện nay có 6 công ty đang di chuyển là Công ty Nhựa Hà Nội, Dệt kim Hà Nội,
Xe đạp xe máy Đống Đa, Kỹ thuật điện thông, Dệt kim Thăng Long. Thành phố
Hồ Chí Minh đã đưa ra chính sách thưởng 500 triệu đồng (mức cao nhất) cho
những doanh nghiệp di dời trong năm 2002, mức thưởng này chỉ còn 50% đối với
các doanh nghiệp di dời vào năm 2003 và chỉ còn 40% nếu di dời vào năm 2004.
Tỉnh Bắc Ninh và một số tỉnh khác cũng đã đầu tư kỹ thuật hạ tầng xây dựng một
số cụm công nghiệp nhỏ để tập trung các doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường
nặng nề ở đô thị và làng nghề vào các cụm công nghiệp này,
2


đi lại bằng xe máy, xe ôtô con. Nguồn thải từ giao thông vận tải đã trở thành một
nguồn gây ô nhiễm chính đối với môi trường không khí ở đô thị, nhất là ở các đô
thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng. Theo đánh giá
của chuyên gia môi trường, ô nhiễm không khí ở đô thị do giao thông vận tải gây
ra chiếm tỷ lệ khoảng 70%.
Theo số liệu của Phòng Cảnh sát giao thông Hà Nội, năm 1990 có 34.222 xe
ôtô, năm 1995 có 60.231 xe, năm 2000 có 130.746 xe tham gia giao thông. Như
vậy sau 10 năm số lượng ôtô ở Hà Nội tăng lên gần 4 lần. Về xe máy ở Hà Nội
năm 1996 mới có khoảng 600.000 xe máy, năm 2001 gần 1 triệu, năm 2002 tăng
tới hơn 1,3 triệu xe máy, bình quân khoảng 1 xe máy/2 người dân. Ở thành phố Hồ
Chí Minh năm 1997 mới có khoảng 1,2 triệu xe máy, năm 2001 gần 2 triệu xe,
3
năm 2002 gần 2,5 triệu xe máy. Bình quân số lượng xe máy ở các đô thị nước ta
mỗi năm tăng khoảng 15 - 18%, số lượng xe ôtô mỗi năm tăng khoảng 8 - 10%. Hình 1: Ùn tắc giao thông ở Hà Nội

Do số lượng xe máy tăng lên rất nhanh, không những làm tăng nhanh nguồn
thải gây ô nhiễm không khí, mà còn gây ra tắc nghẽn giao thông ở nhiều đô thị
lớn. Ở Hà Nội có khoảng 40 điểm thường xuyên bị ùn tắc giao thông, ở thành phố
Hồ Chí Minh là 80 điểm. Khi tắc nghẽn giao thông, mức độ ô nhiễm hơi xăng dầu
có thể tăng lên 4 - 5 lần so với lúc bình thường. Ở Việt Nam , khoảng 75% số
lượng ôtô chạy bằng nhiên liệu xăng, 25% số lượng ôtô chạy bằng dầu DO, 100%
xe máy chạy bằng xăng. Ô nhiễm khí CO và hơi xăng dầu (HC) thường xảy ra ở
các nút giao thông lớn, như là ngã tư Cầu Giấy, ngã tư Kim Liên (Hà Nội), ngã tư
Điện Biện Phủ - Đinh Tiên Hoàng, vòng xoay Hàng Xanh (thành phố Hồ Chí
Minh), ngã tư Cầu Đất - Nguyễn Đức Cảnh (thành phố Hải Phòng), Trước năm
2001 ở các nút giao thông này còn bị ô nhiễm chì (Pb).



1.2.1. Ô nhiễm bụi

Ở hầu hết các đô thị nước ta đều bị ô nhiễm bụi, nhiều nơi bị ô nhiễm bụi
trầm trọng, tới mức báo động. Các khu dân cư ở cạnh đường giao thông lớn và ở
gần các nhà máy, xí nghiệp cũng bị ô nhiễm bụi rất lớn.
Nồng độ bụi trong các khu dân cư ở xa đường giao thông, xa các cơ sở sản
xuất hay trong các khu công viên cũng đạt tới xấp xỉ trị số tiêu chuẩn cho phép.
Nồng độ bụi trong không khí ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ
Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng trung bình lớn hơn trị số tiêu chuẩn cho phép từ 2
đến 3 lần, ở các nút giao thông thuộc các đô thị này nồng độ bụi lớn hơn tiêu
chuẩn cho phép từ 2 đến 5 lần, ở các khu đô thị mới đang diễn ra quá trình thi
công xây dựng nhà cửa, đường sá và hạ tầng kỹ thuật thì nồng độ bụi thường vượt
tiêu chuẩn cho phép từ 10 - 20 lần.
Ở các thành phố, thị xã thuộc Đồng bằng Nam Bộ có mức ô nhiễm bụi trung
bình cao hơn tiêu chuẩn cho phép từ 1,2 đến 1,5 lần, như ở thành phố Cần Thơ, thị
xã Rạch Giá, thị xã Hà Tiên, thị xã Bến Tre. Nói chung, ô nhiễm bụi ở các tỉnh,
thành miền Nam trong mùa khô thường lớn hơn trong mùa mưa.
Nồng độ bụi trong không khí ở các thị xã, thành phố miền Trung và Tây
Nguyên (như là thị xã Tam Kỳ, Hội An, Nha Trang, Cam Ranh, Vinh, Đồng Hới,
Buôn Ma Thuột, Kon Tum, ) cao hơn ở các thành phố, thị xã Nam Bộ. Hình 2: Ống khói mới và cũ của nhà máy Nhiệt điện Ninh Bình
5 Nồng độ bụi ở các đô thị thuộc các tỉnh miền núi, vùng cao, nói chung còn
thấp hơn trị số tiêu chuẩn cho phép (tức là không khí còn trong sạch), như là Hà
Giang, Lai Châu, Sơn La, Đà Lạt, Ngược lại, ở các đô thị phát triển đường giao

trường và đã xảy ra tai nạn chết người do sập xỉ lò. Năm 2001, nhà máy đã cải tiến
vòi đốt than theo kiểu UD, giải quyết cơ bản hiện tượng đóng xỉ trong lò, kéo dài
chu trình vận hành lò, giảm chi phí vận hành, giảm nồng độ khí NO2 trong khí
thải từ 1.000mg/m3 xuống còn 650mg/m3, đồng thời không xảy ra tai nạn lao
động trong 3 năm qua.
Tuy kinh phí đầu tư cải tạo môi trường nhà máy điện là rất lớn, khoảng 170
tỷ đồng, nhưng hiệu quả mang lại còn lớn hơn nhiều, không những giải quyết xong
nạn ô nhiễm môi trường trầm trọng, mà còn mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội rất
lớn: nhà máy không phải đóng cửa hay di dời đi nơi khác; phục hồi sản xuất
100%; trước đây sản xuất 1KW điện phải mất 0,88kg than tiêu chuẩn, nay chỉ mất
0,61kg than; không phải mất tiền trợ cấp độc hại cho cán bộ công nhân viên của
nhà máy và thị xã, thiệt hại vì ốm đau, bệnh tật và nghỉ việc của nhân dân do ô
nhiễm gây ra nay còn không đáng kể; vệ sinh môi trường toàn thị xã được cải
thiện, thu hút khách du lịch đến Ninh Bình và tạo điều kiện trong tương lai gần sẽ
mở rộng công suất nhà máy.
Xét Hình 3 ta thấy, tuy công nghiệp và đô thị trong thời gian qua phát triển
nhanh, nhưng ô nhiễm bụi trong không khí ở các khu dân cư gần một số khu công
nghiệp cũ trong các năm gần đây (từ năm 1995 đến nay) có chiều hướng giảm dần,
có thể đây là kết quả của việc kiểm soát các nguồn thải công nghiệp ngày càng tốt
hơn. Riêng ở gần Cụm Công nghiệp Tân Bình (thành phố Hồ Chí Minh) và Khu
Công nghiệp Biên Hoà I thì có chiều hướng tăng lên. Ngược lại ô nhiễm bụi ở khu
dân cư thông thường trong đô thị ngày càng tăng hơn, có thể là do hoạt động giao
thông và xây dựng trong đô thị ngày càng gia tăng.

1.2.2. Ô nhiễm khí SO2

Nói chung, nồng độ khí SO2 trung bình ở các đô thị và khu công nghiệp
nước ta còn thấp hơn trị số tiêu chuẩn cho phép.
7
Trong các thành phố, thị xã đã quan trắc thì ở các thành phố Hồ Chí Minh,

khu phố không thông thoáng như năm 1999 về trước, mặt khác ở gần điểm đo có
một số nhà mở thêm hàng phở, đun nấu bằng than và nhiều gia đình trong khu tập
thể này cũng đun bếp bằng than tổ ong.

1.2.3. Ô nhiễm khí SO2, NO2 và CO

8
Nồng độ trung bình 1 giờ, cũng như trung bình ngày của khí SO2, NO2 và
CO trong không khí ở gần hầu hết các đô thị Việt Nam đều nhỏ hơn hoặc xấp xỉ trị
số tiêu chuẩn cho phép, tức là chưa bị ô nhiễm khí SO2, NO2 và CO. Tuy vậy ở
các nút giao thông chính và ở gần một số khu công nghiệp, một số xí nghiệp nung
gạch ngói, nồng độ các khí này đã xấp xỉ bằng hoặc lớn hơn trị số tiêu chuẩn cho
phép, có chỗ tới 2 - 4 lần. Thí dụ như nồng độ khí SO2 ở gần khu lò gạch thôn 6,
thôn 7 xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, lớn hơn tiêu chuẩn cho phép nhiều lần; ở các
khu sản xuất vật liệu xây dựng của tỉnh Hà Nam (Công ty Ba Nhất, Xi măng 77,
Xí nghiệp Gạch ngói Bình Lục, xã Mộc Bắc): lớn hơn tiêu chuẩn cho phép từ 3 - 4
lần; ở gần các Nhà máy Xi măng Sài Sơn, Gạch Vân Đình (Hà Tây): lớn hơn tiêu
chuẩn cho phép từ 1,3 - 1,5 lần; ở Khu Công nghiệp Thái Nguyên và Khu Công
nghiệp Sông Công: lớn hơn tiêu chuẩn cho phép khoảng 1,2 lần; ở thị trấn Đông
Triều (Quảng Ninh), nồng độ khí SO2 xấp xỉ trị số tiêu chuẩn cho phép.

Ô nhiễm các khí CO, NO2: Ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng, nồng độ khí CO trung bình ngày dao động từ 2 - 5
mg/m3, nồng độ khí NO2 trung bình ngày dao động từ 0,04 - 0,09mg/m3, chúng
đều nhỏ hơn trị số tiêu chuẩn cho phép, tức là ở các đô thị và khu công nghiệp
Việt Nam, nói chung chưa có hiện tượng ô nhiễm khí CO và khí NO2. Tuy vậy, ở
một số nút giao thông lớn trong đô thị nồng độ khí CO và khí NO2 đã vượt trị số
tiêu chuẩn cho phép, như ở ngã tư Đinh Tiên Hoàng - Điện Biên Phủ (thành phố
Hồ Chí Minh) trị số trung bình ngày của năm 2001: 0,19, gấp 1,9 lần trị số tiêu
chuẩn cho phép, nồng độ CO năm 2001: 15,48 gấp 3,1 lần trị số tiêu chuẩn cho

sử dụng xăng không pha chì từ ngày 1-7-2001. Số liệu quan trắc ô nhiễm giao
thông cho thấy nồng độ chì trong không khí Hà Nội trung bình năm 2002 giảm đi
khoảng 40 - 45% so với cùng thời kỳ năm trước; tương tự, ở thành phố Hồ Chí
Minh nồng độ chì giảm đi khoảng 50%.

1.2.5. Mưa axít (lắng đọng axít)

Ô nhiễm khí SO2 và NO2 trong không khí là nguyên nhân chính gây ra mưa
axít. Như phần trên đã trình bày, môi trường không khí ở nước ta, về tổng thể,
chưa bị ô nhiễm khí SO2, NO2, sự ô nhiễm khí SO2, NO2 mới có tính cục bộ, do
đó có thể suy ra rằng bản thân các nguồn ô nhiễm khí SO2 và NO2 của nước ta
chưa thể gây ra hiện tượng mưa axít. Nhưng ô nhiễm không khí có thể xuyên qua
biên giới giữa các nước, ô nhiễm SO2, NO2 của nước này có thể gây ra mưa axít ở
nước khác.
Kết quả phân tích về số mẫu nước mưa thu được và tỷ lệ (%) số mẫu có pH <
5,5 trong các năm 2000, 2001 và năm 2002 của các trạm quan trắc mưa axit ở
miền Bắc, miền Trung và miền Nam cho ở Bảng V.3. Kết quả quan trắc ở Bảng
V.3 cho thấy, ở tất cả 9/9 địa điểm quan trắc mưa axít (Lào Cai, Hà Nội, Quảng
Ngãi, Nha Trang, Biên Hoà, thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Vũng Tàu và
Mỹ Tho), đều xuất hiện các trận mưa với pH < 5,5 (mưa axít). Tỷ lệ (%) số mẫu
ngày nước mưa có pH < 5,5 ở Biên Hoà và Bình Dương là lớn nhất (biến thiên
trong 3 năm là 27 - 64%). Ở Lào Cai biến thiên tỷ lệ (%) số mẫu ngày mưa có pH
< 5,5 trong 3 năm là 3% - 15%, ở Hà Nội: 3% - 8,5%, ở Vũng Tàu: 4% - 16%, ở
thành phố Hồ Chí Minh, năm 2000: 63%, năm 2001: 33%, năm 2002: 1,9%. Tỷ lệ
số mẫu ngày mưa axít thấp nhất xuất hiện ở các địa điểm Quảng Ngãi, Nha Trang
và Mỹ Tho (0% - 4%).
Trong hệ thống quan trắc môi trường của nước ta, nếu chưa kể các trạm đo
hoá nước mưa của ngành khí tượng thủy văn, đã có 3 trạm quan trắc mưa axít,
nhưng chỉ có Trạm đo lắng đọng axít phía Bắc, đặt tại thị xã Lào Cai, là đã tiến
hành quan trắc tính axít của nước mưa từ năm 1995 đến nay, Trạm đo lắng đọng

cạnh Nhà máy Ôxy Đồng Nai (Biên Hoà II), ngã tư Phú Lợi thị xã Thủ Dầu Một,
11
cổng Bệnh viện Quân đoàn 4 (Bình Dương). Đa số các đường phố còn lại có mức
ồn từ 65 đến 75dBA.
Kết quả quan trắc cho thấy tuy lưu lượng dòng xe năm 2002 nhiều hơn 2 lần
so với năm 1995, nhưng mức ồn chỉ tăng thêm 0,6dBA (77,4 - 75,8). Nguyên nhân
có thể do đường đã được cải tạo, mặt đường tốt hơn, thông thoáng hơn và tỷ lệ xe
mới tăng, xe cũ giảm. Theo số liệu đếm xe trên đường giao thông, thì tỷ lệ số xe
máy chiếm trong dòng xe cơ giới ở Việt Nam rất lớn. Tỷ lệ xe máy trên các đường
giao thông nội thị trung bình chiếm khoảng 85 - 90%, tỷ lệ xe máy trên các đường
vành đai đô thị hay trên các đường quốc lộ chiếm khoảng 80 - 85%.

Hình 5: Diễn biến mức ồn tương đương trung bình ngày (dBA) và lưu lượng dòng
xe ở giờ cao điểm trên đoạn đường bến xe phía Nam thành phố Hà Nội từ năm
1995 đến năm 2002 ( Nguồn: Báo cáo hàng năm của Trạm Quan trắc và Phân
tích môi trường tại CEETIA)
Chỉ số chất lượng không khí (AQI)
Chỉ số chất lượng không khí (AQI) (từ ngày 22-11-2007 đến ngày 28-11-2007) Nguồn: Chi cục Bảo vệ Môi trường thành phố Hồ Chí Minh.

1.3. Các chính sách và giải pháp bảo vệ môi trường không khí

1.3.1. Các chính sách cần tiếp tục thực hiện

Thực hiện đánh giá tác động môi trường đối với tất cả các dự án phát triển
kinh tế - xã hội; tiến hành kiểm soát ô nhiễm không khí chặt chẽ đối với các xí
nghiệp, nhà máy đang hoạt động; xử lý triệt để các cơ sở công nghiệp gây ô nhiễm
12

loại: viêm mũi dị ứng, hen phế quản. Đối với nhóm bệnh này, bụi trở thành dị nguyên. Thành
phần của bụi gồm nhiều chất hữu cơ có nguồn gốc động vật (lông, gàu, lông vũ, cặn chất thải),
gốc thực vật từ phấn hoa (chủ yếu) và các phần khác của cây cỏ; gốc vi sinh vật (vi khuẩn, bào
tử, sợi nấm). Hai là bệnh phổi- nhóm bệnh gây ra do sự đột nhập và lắng đọng tại chỗ của các
hạt bụi ở phổi, chủ là bụi vô cơ, hậu quả của sản xuất công nghiệp như bụi than, thạch cao, xi
măng, sắt (loại bụi trơ), hoặc bauxit, amiăng, silic (loại bụi gây tổn thương).
2.1. Phương pháp xác định hàm lượng bụi theo TCVN 5704 – 1993 – Đối với
vùng làm việc
TCVN 5704 - 1993 được xây dựng trên cơ sở hợp đồng biên soạn tiêu chuẩn số: 03/91
TCVN
TCVN 5704 - 1993 phù hợp với tiêu chuẩn MDHS - 14 của nước Anh.
TCVN 5704 - 1993 do viện nghiên cứu Khoa học kỹ thuật Bảo hộ lao động - Tổng Liên
đoàn lao động Viêth Nam biên soạn và đề nghị, được Bộ Khoa Học - Công nghệ và Môi
trường ban hành theo quyết định số 42/ QĐ ngày 10 tháng 2 năm 1993.
Tiêu chuẩn này quy định phương pháp lấy mẫu và xác định hàm lượng bụi trong
không khí vùng làm việc đối với bụi có dải kích thước từ 0 < đến 100m theo các khoảng
thời gian 5 10 phút, 30 phút và 480 phút (một ca làm việc).
2.1.1. Nguyên tắc
Hàm lượng bụi (mg/m
3
) được xác định bằng sự chênh lệch khối lượng của một cái
lọc được cân sau và trước khi hút một thể tích xác định không khí chứa bụi đi qua.
2.1.2. Thiết bị đo
- Bơm lấy mẫu
+ Khi lấy mẫu cá nhân phải giữ được lưu lượng ổn định 2,0  0,1lít/phút, trong
thời gian lấy mẫu.
+ Khi lấy mẫu bụi hô hấp (kích thước từ 0 <  7 m phải được giữ lưu lượng ổn
định 1,9  0,1 lít/phút trong thời gian lấy mẫu.
14
+ Khi lấy mẫu tại nguồn phát sinh, môi trường hoặc vị trí đối chứng được phép sử

- Dụng cụ khác.
+ Ẩm kế, nhiệt kế, áp kế, phong tốc kế để xác định điều kiện lấy mẫu.
15
+ Phanh gấp cái lọc bằng thép không gỉ hoặc bằng nhựa.
+ Hộp bảo quản mẫu và sổ theo dõi.
2.1.3. Lấy mẫu
- Vị trí lấy mẫu
+ Phải đặt đầu lấy mẫu chứa cái lọc ở độ cao 1,5m so với sàn nhàkhi lấy mẫu tại
nguồn phát sinh.
+ Phải đặt đầu lấy mẫu chứa cái lọc ở độ cao 1,5m đến 2m so với sàn nhà ở những
vị trí khác nhau trong phân xưởng để đánh giá mức độ ô nhiễm chung.
+ Phải đặt đầu lấy mẫu chứa cái lọc tại vùng thở khi đánh giá mức độ tiếp xúc.
- Thời gian lấy mẫu
+ Phải lấy mẫu liên tục trong một ca làm việc (480 phút) để tính giá trị trung bình
của ca làm việc. Nơi có nhiều bụi được phép lấy mẫu gián đoạn làm nhiều lần, mỗi lần ít
nhất 30 phút, tổng thời gian lấy mẫu không được ít hơn 240 phút sau đó tính giá trị trung
bình.
+ Cho phép lấy mẫu tại nguồn phát sinh và cách đánh giá ô nhiễm môi trường
chung cho từng lần, mỗi lần 30 phút, ít nhất phải lấy 3 mẫu để tích giá trị trung bình.
+ Phải lấy mẫu bụi trong khoảng thời gian từ 5 đến 10 phút khi xác định hàm
lượng bụi cao nhất trong một ca làm việc, phải lấy ít nhất 5 mẫu sau đó tính giá trị trung
bình.
- Chuẩn bị lấy mẫu
+Trước khi lấy mẫu phải được sấy và cân cái lọc tới trọng lượng không đổi .
+ Phải lắp dụng cụ lấy mẫu theo trình tự: đầu lấy mẫu chứa cái lọc, ống nối, bơm
lấy mẫu.
+ Phải quan sát hiện trường để xác định vị trí và quyết định khoảng thời gian sẽ
lấy mẫu.
+ Phải kiểm tra độ ổn định của bơm ở lưu lượng sẽ sử dụng để lấy mẫu ít nhất 15
phút.

+ Ghi kết quả cân trước và sau khi lấy mẫu phù hợp với cái mẫu ghi trên cái lọc
vào sổ theo dõi.
2.1.5. Tính và ghi kết quả
- Hàm lượng bụi trong không khí vùng làm việc được tính theo công thức:
C =
trong đó:
C = hàm lượng bụi, mg/m
3

m
1
= khối lượng ban đầu của cái lọc,mg;
m
2
= khối lượng sau khi lấy mẫu, mg;
b = mức độ chênh lệch khối lượng của cái lọc làm đối chứng, mg;
V = thể tích không khí đã lấy, lít.
17
V =
trong đó:
T : thời gian lấy mẫu, phút;
N: số lần đọc lưu lượng kế;
L
i
: giá trị lưu lượng tại thời điểm i, lít/phút.
- Thể tích không khí đã lấy quay về điều kiện tiêu chuẩn (P = 10
2
k Pa;
T= 298)
V

18
Panh gấp bằng kim loại không rỉ, đầu bằng nhựa hoặc bịt nhựa không có răng hoặc
mấu.
- Cái lọc bụi:
Cái lọc bụi làm bằng vật liệu có sức cản nhỏ, hiệu suất lọc cao.
Diện tích làm việc của cái lọc phải đảm bảo sao cho lưu lượng không khí đi qua
trên một đơn vị diện tích không vượt quá lưu lượng cho phép, được hãng sản xuất quy
định cho từng loại vật liệu làm cái lọc;
Cái lọc được đựng trong bao kép làm bằng giấy can kỹ thuật. Bao trong chứa cái
lọc được đánh số và sấy, cân cùng cái lọc, bao ngoài để bảo vệ, có cùng số thứ tự với bao
trong;
- Dụng cụ xử lý mẫu
Tủ sấy có khả năng khống chế nhiệt độ với độ chính xác không vượt quá  2
0
C.
Cân phân tích có độ chính xác  0,1 mg;
Ẩm kế đo độ ẩm không khí;
Nhiệt kế đo nhiệt độ không khí;
Hộp bảo quản mẫu.
2.2.4. Lấy mẫu
- Yêu cầu chung:
Mẫu không khí được lấy ở độ cao 1,5m cách mặt đất;
Điểm lấy mẫu được bố trí ở nơi trống, thoáng gió từ mọi phía, đảm bảo đại diện cho
khu vực quan tâm; số lượng điểm đo, phân bố các điểm trong khu vực đo cũng như
chương trình đo được xác định theo những yêu cầu cụ thể;
Thể tích không khí cần lấy cho một mẫu phải đảm bảo sao cho lưu lượng bụi thu
được trên cái lọc không nhỏ hơn 10mg;
- Chuẩn bị lấy mẫu:
Trước khi lấy mẫu cái lọc được xử lý, cân theo điều 4 của tiêu chuẩn này;
Dụng cụ lấy mẫu được lắp ráp theo trình tự: Đầu lấy mẫu - lưu lượng kế - mý hút;

Thể tích không khí đi qua cái lọc, lít, được xác định bằng công thức sau:
V =
trong đó:
t - thời gian lấy mẫu, phút
N - số lần đọc giá trị lưu lượng L
Li - giá trị lưu lượng ở thời điểm i, lít/phút
Thể tích không khí (V
0
), lít, qua cái lọc được quy về điều kiện tiêu chuẩn (P = 10
2
k
Pa, T = 298K) được tính theo công thức sau:
V
0
=
trong đó:
V - thể tích không khí đi qua cái lọc
p - áp suất trung bình của không khí tại nơi lấy mẫu, kPa
20
t - nhiệt độ trung bình của không khí trong thời gian lấy mẫu,
0
C
- Xác định hàm lượng bụi trong không khí
Hàm lượng bụi một lần (C
30min
) và hàm lượng bụi trung bình một ngày đêm (C
24h
),
mg/m
3

được biểu thị bằng g/ (m
2
.ngày) hoặc mg/ (m
2
.ngày).
- Dụng cụ
+ Dụng cụ lấy mẫu
Khay hứng mẫu bằng nhôm hoặc bằng thuỷ tinh, có nắp (xem hình vẽ).
Túi mỏng bằng polietilen (PE).
21
+ Chất bắn dính
Vazơlin trắng.
+ Dụng cụ xử lý mẫu
Tủ sấy khống chế được nhiệt độ, có độ chính xác  5
0
C.
Cân phân tích có độ chính xác  0,1mg.
- Lấy mẫu
+ Yêu cầu chung:
a. Khay lấy mẫu bụi lắng khô được đặt trên các giá ở độ cao đông nhất cách mặt đất
1,5 hoặc 3,5m.
b. Điểm lấy mẫu được bố trí ở nơi trống, thoáng gió từ mọi phía, khoảng cách giữa
các điểm lấy mẫu với các vật cản (nhà cao tầng, cây cao ) phải bảo đảm sao cho góc tạo
thành giữa đỉnh của vật cản với điểm đo và mặt nằm ngang không lớn hơn 30
0
.
c. Số lượng mẫu, sự phân bố các điểm lấy mẫu trong khu vực quan tâm được xác
định theo các yêu cầu cụ thể nhưng không ít hơn 4 mẫu cho mỗi điểm đo.
d. Thời gian hứng một mẫu bụi lắng khô ở khu công nghiệp, dân cư tập trung không
ít hơn 24 giờ, nhưng không quá 7 ngày.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status