tìm hiểu thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động dịch vụ của hợp tác xã nông nghiệp phú mậu ii - huyện phú vang - thừa thiên huế - Pdf 13

PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
“Hợp tác xã” một khái niệm đã quen với chúng ta, sự ra đời hình thành
và phát triển của nó gắn liền với sự thịnh suy của nền kinh tế nước ta. Trước năm
1986, nền kinh tế mang tính chất bao cấp, nền kinh tế của chúng ta lạc hậu và trì
trệ nhưng sau khi nghị định khoán 10 được ra, HTX mang một vai trò mới, một
nhiệm vụ mới, nó vẫn là một phần trong phát triển kinh tế nông thôn.
Ở xã Phú Mậu, Huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên Huế, một xã thuần
nông nghiệp, còn nhiều khó khăn, đời sống nhân dân còn thấp, điều kiện tự
nhiên, thời tiết khí hậu diễn biến bất thường, rét đậm rét hại và các trận mưa
lớn làm ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển làm giảm năng suất của cây
trồng gây nhiều khó khăn cho sản xuất nông nghiệp, cũng như trong quá trình
thu hoạch. Ngoài ra cơ cấu giống lúa chủ lực vẫn chưa có sự thay đổi, các
giống đã tồn tại nhiều năm nên nhiễm các loại sâu bệnh bên cạnh đó còn gặp
nhiều trở ngại trở ngại khác, thị trường sản phẩm nông nghiệp thiếu tính ổn
định, chi phí đầu vào tăng, kỹ thuật phòng trừ sâu bệnh chưa triệt để, dịch
bệnh xảy ra thường xuyên gây khó khăn cho người nông dân. Để cải thiện
đời sống không những đòi hỏi nhân dân và chính quyền địa phương phấn đấu
sản xuất mà còn đòi hỏi ban quản lí HTX phải có hướng đi đúng cả trong sản
xuất lẫn trong hoạt động dịch vụ.
Trong những năm gần đây HTX đã có nhiều hướng đi đúng đắn như:
đưa cây hoa vào sản xuất, sản xuất rau an toàn… ứng dụng tiến bộ khoa học
kĩ thuật, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi mang lại hiệu quả, tổ chức các
hoạt động dịch vụ nông nghiệp chủ động và hạch toán có lãi, sản xuất kinh
doanh có hiệu quả, năng suất cây trồng tăng, cuộc sống xã viên ngày một
nâng cao, HTX đã cung ứng nhiều loại dịch vụ đầu vào và đầu ra, giúp người
dân yên tâm hơn trong sản xuất, cải thiện đời sống nhưng bên cạnh những
thành tựu đã đạt được đó còn có nhiều yếu tố làm ảnh hưởng đến hoạt động
sản xuất cũng như dịch vụ ở xã. Vì vậy tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Tìm
hiểu thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động dịch vụ của Hợp
tác xã Nông nghiệp Phú Mậu II - Huyện Phú Vang - Thừa Thiên Huế ”

Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp
nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn
điều lệ, vốn tích lũy và các vốn khác của hợp tác xã theo quy định của pháp
luật. [8]
2.1.2 Khái niệm tổ hợp tác dịch vụ và hợp tác xã dịch vụ
Đây là hình thức liên kết kinh doanh dịch vụ của các hộ dịch vụ và các
hộ sản xuất.
Tổ hợp tác dịch vụ là hình thức liên kết dịch vụ của vài ba hộ theo
nguyên tắc thỏa hiệp, dưới sự điều hành của tổ trưởng. Tổ trưởng là người có
cổ phần lớn và có khả năng kinh doanh dịch vụ. [2]
Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp là hình thức liên kết với quy mô vài
chục hộ trở lên. Hoạt động của hợp tác xã tuân theo các quyết định của đại
3
hội đại biểu xã viên và chịu sự điều hành của ban chủ nhiệm. Ban chủ nhiệm
do đại hội đồng xã viên bầu ra. Xã viên hoàn toàn tự nguyện ra nhập hoặc rút
khỏi hợp tác xã, làm chủ phần tài sản, phần vốn góp của mình và được hưởng
quyền lợi dịch vụ, hiệu quả kinh doanh tương ứng với cổ phần mà mình đóng
góp vào hợp tác xã. [2]
- Mục tiêu của dịch vụ
Hoạt động dịch vụ trong hợp tác xã nông nghiệp là hoạt động phục vụ
cho quá trình sản xuất kinh doanh của xã viên trong hợp tác xã nông nghiệp,
do vậy mục tiêu chính không phải là lợi nhuận mà là phục vụ kịp thời, chất
lượng tốt, giá cả phải chăng.
Lợi nhuận của hoạt động dịch vụ chính là kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của các hộ gia đình xã viên.
Từ mục tiêu đó yêu cầu của hoạt động dịch vụ trong hợp tác xã nông
nghiệp là chất lượng, tính kịp thời và giá cả.
2.2 Khái niệm về dịch vụ nông nghiệp
Theo Kotler và Armstrong (1991) dịch vụ nông nghiệp được định nghĩa
như sau:

mói chung.
Vật tư nông nghiệp: Vật tư nông nghiệp là tất cả những nguyên nhiên
vật liệu, máy móc, phụ tùng… phục vụ cho quá trình sản xuất trong lĩnh vực
nông nghiệp.[14]
Giống cây trồng: Giống là một quần thể cây trồng do con người sáng
tạo ra, nhằm thỏa mãn những nhu cầu nào đó của mình. Nhóm cây trồng đó
có tính di truyền và biến dị nhất định, có đặc trưng, đặt tính sinh vật, hình
thái và kinh tế nhất định. Những đặc trưng, đặc tính đó có tính di truyền
tương đối ổn định và qua thực tiễn chứng minh có thể cho sản lượng cao,
phẩm chất tốt trong những khu vực nhất định và dưới những điều kiện trồng
trọt nhất định.[1]
Ý nghĩa: Nhờ vào việc cung cấp cho người dân các cung cụ sản xuất, các
máy móc: máy phay, máy tuốt lúa, máy gặt đập liên hợp… bà con đã có thể
giảm bớt thời gian lao động trên đồng, giảm bớt công sức tại người dân không
thể dùng sức người, sức trâu để cày trên diện tích lớn được. Đồng thời với sự
5
trợ giúp của các máy móc nông nghiệp việc cày cấy đã được bà con tiến hành
đúng mùa vụ và đảm bảo thời gian mang lại hiệu quả kinh tế cao. Ngoài việc
cung cấp các giống cây trồng đã đáp ứng kịp thời nhu cầu người dân về đầu
vào cần thiết để có thể tiến hành sản xuất đúng mùa vụ. Hơn nữa nó cũng giúp
người dân có thể tự do lựa cho những giống cây trồng phù hợp với điều kiện
thời tiết của vùng, cũng như khả năng trồng, chăm sóc và nhu cầu của thị
trường mà không phải phụ thuộc vào bất kỳ một yếu tố chủ quan nào.
- Dịch vụ dự tính, dự báo sâu bệnh, diệt chuột
Dịch vụ dự báo sâu bệnh là dịch vụ cung cấp cho người những thông
tin về các loại sâu hại và dịch bệnh sắp xảy ra
Ý nghĩa: Khi người dân đã nhận biệt các loài sâu bệnh và khả năng gây
hại của nó, họ kế hoạch hay cùng người dân, cán bộ nông nghiệp tiến hành
phòng chống kịp thời nhờ đó mà giảm thiểu rủi ro về sau.
- Dịch vụ thủy lợi

có phù hợp với nhu cầu của người dân hay không.
- HTX quản lý các hoạt động dịch vụ để cung cấp cho người dân khi họ
có nhu cầu. Do vậy HTX có thể đạt được tính kinh tế theo quy mô do quản lý
tập trung, hàng loạt, và quản lý chất lượng sản phẩm tập trung. HTX cũng có
thể liên hệ với nhà cung cấp, ví dụ cung cấp phân bón rồi cất trữ vào kho và
đem bán khi người dân có nhu cầu. Do vậy, HTX dễ thực hiện cân đối cung
cầu. Nhưng quá trình cung cấp các hoạt động DV và tiêu dùng DV xảy ra
đồng thời. Người cung cấp DV do HTX quản lý và điều hành và nông dân
phải tiếp xúc với nhau để cung cấp và tiêu dùng DV tại các địa điểm và thời
gian phù hợp cho hai bên. Đối với một số các DV, người nông dân phải có mặt
trong suốt quá trình cung cấp DV.
Đối với HTX cung cấp các hoạt động dịch vụ thì tính không tách rời giữa
HTX và các xã viên là vô cùng quan trọng. Nếu HTX không có xã viên thì HTX
sẽ không tồn tại và ngược lại.
- DV không thể cung cấp hàng loạt, tập trung như sản xuất hàng hoá. Do
vậy, nhà cung cấp (HTX) khó kiểm tra chất lượng theo một tiêu chuẩn thống
nhất. Mặt khác, sự cảm nhận của khách hàng (nông dân) về chất lượng DV lại
7
chịu tác động mạnh bởi kỹ năng, thái độ của người cung cấp DV. Sức khoẻ, sự
nhiệt tình của nhân viên cung cấp DV (cán bộ cung cấp các DV) vào buổi sáng
và buổi chiều có thể khác nhau. Do vậy, khó có thể đạt được sự đồng đều về
chất lượng DV ngay trong một ngày. DV càng nhiều người phục vụ thì càng
khó đảm bảo tính đồng đều về chất lượng.
Để khắc phục nhược điểm này, HTX có thể thực hiện cơ giới hoá, tự
động hoá trong khâu cung cấp DV, đồng thời có chính sách quản lý nhân sự
đặc thù đối với các nhân viên cung cấp DV. Tuy nhiên, việc tiếp xúc với nhân
viên cung cấp DV lịch sự, niềm nở cũng là một yếu tố hấp dẫn khách hàng.
Mặt khác, không phải bất kỳ DV nào cũng có thể tự động hoá quá trình cung
cấp được.
- DV chỉ tồn tại vào thời gian mà nó được cung cấp. Do vậy, DV không

- Dịch vụ tiêu thụ sản phẩm
- Dịch vụ vật liệu xây dựng
2.5 Tình hình hoạt động dịch vụ của hợp tác xã nông nghiệp ở Việt Nam
2.5.1 Về số lượng HTX
Theo liên minh HTX Việt Nam (Số: 834 /LMHTX-CSPT), tháng9,
năm 2008: Cả nước hiện nay có hơn 340.000 tổ hợp tác, 17.133 HTX, 26 liên
hiệp HTX. Bình quân 5 năm qua, mỗi năm có hơn 30.000 tổ hợp tác và hơn
1.000 HTX mới ra đời[8]. Những con số này cho thấy đối với khu vực nông
nghiệp và nông thôn thì HTX có vai trò và vị trí vô cùng to lớn.
2.5.2 Về xã viên và lao động
Cho đến nay, chưa có số liệu thống kê đầy đủ về số lượng xã viên và
lao động đang làm việc trong khu vực kinh tế hợp tác và HTX. Tuy nhiên.
theo báo cáo tổng hợp của Ban chỉ đạo tổng kết kinh tế hợp tác và HTX( năm
2001) thì số lượng xã viên của 4.876 HTX đã chuyển đổi và thành lập mới có
báo cáo là 3.171.576 người, chiếm khoảng 8% lực lượng lao động của cả
nước, nếu suy rộng cho đầy đủ 14.207HTX thì lực lượng lao động đang làm
việc trong khu vực HTX sẽ là 24%. [3]
Đây là một con số đáng kể thể hiện vai trò to lớn của khu vực kinh tế
hợp tác và HTX trong việc giải quyết công ăn việc làm, đặc biệt là cho lao
động ở khu vực nông thôn.
9
2.5.3 Về vốn hoạt động
Theo điều tra của Ban Kinh tế TW tháng 8 năm 2001, đến 31/12/2000
tổng số vốn của 5.052 HTX có báo cáo là 5.018.994 triệu đồng (hơn 5 nghìn
tỉ đồng), trong đó gần 2.000 tỉ đồng là vốn tự có của các HTX. Số liệu tổng
hợp của Viện quản lý kỹ thuật trung ương từ báo cáo của 51 Sở Kế hoạch và
Đầu tư các tỉnh/thành phố đến 31/6/2002 cho kết quả về quy mô vốn hoạt
động trung bình như sau: HTX dịch vụ thương mại 438,7triệuđồng/HTX
(thấp nhất); QTDND 2684,5 triệu đồng (cao nhất). [7]
Xã viên tham gia HTX đã có ý thức góp vốn để HTX có thể hoạt động

cạnh đó, các HTX đã đóng góp rất nhiều cho sự phát triển chung của cộng
đồng như xây dựng trường học trạm y tế, đường giao thông, thuỷ lợi, nhà văn
hoá trên địa bàn, điển hình như HTX nông nghiệp kinh doanh tổng hợp
Bình Tây - Tiền Giang đặc biệt là các HTX trong lĩnh vực nông nghiệp mặc
dù còn nhiều khó khăn những đã cố gắng chăm sóc các gia đình chính sách,
tạo điều kiện cho con em của các gia đình chính sách tham gia lao động cho
HTX để có thu nhập
2.6 Tình hình hoạt động dịch vụ của hợp tác xã nông nghiệp ở Thừa
Thiên Huế
2.6.1 Tình hình kinh tế tập thể
Trong thời gian qua, tình hình hợp tác xã có xu hướng phát triển về mặt
số lượng, năm 2000 có 209 HTX nhưng đến nay, toàn tỉnh có 343 tổ hợp tác,
293 HTX , trong đó 162 HTX nông nghiệp, 15 HTX công nghiệp - tiểu thủ
công nghiệp, 17 HTX giao thông, 47 HTX tiêu thụ điện nông thôn, 5 HTX
xây dựng, 38 HTX thủy sản, 7 quỹ tín dụng nhân dân, 2 HTX thương mại -
dịch vụ. Nhìn chung, các HTX trên địa bàn tỉnh hoạt động ngày càng có hiệu
quả, các dịch vụ phục vụ xã viên được mở rộng hơn; vai trò của cán bộ quản
lý, điều hành HTX ngày càng tăng. Trong nông nghiệp, vai trò HTX thể hiện
rõ, nhất là việc dịch vụ thúc đẩy kinh tế hộ phát triển, việc ứng dụng tiến bộ
kỹ thuật vào sản xuất, việc tiếp nhận nguồn vốn ngân sách và huy động đóng
góp của nhân dân để hoàn thành các chương trình kiên cố kênh mương, bê
tông hóa đường giao thông nông thôn. Về phân loại HTX năm 2005 thì có
44% đạt loại khá, giỏi, 48% đạt loại trung bình và 8% đạt loại yếu, kém. [8]
11
2.6.2. Hoạt động của Liên minh Hợp tác xã tỉnh
Thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Liên minh HTX tỉnh Thừa
Thiên - Huế đã tham mưu cho Tỉnh ủy. UBND tỉnh chỉ đạo thực hiện nghị
quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế tập thể. Trực
tiếp tham mưu cho Tỉnh ủy xây dựng chương trình hành động nhằm thực hiện
nghị quyết 13 về “Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế

dịch vụ trong các HTX nông nghiệp trong những năm 2006 - 2010; ký kết với
tổ chức hỗ trợ phát triển Đức (DED) từ năm 2004 - 2006; tổ chức SNV của
Hà Lan về chuyển giao công nghệ; tổ chức Norpadele về thị trường, xin cấp
chứng chỉ chất lượng gạo nhằm xúc tiến xuất khẩu, chuyển đổi cơ cấu cây
trồng vật nuôi. [8]
13
PHẦN 3: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các hoạt động dịch vụ của hợp tác
xã Phú Mậu II
3.2. Nội dung nghiên cứu
- Thực trạng chung về hoạt động dịch vụ của hợp tác xã Phú Mậu II
+ Thực trạng về quy mô hoạt động dịch vụ của hợp tác xã Phú Mậu II
+ Thực trạng về khả năng cung ứng dịch vụ của hợp tác xã Phú Mậu II
+ Thực trạng về hiệu quả kinh doanh dịch vụ của hợp tác xã Phú Mậu II
- Các yếu tố ảnh hưởng đến quy mô hoạt động dịch vụ của hợp tác
xã Phú Mậu II
+ Yếu tố năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý của các hợp tác xã
+ Yếu tố cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ hoạt động kinh doanh
dịch vụ của các hợp tác xã
+ Yếu tố về vốn kinh doanh của các hợp tác xã
+ Yếu tố về thị trường ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh dịch vụ vủa
các hợp tác xã
+ Yếu tố về chính sách
+ Yếu tố về mức độ hợp tác của xã viên
3.3 Phương pháp nghiên cứu
- Thu thập các số liệu thứ cấp:
Tiến hành thu thập các thông tin thứ cấp dưới dạng các báo cáo của liên
minh hợp tác xã và các báo cáo tổng kết của hợp tác xã qua các năm.

PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1 Tình hình cơ bản của xã Phú Mậu
4.1.1 Điều kiện tự nhiên của xã Phú Mậu
4.1.1.1 Vị trí địa lý
Trong nền kinh tế thị trường sản xuất hàng hóa hiện nay vị trí địa lý của
địa bàn sản xuất đóng vai trò hết sức quan trọng. Nó ảnh hưởng trực tiếp tới
quá trình sản xuất cũng như trong vận chuyển tiêu thụ sản phẩm đặc biệt là
trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Cụ thể là: Nếu địa phương nào đó có vị
trí địa lí là nơi trung tâm được nhiều người biết đến, đồng thời là nơi dễ dàng
để giao lưu được với các địa phương khác thì chắc chắn địa phương đó sẽ có
nhiều cơ hội để phát triển nền kinh tế của mình.
Biểu đồ 1: Bản đồ hành chính xã Phú Mậu - huyện Phú Vang
Thừa Thiên Huế
16
Xã Phú
Mậu
Phú Mậu là một trong những xã của huyện Phú Vang. Nếu tính theo
đường chim bay thì xã Phú Mậu cách trung tâm thành phố Huế 3km, cách
huyện lị Phú Vang 22 km đi về phía Tây. Nhưng do địa hình bị cách trở bởi
các con sông suối, do đó mà khoảng cách từ trung tâm thành phố Huế đến địa
bàn xã lên tới 6Km. Đây là một khó khăn lớn đối với người dân Phú Mậu và
cần có biện pháp khắc phục.
Vị trí địa lý của xã được xác định như sau:
Phía Bắc giáp với xã Phú Thanh huyện Phú Vang
Phía Nam giáp với phừơng Phú Hậu thành phố Huế
Phía Đông giáp xã Phú Dương, Phú Thượng huyện Phú Vang
Phía Tây giáp xã Hương Vinh, Hương Phong huyện Hương Trà.
Đây là xã mà có hai phía giáp đất liền và 2 phía giáp sông suối, cụ thể
là: Về phía Nam và phía Tây có sông Hương bao bọc. Còn phía Bắc và phía
Đông giáp đất liền.

Ngược lại nếu thời tiết mà hết sức khắc nghiệt thì bà con nông dân sẽ bị mất
trắng tay, khi đó cuộc sống của họ sẽ gặp không ít những khó khăn. Để giảm
thiểu rủi ro trong sản xuất nông nghiệp thì cần phải có nhiều biện pháp để né
tránh thiên tai vào các giai đoạn đỉnh điểm của cây trồng như trổ, sắp thu
hoạch. Để làm được điều này thì đòi hỏi chúng ta phải nắm được diễn biến
thời tiết, khí hậu của địa phương trong những năm gần đây. Do đó chúng ta
cần phải tiến hành nghiên cứu tình hình thời tiết, khí hậu của vùng. Sau khi đã
nắm vững về tình hình thời tiết, khí hậu của một vùng nào đó thì bắt đầu đưa
về cho vùng một lịch thời vụ hợp lí và khuyến cáo cho bà con nên trồng các
loại giống gì? Thời điểm trồng của các loại giống đó, làm tăng hiệu quả sản
xuất ngành nông nghiệp. Bên cạnh đó còn góp phần xây dựng kế hoạch phòng
chống bão lũ, hạn hán nhằm giảm nhẹ thiên tai và đảm bảo nguồn nước vào
mùa khô.
Xã Phú Mậu nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, trong năm có 2
mùa rõ rệt. Đó là mùa mưa và mùa khô, mùa mưa kéo dài hơn mùa nắng. mùa
mưa thì bắt đầu từ tháng 9 năm trước và kéo dài cho đến tháng 3 năm sau.
Mùa nắng thì chỉ bắt đầu từ tháng 4 và kết thúc trong tháng 8. Đồng thời chịu
ảnh hưởng trực tiếp hoạt động của hai loại gió mùa chính, đó là gió mùa Đông
Bắc và gió Tây Nam. Gió Đông Bắc bắt đầu hoạt động từ tháng 10 năm trước
và kết thúc vào tháng 3 năm sau thường gây mưa lụt vào tháng 10 và tháng
11. Gió Tây Nam hoạt động từ tháng 4 và kết thúc vào tháng 8, thường gây
nóng và khô hạn.
18
4.1.1.4 Tình hình sử dụng đất đai của xã
Đối với sản xuất nông nghiệp thì đất là tư liệu sản xuất đặc biệt quan
trọng và không có cái gì có thể thay thế được. Nó vừa là đối tượng lao động
vừa là tư liệu sản xuất và có tính chất giới hạn theo bề mặt không gian. Quy
mô và trình độ sử dụng nguồn lực này có ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập từ
sản xuất nông nghiệp. Cụ thể: Nếu một cá nhân, một hộ gia đình hay một tổ
chức nào mà có trình độ sử dụng đất cao đó là biết cải tạo đất trong quá trình

của xã cũng chiếm một tỉ lệ lớn (17,1 %). Đất ở nông thôn chiếm 7,62 % đất
này có xu hướng tăng lên theo thời gian, bởi vì nhu cầu về nhà ở ngày càng
cao, và một điều hiển nhiên là đất nông nghiệp sẽ giảm dần. Một diện tích đất
tương đối lớn của xã chưa sử dụng 95,63 ha chiếm 13,61% tổng diện tích đất
tự nhiên của xã, đó là đất sông suối và mặt nước, đất này có thể nuôi trồng
thủy sản.
4.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội
4.1.2.1. Tình hình dân số và lao động
Dân số và lao động đây là loại tài sản vô cùng quý giá và quan trọng,
nó quyết định đến việc phát triển kinh tế của địa phương. Nó có thể làm cho
nền kinh tế của địa phương phát triển mạnh nhưng ngược lại nó có thể làm
cản trở sự phát triển nền kinh tế của địa phương. Khi việc làm và đời sống của
nhân dân được đảm bảo thì khi đó nó thể hiện mặt tích cực. Ngược lại khi
nhân dân thiếu việc làm, không có thu nhập, đời sống không đảm bảo thì nó
sẽ thể hiện mặt tiêu cực, thường xảy ra các tệ nạn xã hội Do đó muốn có
một nền kinh tế phát triển thì trước hết phải quan tâm đến việc làm và đời
sống của nhân dân, nếu không thì sẽ không bao giờ có sự phát triển.
20
Bảng 2: Tình hình dân số và lao động của xã Phú Mậu
Chỉ tiêu ĐVT
Năm 2009 Năm 2010
Số
lượng
Tỉ lệ
( %)
Số lựơng
Tỉ lệ
( %)
I. Tổng số hộ
Hộ

21
Qua bảng 2 trên ta thấy rằng: Hiện nay toàn xã có 2182 hộ tăng 46 hộ
so với năm 2009. Trong đó có 1726 hộ là tham gia sản xuất nông nghiệp, 456
hộ là hộ sản xuất phi nông nghiệp. Trong khoảng thời gian hai năm 2009 đến
2010 thì số hộ sản xuất nông nghiệp không thay đổi, còn số hộ phi sản xuất
nông nghiệp tăng lên 46 hộ, số này là do người dân vạn đó mới chuyển về tái
định cư ở xã. Số nhân khẩu của xã năm 2010 là 10.859 người tăng 368 người
so với năm 2009. Số nhân khẩu nam chiếm 50,18 %, còn số nhân khẩu nữ
chiếm tỷ lệ thấp hơn 49,82 %. Số nhân khẩu nữ có xu hướng giảm dần, còn số
nhân khẩu nam có xu hướng tăng dần từ 49,75 -50,18 %. Tổng số lao động
có xu hướng tăng dần từ 6874 lao động giảm xuống 6906 lao động. Lao động
nữ chiếm 50,98%, còn lao động nam chiếm 49,02%, đây là một khó khăn
trong sản xuất nhất là trong sản xuất nông nghiệp cần những lao động khỏe
mạnh. Lao động nông nghiệp chiếm tỉ lệ lớn hơn lao động phi nông nghiệp và
lao động nông nghiệp có xu hướng giảm dần, ngược lại thì lao động phi sản
xuất nông nghiệp có xu hướng tăng dần. Lao động sản xuất nông nghiệp từ
85,03% xuống còn 85%. Lao động phi sản xuất nông nghiệp từ 14,07% lên
tới 15%. Bình quân mỗi hộ gia đình có 4,97 người, có 3,16 lao động trong đó
có 3,4 là lao động nông nghiệp. Số nhân khẩu/hộvà số lao động nông
nghiệp/hộ đều có xu hướng tăng lên trong hai năm 2009,2010. Cụ thể: Năm
2009 trung bình mỗi hộ gia đình có 4,91 người nhưng đến năm 2010 thì tăng
lên 4,97 người. Lao động nông nghiệp năm 2009 là 3,38 lao động, còn năm
2008 là 3,4 lao động. Nhưng bình quân lao động /hộ lại giảm xuống cụ thể
năm 2010 là 3,16 người trong khi năm 2009 là 3,21 người. Điều này chứng tỏ
dân số của xã đang tăng lên. Ngoài ra do xã hội ngày càng phát triển mỗi con
người được học hành đầy đủ hơn vì vậy mà tỉ lệ công dân đi học ngành, học
nghề là lớn, hai nữa do có nhiều khu công nghiệp ra đời, nó đã thu hút rất
nhiều lao động, nhất là lao động từ sản xuất nông nghiệp. Hơn nữa do toàn xã
hiện nay còn 490 hộ nghèo chủ yếu là do nguồn di dân là dân vạn đò về xã, tái
định cư tại thôn Lại Tân.

+ Trạm bơm
Hiện nay trên địa bàn xã đã có 3 trạm bơm điện do HTX liên doanh xây
dựng với công ty quản lí kĩ thuật công trình thủy lợi tỉnh Thừa Thiên Huế.
Trong đó HTX nông nghiệp Phú Mậu II chỉ có một trạm bơm điện Vọng Trì.
23
Trạm này có 2 máy công suất 2000m
3
/giờ đảm trách diện tích 100ha 2 vụ.
Trong vụ hè thu nếu bị hạn nặng có khả năng bơm chuyền qua hói Mậu Tài
của HTX nông nghiệp Phú Mậu I. HTX nông nghiệp Phú Mậu I thì có 2 trạm
bơm điện. Ngoài ra xã còn hợp đồng với các tư nhân có máy bơm dầu để phục
vụ tưới tiêu cho vùng sản xuất.
+ Kênh tưới
Hệ thống thủy lợi phục vụ tưới và tiêu nước của xã là đã khá hoàn
thiện. Từ năm 2000 tới nay cùng với sự đầu tư kinh phí của huyện và của
công ty quản lí kĩ thuật công trình thủy lợi tỉnh Thừa Thiên Huế thì xã Phú
Mậu đã kiên cố hóa được 12,3 Km kênh mương. Trong đó 9km là nguồn ngân
sách của huyện và nhân dân đóng góp. Còn 3,3 km là nguồn ngân sách của
công ti quản lí kĩ thuật công trình thủy lợi. Thật vậy trong khoảng thời gian từ
năm 2000- 2008 với nguồn ngân sách mà huyện bỏ ra là gần 1,8 tỉ đồng cùng
với 672 triệu đồng do các hộ gia đình đóng góp thì trên địa bàn xã đã kiên cố
hóa kênh mương đựơc 9,0025Km. Trong đó thì 4,7135Km là của địa bàn
HTX nông nghiệp Phú Mậu II. Còn 4,289Km là của địa bàn HTX nông
nghiệp Phú Mậu I. Cũng trong khoảng thời gian này với nguồn kinh phí của
công ti quản lí kĩ thuật công trình thủy lợi tỉnh Thừa Thiên Huế thì năm 2000
xây dựng trạm bơm Phú Mậu I với hệ thống kênh mưong dài là 0,57Km.
Trạm bơm Phú Mậu 3 được xây dựng năm 2004 có hệ thống kênh mương dài
là 1,737Km. Đồng thời năm 2000 kiên cố hóa được 0,6Km và đến năm 2001
kiên cố được 0,4Km ở trên địa bàn HTX Phú Mậu II .
4.2 Thực trạng hoạt động dịch vụ của HTX Phú Mậu II

+ Kiểm tra việc chấp hành điều lệ, nội quy HTX và nghị quyết của đại
hội xã viên.
+ Giám sát hoạt động của chủ nhiệm và phó chủ nhiệm HTX và xã viên
theo đúng pháp luật và điều lệ, nội quy HTX.
+ Kiểm tra về tài chính, kế toán, thủ kho, phân phối thu nhập, xử lý các
khoản lỗ, sử dụng các quỹ của HTX, sử dụng tài sản vốn vay và các khoản hỗ
trợ của nhà nước.
25


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status