Nghiên cứu ảnh hưởng của một số loại phân bón lá đối với giống hồng không hạt trồng tại phia đén, xã thành công, huyện nguyên bình, tỉnh cao bằng - Pdf 13

1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Cây hồng (Diospyros kaki L), thuộc họ thị (Ebenaceae) là một trong
nhưng cây ăn quả á nhiệt đới chịu rét giỏi nhất, cho quả to, rất ngon với vị
ngọt mát, đậm đà lại rất bổ.
Ở nhiều nước châu Á hồng là loại quả quý có giá trị dinh dưỡng cao và
phẩm vị ngon hơn nhiều loại quả khác. Ở Trung Quốc và Nhật Bản, hồng là
một trong những thực phẩm chính trong khẩu phần ăn hàng ngày. Người châu
Âu vùng Đại Trung Hải quen với vị ngọt mát đậm đà của quả hồng và có tập
quán dùng thìa ăn hồng. Người Mỹ gọi hồng là ‘‘mỹ phẩm phương Đông’’.
Ở nước ta hồng được coi là một loại quả quý hiếm, thường được dùng
cho việc thờ cúng, làm quà biếu ngày lễ tết do mã quả đẹp, vị ngọt, không
chua, hợp khẩu vị người già, trẻ nhỏ, người ốm, người đau dạ dày.
Hồng là loại quả chứa 12 – 16 % đường (theo một số tác giả người Nga
là 25%) trong đó chủ yếu là đường Glucoza và Frutoze, vì thế hồng là loại
thực phẩm được dùng đối với những người bị bệnh tiểu đường. Lượng axit
thấp 0,1% (ít khi tới 0,2%). Trong 100g thịt quả chín (phần ăn được) chứa
16mg caroten , 16mg vitamin C, 0,16mg caroten; ngoài ra còn vitamin PP, B
1
,
B
2
, các hợp chất hữu cơ, sắt và tanin có 0,25 – 0,4%.
Trong Đông y dùng quả hồng làm thuốc chữa suy nhược, tiêu chảy, ho,
đái dầm vỏ, rễ, thân cây hồng được dùng thuốc cầm máu.
Hồng còn là một cây cảnh đẹp, mùa hè lá xanh thẫm, mặt trên bóng
loáng, mùa thu chuyển sang sắc đỏ trước khi rụng. Cuối Thu lá bị trút hết chỉ
còn lại những quả vàng treo trên cây, làm cho cây hồng có vẻ đẹp riêng không
cây nào có. Trên tán cây, các cành già yếu tự khô đi. Sang Xuân, khi búp đã

Hiệu suất sử dụng phân bón lá đạt hơn 90%, lượng phân bón qua lá
bằng so với bón phân qua rễ, do đó tiết kiệm được một lượng lớn phân bón.
Hiện nay, trên thị trường phân bón lá được bán rất phổ biến với nhiều chủng
loại, giá cả khác nhau. Để thúc đẩy sinh trưởng của cây hồng trong giai đoạn
kiến thiết cơ bản tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Nghiên cứu ảnh hưởng
của một số loại phân bón lá đối với giống hồng không hạt trồng tại Phia
Đén, xã Thành Công, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng”
2
3
1.2. Mục đích của đề tài
Xác định loại phân bón lá phù hợp đối với giống hồng không hạt tại Phia
Đén, xã Thành Công, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng ở giai đoạn kiến
thiết cơ bản.
1.3. Yêu cầu của đề tài
Nghiên cứu ảnh hưởng của một số loại phân bón lá tới sự sinh trưởng và
phát triển của cây hồng ở giai đoạn kiến thiết cơ bản.
1.4. Ý nghĩa của đề tài
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học.
Qua quá trình thực hiện đề tài, sinh viên sẽ được củng cố và hệ thống
hoá những kiến thức đã học trong nhà trường vào nghiên cứu, vận dụng vào
thực tế sản xuất. Có cơ hội học hỏi trau dồi những kiến thức, kinh nghiệm
thực tế, nâng cao năng lực nghiên cứu, kỹ thuật cho bản thân.
Có kết luận về loại phân bón lá thích hợp cho giống hồng không hạt tại Phia
Đén, xã Thành Công, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng.
1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài.
Điều kiện tự nhiên của Phia Đén, xã Thành Công, huyện Nguyên Bình
rất phù hợp cho cây hồng sinh trưởng và phát triển: Nhiệt độ trung bình hàng
năm từ 20 – 22
0
C. độ ẩm trung bình từ 85 - 88%. Lượng mưa bình quân

từ đây cây hồng được di chuyển tới Nhật Bản (thế kỷ XVIII), Hàn Quốc (thế
kỷ XII), Việt Nam (thể kỷ XII), châu Mỹ (1866), Italia và Palestine (thế kỷ
XI) và Australia (năm 1893).
Như vậy, các kết quả nghiên cứu trên đều cho rằng hồng có nguồn gốc
xuất xứ ở vùng á nhiệt đới phía Nam châu Á, chủ yếu là vùng khởi nguyên
cây trồng miền Nam Trung Quốc.
2.1.1.2. Phân loại hồng
Theo Yung: Các nhà phân loại học Nhật Bản cho biết, hiện nay có 800
– 1000 loại hồng [11]. Cây hồng được trồng phổ biến ở các nước có khí hậu
ôn hòa thuộc Châu á, Bắc Mỹ và chỉ có 4 loài được trồng lấy quả đó là:
Diospyros kali L; D. Oleifera Cheng; D. virginiana linn; D. (Lotus l).
Theo ý kiến của một số tác giả khác, chi Diospyrcs gồm 400 loài, chủ
yếu phân bố ở vùng nhiệt đới châu á, châu Phi và vùng trung tâm Nam Mỹ,
chỉ vài loài gồm hồng phương Đông là thuộc vùng ôn đới [3], [4]
4
5
Tác giả Yonemori phân ra các loài trong chi Diospyros dựa vào kết
quả phân tích di chuyền (phương pháp phân tích DNA để xác định phả hệ)
(sơ đồ 2.1) [8].
Thụ phấn bất
biến
Thụ phấn biến đổi
Thụ phấn bất
biến
Thụ phấn biến đổi
Chát
Không chát
Hồng
(Nguồn: Đào Thanh Vân (2002) [8])
Hình 2.1: Sơ đồ phân loại hồng theo Mori 1953

Koshuhya, Hiratannenashi, có thể chát khi được thụ phấn và có một vài đốm
sẫm xung quanh hạt [9], [11].
6
7
Ghi chú: thụ phấn bất biến là những giống có màu thịt quả không bị
biến đổi bởi các nguồn hạt phấn khác nhau.
Theo Sugira, đề suất một sự phân loại mới, trong đó các giống được
phân nhóm thành nhóm không bền - độc lập (VIG – Volatile Inđêpnent
Gorup) và nhóm không bền phụ thuộc (VIG – Volatile Denpendent Group).
VIG tương ứng với PCNA và VDG bao gồm ba nhóm còn lại. [8], [9].
Sự khác biệt giữ nhóm VIG (nhóm PCNA) là quả có khả năng mất chát tự
nhiên. Khả năng này chủ yếu gây ra bởi sự pha loãng tanin trong quá trình sinh
trưởng quả, sự tích lũy tanin ngừng lại ở thời kỳ quả còn non. Trong khi đó quả
của nhóm VDG vẫn tích lũy tanin cho tới quả trưởng thành [2], [3], [11].
2.1.2. Đặc điểm thực vật học và yêu cầu ngoại cảnh của cây hồng
2.1.2.1. Đặc điểm thực vật học của cây hồng
• Rễ:
Rễ hồng phát triển yếu, thường khó hồi phục nếu bị sát thương cơ
giới. Cần quán triệt đặc điểm này để có biện pháp bảo vệ tốt bộ rễ cây hồng
trong quá trình chăm sóc và hết sức chú ý khi nhân giống bằng cách giâm rễ.
Nhiệt độ thích hợp cho bộ rễ hoạt động từ 12-25
0
C. Với phương pháp
dùng P132 để nghiên cứu hoạt động của rễ hồng, các tác giả ở Nhật Bản cho
kết quả, trong mùa rụng lá , rễ hồng hầu như không hoạt động, hấp thụ dinh
dưỡng rất chậm chỉ từ vụ xuân rễ mới bắt đầu hoạt động mạnh nhất vào hai
thời kỳ: cuối tháng 6, tháng 7 và trung tuần tháng 9 đầu tháng 10.
Rễ hồng chứa nhiều tanin, cường độ hô hấp yếu, nhu cầu hàm lượng
oxy trong đất thấp, vì vậy cây hồng có thể chịu úng.
• Thân cành:

Có 3 loại hoa:- hoa cái nhị đực thoái hóa hoặc không có phấn.
- Hoa đực nhị cái thoái hóa, hoa nhỏ chỉ bằng 1/3 hoa cái.
- Hoa lưỡng tính có thể tự thụ phấn được.
Hoa đực và hoa cái có thể phát sinh trên cùng một cây, nhưng tỷ lệ
không ổn định, nếu cây còn khỏe, dinh dưỡng đủ, hoa cái thường ra nhiều.
Nếu cây già yếu, dinh dưỡng kém thì hoa đực ra nhiều. Các giống mang nhiều
8
9
tính hoang dại thì có hoa lưỡng tính, có thể tự thụ phấn tỷ lệ đậu quả cao xong
hạt nhiều, phẩm chất kém.
Các giống hồng tốt, thường có hoa đơn tính, các giống không cần thụ
phấn vẫn đậu quả được, quả hoàn toàn không hạt như hồng Hạc Chì, hồng
Lạng Sơn. Nhược điểm là hoa cái ít, đậu quả thưa, năng suất không cao.
Có giồng cần được thụ phấn tốt thì quả mới to, đẹp song có hạt. Nếu
thụ phấn không tốt thì quả nhỏ nhưng không có hạt. Rõ nhất là ở hồng Thạch
Thất, với các giống này nên trồng cây thụ phấn thì năng suất sẽ cao hơn, nếu
thời tiết xấu ong bướm không hoạt động thì nên thụ phấn bổ khuyết.
• Quả, hạt:
Tỷ lệ đậu quả hồng tương đối khá vì hoa to, dễ dàng thụ phấn nhờ ong,
bướm, ruồi, lại nở hoa vào thời gian tương đối muộn, thời tiết ấm áp, hồng
xuất hiện rụng quả sinh lý lần 1 vào tháng 5 khi quả vừa đậu to bằng ngón tay.
Xuất hiện đợt rụng quả sinh lý lần 2 vào tháng 7. Lần này rụng quả ít hơn lần
1, song cũng ảnh hưởng rõ đến sản lượng. Quả hồng rụng rải rác đến lúc trước
thu hoạch do các nguyên nhân sâu bệnh, gió bão, tuy nhiên 97% quả rụng là
do rụng quả sinh lý .Các nguyên nhân dẫn đến rụng quả là do có thể không đủ
phấn, kết quả qua sai, gặp hạn (thiếu dinh dưỡng ).
Để chống rụng quả có thể thụ phấn bổ khuyết, phun các hóa chất đậu
quả, tỉa bớt quả tỉa quả làm cho quả đủ dinh dưỡng, phát triển thuận lợi sẽ
không rụng, chỉ nên để lại 1-2 quả một cành trên các quả ngắn, 2-3 quả các
cành quả dài, hoặc cứ tính 20 lá lành lặn cho nuôi 1 quả. Tỉa quả hợp lý là

3000lux) những ngày quá nắng đều bất lợi cho lá và quả.
Những vùng có gió bão vào tháng 8-10 cần có biện pháp phòng chống
gió cho cây, hạn chế rụng quả (tốt nhất là trồng đai rừng phòng hộ).
• Đất đai:
Hồng không kén đất lắm nhưng tốt nhất có tầng dày >70cm, thoát nước
giữ độ ẩm (đất phù sa ven sông, phù xã thổ, đất ven đồi núi).
Hồng rấm ưa đất chua, PH=5-5,5 chịu được đất đồi; hồng ngâm ưa đất
có PH=6, hợp với đất ẩm ven sông suối
2.1.3. Sự hấp thu dinh dưỡng qua lá
Hầu hết các chất dinh dưỡng xâm nhập vào cây qua hệ thống rễ. Tuy
nhiên ngoài rễ ra thì các bộ phận khác của cây đặc biệt là lá cũng có khả năng
hấp thu dinh dưỡng khi tiếp xúc với dung dịch dinh dưỡng.
Bón phân qua lá có vai trò ngày càng gia tăng trong dinh dưỡng cây
trồng và đã đựơc nông dân áp dụng nhiều năm nay ở khắp nơi trên thế giới.
Phân bón qua lá được nhìn bằng cặp mắt hoài nghi và xem như một món đồ
để trang điểm hơn là lợi ích thiết thực trong sự tăng trưởng và phát triển của
cây trồng để từ đó nâng cao lợi tức cho nhà nông. đặc biệt đối với các chất
dinh dưỡng đa lượng vì cây trồng cần một lượng lớn trong khi lá cây chỉ có
thể đón nhận một lượng nhỏ so với nhu cầu. Vì vậy các vấn đề tồn tại như tại
sao, khi nào và áp sụng biện pháp bón phân qua lá ra sao cần được hiểu rõ.
10
11
Bón phân qua lá là biện pháp phun một hoặc nhiều chất dinh dưỡng cho
cây trồng lên các phần ở phía trên mặt đất của cây (lá, thân, cuống, hoa, trái)
với mục đích nâng cao sự hấp thu dinh dưỡng qua các phần trên không của
cây trồng.
Để hiểu được chức năng của phương pháp bón phân qua lá cần giải
thích rõ ràng các quy trình sinh học khác nhau của cơ chế hấp thu qua lá và
phân phối dinh dưỡng bên trong cây trồng. để làm các nhiệm vụ bên trong lá
hoặc vận chuyển các chất dinh dưỡng khoáng ra khỏi lá đến các bộ phận khác

lá cũng như được hấp thu từ rễ qua các mao mạch trong thân cây.
Sự hấp thu dinh dưỡng vào bên trong tế bào: những nguyên tắc chung
về việc hấp thu chất dinh dưỡng khoáng từ các không bào vào bên trong từng
tế bào lá cũng giống như sự hấp thu từ rễ. Khả năng hấp thu của các tế bào lá
cây cũng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố ngoại vi như: ẩm độ, nhiệt độ, ánh
sáng Cơ chế tùy thuộc năng lượng để hấp thu dinh dưỡng xuyên qua màng
vào bên trong tế bào được môi giới bởi các protein vận chuyển khác nhau,
như những chất chuyên chức năng chuyển tải hoặc luồng tĩnh điện với ion H
+
ATP. Những sự kiện này làm gia tăng lực hấp thu bằng cách tạo nên độ chênh
lệch hóa tĩnh điện ở bề mặt màng tế bào. Sự hấp thu qua tế bào lá có thể được
điều khiển qua tình trạng dinh dưỡng của cây.
Khi áp dụng những chất dinh dưỡng lưu động (mobile nutrients) cho
các lá non, lá còn đang phát triển thì sự chuyển dịch xuống rễ chậm hơn, điều
này kích thích sự hấp thu dinh dưỡng từ rễ do bộ lá phát triển và quang hợp
tốt hơn đối với các lá già.
Sự phân bố chất dinh dưỡng trong lá và chuyển dịch chúng ra
ngoài: sự phân bố từng chất dinh dưỡng riêng biệt bên trong và chuyển dịch
chúng ra ngoài lá sau khi phun phân bón tùy thuộc vào mô libe và tính cơ
động của hệ mao dẫn. Các chất lưu động libe như: N, P, K, Mg được phân bố
vào mỗi mô mao dẫn cũng như mỗi mô libe bên trong lá cây.
2.2. Vai trò của phân bón qua lá đến năng suất và chất lượng cây trồng
12
13
Bón phân qua lá có một vai trò ngày càng gia tăng trong dinh dưỡng
cây trồng và đã được nông dân áp dụng nhiều năm nay ở khắp nơi trên thế
giới, mặc dù thong tin về lĩnh vực này trên các tài liệu khoa học còn hạn chế.
Phun phân bón qua lá là kỹ thuật cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng
qua lá. Kỹ thuật này được phát hiện từ những người làm vườn ở Châu Âu từ
thế kỷ thứ 17 và phải hơn 1 thế kỷ sau nó mới trở thành đối tượng nghiên cứu

sinh vật, do sự bất cân đối dinh dưỡng trong đất, do thiếu oxy hay khô hạn
gây cản trở bộ rễ hút chất dinh dưỡng. Do vậy, bón phân qua lá giúp hiệu
chỉnh hiện tượng thiếu dinh dưỡng vì phân bón được phun ngay vào chỗ đang
thiếu. Khi phân bón xuống đất có thể không phát huy được hiệu quả đối với
một vài nguyên tố nào đó (như Mn trong đất có PH cao) thì phân bón qua lá
giúp ngăn ngừa hiện tượng thiếu dinh dưỡng này.[12 www.humixvn.com]
Việc bón phân qua lá phần nào thay thế hoặc bổ sung cho phương pháp
bón phân qua rễ, nhưng không bao giờ thay thế hoàn toàn. Bón phân qua lá
giúp duy trì sự phát triển khỏe mạnh của cây và làm gia tăng chất lượng nông
sản vì có thể áp dụng đúng lúc, đúng nơi, độc lập với các điều kiện đất đai và
nhất là khả năng tác động nhanh của nó.
Sự gia tăng năng suất ngoài mong đợi sau khi áp dụng bón phân qua lá là do
sự liên hợp dẫn đến gia tăng sự hấp thu dinh dưỡng từ bộ rễ. Sự gia tăng này
là do bón phân qua lá tạo nên sự cân bằng các chất dinh dưỡng bị thiếu, mà đó
lại là yếu tố giới hạn sự quang hợp và sản xuất sinh học (Bairre và Baierora,
1999). Ngoài ra bón phân qua lá còn gia tăng khả năng chống chịu sâu bệnh
và tuyết lạnh.[12 www.humixvn.com]
2.3. Tình hình nghiên cứu, sản xuất và sử dụng phân bón lá
Trong xu hướng phát triển mới, nền nông nghiệp dựa chủ yếu bằng
phân bón vô cơ sẽ được thay thế dần bằng nền nông nghiệp bền vững, ở đó
phân bón được sử dụng có hiệu quả hơn nhiều, không để các chất dinh dưỡng
dư thừa gây lãng phí và gây ô nhiễm môi trường, sử dụng phân bón hữu cơ,
không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật độc hại tới môi trường và con người,
tăng chất lượng sản phẩm nông nghiệp. Xu hướng phát triển này đã trở thành
14
15
yêu cầu và động lực cho sự phát triển các loại phân bón, thuốc bảo vệ thực
vật, chất tăng trưởng hữu cơ cũng như các phương pháp sử dụng phân bón
mới có hiệu quả [6].
Đầu thế kỷ XX, đã nghiên cứu và phát triển các loại phân bón qua lá, là

đã công nhận và cho phép Supermix được sử dụng trong nông nghiệp. Trong
hai năm 1997 – 1998 công ty tiếp tục khảo sát hiệu quả sử dụng của Supermix
trên lúa và cây ăn quả.
Từ nguồn nguyên liệu phế thải, giá rẻ như da thải động vật, rong biển,
cá biển Tiến sỹ Đặng Xuân Toàn và đồng nghiệp (Công ty cổ phần Kỹ thuật
môi trường) đã nghiên cứu thành công công nghệ sản xuất phân bón lá chất
lượng cao. Đó là dây chuyền sản xuất phân bón lỏng bằng công nghệ sinh học
tiên tiến là thủy phân bằng enzym các phế thải giàu protein tương đối toàn
diện [6].
2.4. Tình hình nghiên cứu và sản xuất hồng trên thế giới và ở Việt Nam
2.4.1. Tình hình nghiên cứu và sản xuất hồng trên thế giới
Hiện nay Trung Quốc là nước trồng hồng nhiều nhất, hầu hết các tỉnh
đều trồng hồng chỉ trừ một số tỉnh biên giới như: Hắc Long Giang, Nội Mông,
Tân Cương, Tây Tạng Các tác giả Trung Quốc cho rằng, các vùng trồng
hồng tốt nhất ở vĩ tuyến 33 – 37
0
, ở đây có nhiều giống tốt chất lượng cao
sinh trưởng thuận lợi [2], [3].
Trong lịch sử phát triển của cây hồng, theo Jung: Từ Trung Quốc hồng
được đưa sang Nhật Bản, sang Triều Tiên, sang châu Âu rồi đến Mỹ [11].
Hiện nay những nước trồng hồng và xuất khẩu nhiều nhất là: Nhật
Bản, Trung Quốc, Triều Tiên Dưới đây là những bảng về diện tích, năng
suất, sản lượng của một số nước trồng hồng lớn trên thế giới.
Bảng 2.1: Diện tích trồng hồng của một số nước trên thế giới năm 2007 – 2010
Đơn vị : ha
STT Tên nước Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010
1 Trung Quốc 643.676 683.869 703.930 720.263
2 Hàn Quốc 28.839 30.669 30.347 31.808
3 Nhật Bản 23.200 23.000 22.700 22.400
4 Brazin 8.065 8.797 8.638 8.644

18
9 Mexico 98.222 89.796 88.542 82.000
10 Thế giới 50.754 50.788 50.746 50.557
(Nguồn: FAO năm 2012)
Qua bảng 2.3 ta thấy, Trung Quốc là nước trồng hồng lớn nhất thế giới
nhưng về năng suất thì phải kể đến Brazin với 198.203 tạ/ha năm 2007 (đứng
đầu thế giới) và tăng giảm thất thường qua các năm. Kế đến Italia (175.000
tạ/ha năm 2007) và Niudilan (119.611 tạ/ha năm 2007). Trong khi đó Trung
Quốc lại là nước có năng suất thấp trong những nước đứng đầu này (chỉ đạt
40.503 tạ/ha năm 2007 và tăng lên 42.287 tạ/ha năm 2010). Điều này cho thấy
Trung Quốc mới chỉ chú trọng tới diện tích mà chưa có sự đầu tư về giống và
kỹ thuật canh tác dẫn đến năng suất chưa cao.
18
19
Bảng 2.3: Sản lượng trồng hồng của một số nước trên thế giới năm
2007 - 2010
Đơn vị: tấn/ha
STT Tên nước Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010
1 Trung Quốc 2.607.102 2.744.889 2.871.202 3.445.801
2 Hàn Quốc 395.614 430.521 416.705 390.611
3 Nhật Bản 244.800 266.600 258.000 189.400
4 Brazin 159.851 723.297 171.555 164.495
5 Italia 52.500 50.000 52.581 49.000
6 Niudilan 2.152 2.900 2.700 2.600
7 Iran 1.514 1.576 1.632 2.100
8 Autraylia 715 720 688 670
9 Mexico 442 440 425 410
10 Thế giới 3.659.472 3.880.422 3.978.424 4.056.987
(Nguồn: FAO năm 2012)
Qua bảng 2.4 ta thấy, mặc dù năng suất Trung Quốc không cao nhưng

rằng quả hồng chín rất ngọt, hương vị đậm đà [1].
Ở Mỹ, trước đây chưa phát triển được là do người ta chưa quen các ăn
hồng chín. Nhưng điều này lý giải các ý kiến cho rằng hồng rất khó xuất khẩu
sang thị trường châu Mỹ [2], [3].
Theo tài liệu của Voronxov (1982), trên thế giới hiện nay trồng ba
loại hồng chủ yếu say đây [1]:
(1) Dispyros lotus còn gọi là hồng Capcazơ: có nguồn gốc từ Trung Quốc, ở
Trung Quốc được gọi là quân thiên tử, ở Việt Nam gọi là cậy. Loài này quả
nhỏ màu vàng, chất lượng thấp, nhiều hạt, độ chát (hàm lượng tanin) cao, ít có
giá trị thương phẩm.
20
21
Hồng dại (Dispyros lotus L.): nhị bội thể 2n = 30, là loại gốc ghép
chính đối với các giống hồng Phương Đông ở Liên Xô, được sinh trưởng phát
triển nhiều ở trong rừng núi Kapkaz, đồng thời có ở Iran, Ấn Độ, Trung Quốc.
Hồng dại tái sinh rất tốt bằng mầm dễ cũng như bằng hạt, cây có thể
cao 20 – 30m, đường kính thân 70cm, có tán hình cầu. Hồng dại thuộc loại
đơn tính khác gốc (tức là cây cái riêng). Một cây có thể cho 50kg quả. Quả bé
chỉ nặng 15g và chát, có nhiều hạt. Sau khi chín kỹ, quả ăn được. Người ta
dùng quả ở dạng phơi khô và làm mứt, có chứa hơn 40% đường đơn.
(2) Dispyros viginiana ( Dispyros viginiana L.): tứ bội thể 4n = 60
hoặc lục bội thể 6n = 90. Nguồn gốc ở Bắc Mỹ, mọc hoang dại ở các bang
Virginiana, Kanzas, Kissuri, Florida, và California, cây cao đến 20m, có khi
cao đến 37m và chu vi thân 2m ( V.A. Alekexecva, 1962), cây cho sản lượng
cao, quả bé nhưng đỏ chín đỏ thơm, ngon. Nó cũng thuộc loại hoa đơn tính
khác gốc, hoa bé màu trắng hay hơi vàng, hoa cái to hơn hoa đực. Thụ phấn
nhờ côn trùng. Quả mọng, đường kính 3 – 4 cm màu vàng sáng, chín vào
tháng 10, không chát, quả nặng khoảng 22g, tỷ lệ đường 10%, tỷ lệ chất khô
gần 30% hàm lượng Vitamin C khá cao (115g trên 100g tươi ăn được), chất
lượng quả cao hơn hồng Phương Đông. Ở nhiều nước trên thế giới, người ta

Cây sinh trưởng khỏe, sản lượng cao nhưng phẩm chất quả kém nên
không được người tiêu dùng ưa thích. Vì quả có vị hôi nên người ta còn gọi là
hồng hôi, hồng trâu. Hạt hồng rất dễ nảy mầm, cây con sinh trưởng khỏe,
nhanh, có thể ghép mắt hồng thành ghép dễ dàng nhưng sau một thời gian cây
bị chết vì càng ngày vị trí ghép to ra, nhưng gốc ghép vẫn bé, vỏ bị nứt nẻ
nhiều, có khi cây ghép bị chát sau khi mới bói quả, vì vậy không được dùng
hạt của loài cây này làm gốc ghép [1], [4].
(2) Hồng cậy (Diospyros lotus L.): được trồng giải rác ở các tỉnh phía
Bắc Việt Nam như Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình [1], [4].
Thân cây cao to, tán lớn, lá nhỏ hẹp, mặt trên màu xanh đậm, nhẵn
nhưng không bóng, mặt lá màu xanh trắng có ít lông. Quả hình tròn dẹt, bé,
chiều cao trung bình 2,2cm, đường kính quả trung bình 2,6cm. Khối lượng
quả trung bình 10g, số hạt trong quả 6 – 7 hạt. Tai quả phẳng cong, trông quả
tròn và gai ngắn, hạt màu nâu đậm bóng, dạng bầu, đít bằng hơi vát, hạt dài
14,5mm, rộng 8,8mm, dày 3,5mm. Trọng lượng 100 hạt tươi là 18,6g. Ở
những vùng trồng cây, người ta thường thu quả khi còn xanh để lấy nhựa dán
quạt giấy, diều sáo Hiện nay nông dân thường thu hoạch quả chín để lấy hạt
gieo làm gốc ghép [1], [4].
22
23
(3) Hồng trơn (lá nhãn) ( Diospyros kaki L.): được trồng nhiều ở các
tỉnh phía Bắc Việt Nam và vùng Đà Lạt Lâm Đồng [1], [4].
Thân cây thường có màu nâu, cành hẹp, tán hình tròn hoặc hình tháp, lá
hình bầu dục hoặc elíp, mặt trên màu xanh sẫm, nhẵn, mặt dưới có lông màu
xanh nhạt hoặc trắng. Quả to, nhỏ tùy giống, khi còn xanh vỏ nhẵn, trơn màu
xanh lục, khi chín màu vàng đỏ. Trong quả có ít hạt hơn hai loài trên (0-6
hạt). Hạt nhỏ, mỏng, màu cánh gián.
Cây sinh trưởng khỏe, sản lượng quả cao, phẩm chất quả ngon hơn
hồng lông, nên nhân dân ta xếp hồng trơn vào loại quả quý, giá bán trên thị
trường rất cao.

0
C. Biên độ nhiệt ngày đêm là 9
0
C. Các tháng trong mùa
khô có biên độ nhiệt ngày đêm lớn hơn mùa mưa.
+ Chế độ mưa: mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 5, thường mưa
rào và giông vào buổi trưa – chiều và mùa mưa thường kết thúc vào giữa
tháng 10 hoặc giữa tháng 11. Lượng mưa trung bình hàng năm là 1.755mm
(theo số liệu thống kê kể từ năn 1977 - 1991).Tháng 9 có lượng mưa trung
bình cao nhất (300mm). Trong mùa mưa lượng mưa trung bình hàng ngày dao
động trong phạm vi 50-80mm. Lượng mưa vào mùa mưa chiếm 80% lượng
mưa trong năm.
+ Độ ẩm không khí: trong mùa mưa độ ẩm không khí trung bình
khoảng 85%. Thời kỳ ẩm nhất trong năm (các tháng 7,8,9) có độ ẩm trung
bình 90 - 92%. Vào mùa khô độ ẩm giảm xuống 80%. Độ ẩm tương đối thấp
(vào tháng 2-3) là 75-78%.
Hồng trồng ở Đà Lạt chủ yếu là các giống hồng thuộc loài Diospyros
kaki. Đây loài hồng trồng chủ yếu ở Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên và một
số tỉnh phía Bắc Việt Nam.
Một số giống hồng tốt được trồng phổ biến:
- Hồng Trứng lốc: quả hình trứng, cân đối, khi chín có vỏ màu hồng,
bóng láng. Cây có tán rất lớn, sau 15 năm có thể có bán kính 5m. Năng suất
rất cao, có khả năng chống chịu tốt đối với sâu bệnh, rất rễ trồng. Đây là một
trong những giống hồng được ưa chuộng nhất hiện nay. Quả chín rất ngọt,
vừa giòn vừa dẻo, thích hợp cho việc vận chuyển đi xa, năng suất năm thứ 5
có thể đạt 5-6 tạ/cây/năm. Do tán cây rộng, nên hồng trứng lốc được thu
hoạch từ tháng 6 đến tháng 8.
- Hồng Trứng muộn: quả hình trứng, khi chín có vỏ màu hồng, bóng.
Cây có tán trung bình 7-8m. Năng suất cao, chống chịu tốt. Quả khó rụng khi
gió lớn. Mặc dù chất lượng không bằng hồng trứng lốc, nhưng vì chín muộn

C, cao tuyệt đối
36
0
C, thấp tuyệt đối 8
0
C, độ ẩm không khí trung bình 83,8%. ở đây hồng được
trồng tập trung ở hai xã Thạch Đại và Thạch Lĩnh, đất đai tương đối cao, dốc
thoát nước, diện tích trồng chiếm tới 35,3% tổng diện tích cây ăn quả. Chỉ có
2 giống được trồng phổ biến sau đây:
25

Trích đoạn Mật độ, khoảng cách Đặc điểm của giống hồng không hạt: giống hồng Bắc Kạn
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status