nghiên cứu ảnh hưởng của một số loại phân bón lá đến sinh trưởng và năng suất của lúa lai syng trong điều kiện vụ xuân tại huyện hiệp hòa, tỉnh bắc giang - Pdf 22

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
NGUYỄN VĂN TÙNG
NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA MỘT SỐ LOẠI
PHÂN BÓN LÁ ĐẾN SINH TRƢỞNG VÀ NĂNG SUẤT
CỦA LÖA LAI SYN6 TRONG ĐIỀU KIỆN V XUÂN
TẠI HUYỆN HIỆP HÕA TỈNH BẮC GIANG Chuyên ngành: Trồng trọt
Mã số: 60.62.01
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP


Nguyễn Văn Tùng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp trong suốt quá trình thực hiện đề tài,
tôi luôn nhận được sự quan tâm giúp đỡ của cô giáo TS. Nguyễn Thị Lân,
PGS.TS Nguyễn Thế Hùng. Các thầy, cô đã chỉ bảo tận tình về phương pháp
nghiên cứu, cũng như trong quá trình hoàn chỉnh luận văn.
Tôi cũng nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của các thầy giáo, cô giáo
Khoa sau đại học, chính quyền địa phương, các bạn đồng nghiệp và gia
đình.Nhân dịp này, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
1. Cô giáo TS. Nguyễn Thị Lân, giảng viên khoa Nông học Trường Đại
học Nông Lâm Thái Nguyên. Cô đã trực tiếp hướng dẫn, dành cho tôi sự giúp
đỡ tận tình và sâu sắc trong suốt quá trình hoàn thành luận văn này.
2. Thầy giáo PGS.TS Nguyễn Thế Hùng đã giúp tôi rất nhiều trong quá
trình thực tập và hoàn chỉnh luận văn.

Năng suất lý thuyết
NSTT
:
Năng suất thực thu
STT
:
Số thứ tự
TB
:
Trung bình
PGS.TS
:
Phó giáo sư, tiến sỹ
NN&PTNT
:
Nông nghiệp và phát triển nông thôn
DANH MC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa trên thế giới giai đoạn
2005 - 2009 5
Bảng 2.2. Diễn biến diện tích, năng suất và sản lượng lúa ở Việt Nam
giai đoạn 2005 - 2009 7
Bảng 3.1. Ảnh hưởng của một số loại phân bón lá đến khả năng đẻ
nhánh giống lúa lai Syn 6, vụ xuân 2010 và 2011 40
Bảng 3.2. Ảnh hưởng của một số loại phân bón lá đến chiều cao cây của
giống lúa lai Syn 6, vụ xuân 2010 và 2011 42
Bảng 3.3. Ảnh hưởng của loại phân phun qua lá đến chỉ số diện tích lá
của giống lúa lai Syn 6, vụ xuân 2010 và 2011 43
Bảng 3.4. Ảnh hưởng của loại phân bón lá đến khối lượng chất khô của
giống lúa lai Syn 6, vụ xuân 2010 và 2011 45

2.3. Kỹ thuật chăm sóc 33
2.3.1. Ngâm, ủ và làm mạ 33
2.3.2. Làm đất, cấy 33
2.3.3. Biện pháp chăm sóc 33
2.4. Các chỉ tiêu nghiên cứu và phương pháp theo dõi 34
2.4.1. Chỉ tiêu về sinh trưởng 34
2.4.2. Chỉ tiêu sinh lý 35
2.4.3. Các chỉ tiêu về sâu bệnh hại 35
2.4.4. Các chỉ tiêu năng suất 37
2.4.5. Phân tích một số chỉ tiêu về chất lượng gạo 38
2.4.6. Phương pháp xử lý số liệu 38
CHƯƠNG III: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 39
3.1. Ảnh hưởng của một số loại phân bón lá đến khả năng sinh trưởng của
giống lúa lai Syn6 39
3.1.1. Ảnh hưởng của một số loại phân bón lá đến khả năng đẻ nhánh của lúa
39
3.1.2. Ảnh hưởng của một số loại phân bón lá đến chiều cao cây lúa 42
3.2. Ảnh hưởng của một số loại phân bón lá đến chỉ tiêu sinh lý của giống
lúa lai Syn6 43
3.2.1. Ảnh hưởng của một số loại phân bón lá đến chỉ số diện tích lá của lúa
43
3.2.2. Ảnh hưởng của một số loại phân bón lá đến khối lượng vật chất
khô của lúa 45
3.3. Ảnh hưởng của một số loại phân bón lá đến tình hình sâu bệnh hại và
khả năng chống đổ của giống lúa lai Syn6 46
3.4. Ảnh hưởng của một số loại phân bón lá đến năng suất và chất lượng
gạo của giống lúa lai Syn6 48
3.4.1. Ảnh hưởng của một số loại phân bón lá đến các yếu tố cấu thành
năng suất lúa 48
3.4.2. Ảnh hưởng của một số loại phân bón lá đến năng suất và hiệu quả

thu ngoại tệ cho quốc gia.
Tại đại hội cây trồng quốc tế lần thứ 5 ở Hàn Quốc diễn ra từ ngày 13 –
18 tháng 4 năm 2008, Giáo sư MaKie Kobulun (thuộc Đại học Tokyo, Nhật
Bản) đề cập đến chiến lược lai tạo giống cây trồng và kỹ thuật canh tác trong
điều kiện môi trường đã và đang thay đổi rất nhiều. Việc gia tăng sản lượng
cây trồng trước đây dựa trên việc gia tăng hai nhân tố cùng một lúc là năng
suất và diện tích thì trong tương lai sẽ phải nhấn mạnh một nhân tố năng suất.
Sự thay đổi khí hậu toàn cầu, môi trường ngày càng ô nhiễm là một thách
thức to lớn. Trong đó thiếu nước, nhiệt độ dưới điểm cực thuận cho sinh lý
cây trồng sẽ làm hạn chế sinh trưởng và năng suất nhiều nhất. Giải pháp khắc
phục phải được tiến hành hai lĩnh vực cùng một lúc là di truyền và kỹ thuật
canh tác.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

2
Việt Nam có nghề truyền thống trồng lúa nước từ lâu đời, mặc dù diện
tích đất trồng lúa không lớn nhưng nước ta không những sản xuất lúa đảm bảo
an ninh lương thực quốc gia mà còn vươn lên thành nước xuất khẩu gạo
đứng thứ 2 thế giới. Tuy nhiên, chất lượng gạo Việt Nam còn thấp nên giá
gạo xuất khẩu thấp hơn so với giá gạo của Thái Lan. Nguyên nhân do trình
độ sản xuất của nước ta chưa cao, trước đây chúng ta mới chỉ chú ý nhiều
đến các biện pháp kỹ thuật để nâng cao năng suất mà chưa chú ý nhiều đến
vấn đề chất lượng.
Để nâng cao năng suất, chất lượng lúa gạo Việt Nam đồng thời có thể
khai thác tốt tiềm năng đất đai, khí hậu của vùng trung du, miền núi phía Bắc
(vùng có mùa đông lạnh khá dài) ngoài công tác chọn tạo giống thì việc tác
động các biện pháp kỹ thuật thâm canh đặc biệt là chế độ phân bón hợp lý với
thời kỳ sinh trưởng, phát triển của lúa là hết sức quan trọng. Phân bó n đượ c
chia thành 3 phầ n chính : đa lượ ng (đạm, lân, kali); trung lượ ng (lưu huỳ nh ,

và khả năng chống đổ.
Xác định ảnh hưởng của loại phân bón qua lá đến yếu tố cấu thành năng
suất, năng suất lúa và chất lượng gạo.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

4
CHƢƠNG I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Cây lúa (Oryza sativa L) là cây trồng có từ lâu đời, gắn liền với quá
trình phát triển của loài người và đã trở thành cây lương thực chính của Châu
Á nói chung, người Việt Nam nói riêng. Khi xã hội càng phát triển nhu cầu ăn
ngon của người dân ngày càng tăng, trong đó lúa gạo không thể thiếu trong
bữa ăn hằng ngày của người dân trong và ngoài nước.
Năng suất cây trồng nói chung và lúa nói riêng chịu tác động của các
yếu tố tự nhiên như đất, nước, dinh dưỡng, khí hậu, thời tiết đồng thời nó
cũng chịu tác động trực tiếp của các yếu tố kinh tế - xã hội như trình độ canh
tác, biện pháp kỹ thuật, khả năng đầu tư, thâm canh…Việc chăm sóc, bón
phân nhằm phân bố hợp lý đơn vị diện tích lá/đơn vị diện tích đất, tận dụng

Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia, CHDCND Triều Tiên, Thái Lan,
Philippin và Nhật Bản sản xuất khoảng 90% sản lượng lúa gạo của châu Á và
khoảng 88,6% sản lượng gạo của thế giới. Riêng hai nước Ấn Độ và Trung
Quốc sản xuất 67% tổng sản lượng lúa gạo của châu Á và khoảng 57% tổng
sản lượng của thế giới. Những nước dẫn đầu về năng suất lúa ở châu Á là
CHDCND Triều Tiên: 75 tạ/ha, Hàn Quốc: 62 tạ/ha, Nhật Bản: 59 - 62 tạ/ha,
Trung Quốc: 57- 58 tạ/ha.
Bảng 2.1. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa trên thế giới giai đoạn
2005 - 2009
STT
Năm
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(triệu tấn)
1
2005
155,026
40,921
634,389
2
2006
155,774
41,163
641,094
3
2007
155,952

2005 là 6.394 triệu ha.
Năng suất lúa bình quân trên thế giới cũng tăng khoảng 1,4 tấn/ha trong
vòng 24 năm từ năm 1961 đến 1985, đặc biệt sau cuộc cách mạng xanh của
thế giới vào những năm 1965 - 1970, với sự ra đời của các giống lúa thấp cây,
ngắn ngày, không cảm quang, mà tiêu biểu là giống lúa IR5, IR8 nên năng
suất lúa thế giới giới liên tục được cải thiện. Năm 2005 năng suất lúa đạt
40,921 tạ/ha, năm 2008 đạt 43,068 tạ/ha, tăng 2,615 tạ/ha. Năm 2009 năng
suất lại giảm so với năm 2008 từ 43,068 tạ/ha xuống còn 42,044 tạ/ha.
Do diện tích và năng suất tăng nên sản lượng gạo toàn cầu cũng tăng lên
từ 200 triệu tấn vào năm 1960 đến năm 2005 là 634,389 triệu tấn, tăng 434,389
triệu tấn. Năm 2009 sản lượng tăng cao nhất đạt 678,688 triệu tấn, tăng 44,299
triệu tấn. Theo dự báo của các nhà khoa học trên thế giới, năng suất trên thế giới
đã đạt được ở gần mức tối đa, song sản lượng lúa trên thế giới sẽ giảm vì diện
tích gieo trồng ngày một bị thu hẹp do quá trình độ thị hoá.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

7
2.2.2. Tình hình sản xuất lúa tại Việt nam
Việt Nam là một nước có nền kinh tế nông nghiệp dựa trên sản xuất lúa
gạo, trải qua hơn 4.000 năm lịch sử phát triển của cây lúa luôn gắn liền với sự
phát triển của đất nước. Nghề trồng lúa ở nước ta thuộc loại có lịch sử lâu đời
nhất trong nghề trồng lúa ở nước Châu Á. Nằm giữa vùng Đông Nam Á, khí
hậu nhiệt đới gió mùa, đặc biệt là lượng bức xạ cao, Việt Nam rất thích hợp
với sự phát triển của cây lúa. Với nhiều đồng bằng châu thổ rộng lớn có lượng
phù sa bồi đắp tương đối bằng phẳng và màu mỡ từ Bắc tới Nam (đồng bằng
châu Sông Hồng, đồng bằng châu thổ Cửu Long) cùng một loạt châu thổ nhỏ
hẹp ở ven sông, ven biển miền trung.
Bảng 2.2. Diễn biến diện tích, năng suất và sản lượng lúa ở Việt Nam giai
đoạn 2005 - 2009

7.440.100
52,278
38.895.500
(Nguồn: Số liệu thống kê của FAOSTAT năm 2010)
Qua bảng 2.2 cho thấy, diện tích gieo cấy lúa nước ta thay đổi không đáng
kể, năm 2005 cả nước trồng được 7.329.200 ha, năm 2009 là 7.440.100 ha. Theo
dự báo, trong giai đoạn tới diện tích trồng lúa có xu hướng giảm do tốc độ đô thị
hóa ngày càng mạnh. Để đảm bảo an ninh lượng thực trong điều kiện diện tích có
hạn, nước ta đã không ngừng đưa kỹ thuật tiến bộ mới, đặc biệt là các giống lai
nên năng suất tăng từ 48,89 năm 2005 lên 52,278 tạ/ha năm 2009.
Do năng suất cao nên sản lượng lúa tăng một cách nhanh chóng từ
35.832.900 triệu tấn năm 2005, đến 38.895.500 triệu tấn năm 2009. Theo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

8
đánh giá của IRRI, Việt Nam là nước có tốc độ tăng trưởng về lúa nhanh nhất
khu vực Châu Á Thái Bình Dương trong thập kỷ 90 tốc độ tăng sản lượng lúa
gạo của Việt Nam tăng là 2,8% trong khi của thế giới tăng là 1,1% và khu vực
là 1,0%.
Đối với vựa lúa lớn nhất cả nước đồng bằng sông Cửu Long, từ năm
1975 đến năm 2008 có những bước tiến rõ rệt. Từ vùng lúa nổi ở An Giang,
Đồng Tháp, vùng trũng phèn Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên, với chỉ
một vụ lúa mùa, năng suất thấp và bấp bênh nay đã chuyển dần thành vùng lúa
2-3 vụ ngắn ngày năng suất cao, ổn định, cộng với những hệ thống canh tác đa
dạng, đã góp phần rất đáng kể vào sản lượng lương thực và lượng nông sản
hàng hoá xuất khẩu hàng năm của cả nước. Năng suất bình quân cả năm của
toàn đồng bằng đã gia tăng từ 2,28 t/ha (1980) đến 3,64 tấn/ha (1989) 5,0
tấn/ha (2005) 5,3 tấn/ha (2008). Hiện nay, ĐBSCL có tổng diện tích gieo trồng
lúa gần 3,9 triệu ha chiếm 53,4% diện tích gieo trồng lúa cả nước, cung cấp

dụng ưu thế lai của lúa. Người đi tiên phong trong lĩnh vực ưu thế lai là J.
W.Jones (1926). Ông là người đầu tiên phát hiện về ưu thế lai của lúa ở
những tính trạng số lượng và năng suất. Sau Jones, nhiều công trình nghiên
cứu khác xác nhận sự xuất hiện ưu thế lai ở lúa về sự tích luỹ vật chất khô
(Rao, 1965; Jenning, 1967), về một số đặc tính sinh lý (M.C Donal và cs.,
1971; Lin và Yuan, 1980…). Virmani và cs., (1986) đã kết luận rằng: Ưu thế
lai ở lúa biểu hiện đa dạng, có thể làm tăng từ 36,9 – 91,0% năng suất hạt, từ
55,7% số hạt trên bông, 14 – 31% khối lượng 1000 hạt.
Trong lịch sử phát triển lúa lai trên thế giới. Trung Quốc là nước đầu
tiên sử dụng thành công ưu thế lai của lúa vào sản xuất nông nghiệp. Từ năm
1964 trở về trước các nhà chọn tạo giống lúa trên thế giới cũng như Trung
Quốc đã chọn tạo giống lúa mới theo phương pháp lai bình thường. Năm
1960 khi theo dõi thí nghiệm của mình Viên Long Bình phát hiện một cây lạ
khoẻ, bông to, hạt nhiều. Nhưng ông đã thất vọng vì chưa tìm được phương
pháp sử dụng ưu thế lai. Sau đó ông bắt đầu tìm dòng bất dục đực. Con đường
tạo giống ưu thế lai theo phương pháp “3 dòng” được hé mở từ đây. Năm
1964, Viên Long Bình phát hiện cây có tính bất dục đực nhưng không giữ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

10
được tính bất dục đó bởi không có dòng duy trì mẹ. Theo kinh nghiệm khi
nghiên cứu cao lương, bằng phương pháp lai xa giữa hai giống Nam Phi và
Bắc Phi, tháng 11/1970 Lý Tất Hồ cộng tác với Viên Long Bình thu được cây
bất dục đực trong loài lúa dại: (O.rufipogon Grif hoặc O. sativa F.stontaneu) ở
đảo Hải Nam. Năm 1972 từ dòng bất dục đực sẵn có đã tạo ra được một số
dòng bất dục khác như: Nhị cửu nam số 1, Nhị cửu lùn số 4, Trân sán 97.71 –
72, V20, V41.
Năm 1973 cùng với các nhà chọn giống khác họ đã tìm ra những dòng
phục hồi như: IR661, Thái dân số 1, IR24… Như vậy sau khi đã tìm đủ 3 dòng

xuất hạt lúa lai thương phẩm.
Ngoài ra trên thế giới còn rất nhiều nhà khoa học đã và đang nghiên cứu
các giống lúa nhằm mục đích đưa ra những giống lúa có năng suất cao, phẩm
chất tốt, có khả năng chống chịu với điều kiện ngoại cảnh, thâm canh .
2.3.1.2. Tình hình nghiên cứu về bón phân cho lúa
* Nghiên cứu về bón phân đạm cho lúa
Trong số các nguyên tố đa lượng thiết yếu thì đạm được xem là nguyên
tố quan trọng nhất cho quá trình sinh trưởng và hình thành năng suất lúa, đạm
luôn là yếu tố hạn chế năng suất hàng đầu trên tất cả các loại đất [31]. Lúa cần
đạm trong suốt quá trình sinh trưởng sinh dưỡng để tích lũy chất khô và đẻ
nhánh, điều này xác định số lượng bông. Đạm góp phần tạo nên số hạt trong
giai đoạn phân hóa đòng, tăng kích thước hạt bằng giảm số lượng hoa thoái
hóa và tăng kích thước vỏ trấu trong suốt giai đoạn làm đòng. Đạm góp phần
tích lũy hydratcacbon trong thân lá ở giai đoạn trước trỗ và trong hạt ở giai
đoạn vào chắc vì chúng phụ thuộc vào tiềm năng quang hợp [34].
Quang hợp của lúa trong giai đoạn vào chắc chiếm khoảng 60 -100%
hàm lượng hydratcacbon trong hạt, phần còn lại là do từ bộ phận khác chuyển
đến (Yoshida, 1983)[40]. Để đạt được năng suất hạt cao nhất thì hoạt động
trao đổi chất trong hạt phải trùng với giai đoạn lá lúa có hoạt động quang hợp
mạnh nhất. Thực tế năng suất lúa cao ở những giống mà lá có thể duy trì hoạt
động quang hợp đến tận giai đoạn vào chắc [35]. Bón đạm làm tăng diện tích

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

12
lá, bề rộng của tán lá, duy trì hoạt động quang hợp của cây vì vậy ảnh hưởng
quyết định đến năng suất lúa. [34]
Nhiều thí nghiệm về hiệu lực, liều lượng sử dụng đạm trong mối quan
hệ với các yếu tố khác đã được tiến hành. Ladha và cs., [33] so sánh năng suất
lúa và yêu cầu dinh dưỡng đạm qua các năm cho biết: Thời kỳ trước Cách

giai đoạn lúa vào chắc. Khi bón đạm không đúng yêu cầu của cây thì lượng
đạm bị mất càng nhiều hơn do hiệu quả sử dụng đạm thấp [18].
Ở Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế thường bón 115 kg N/ha và chia làm 3
lần, để đạt được năng suất cao hơn thì lượng đạm cần bón là 145 kg N/ha và
chia làm 4 lần [32]. Ở Bangladesh lượng đạm khuyến cáo là 80 kg N/ha, chia
làm 3 lần bón vào thời gian 15, 30 và 50 ngày sau cấy [36].
Một số công trình nghiên cứu gần đây tại Trung Quốc về mối liên hệ
giữa cây lúa giàu đạm với dịch hại, đặc biệt là rầy nâu Nilaparvata lugens cho
thấy rằng: Khi hàm lượng đạm trong cây lúa gia tăng sẽ làm cho rầy cám sống
sót nhiều hơn và rút ngắn vòng đời của chúng, rầy cái trưởng thành to hơn, đẻ
nhiều trứng hơn và sống lâu. Ruộng lúa được bón thừa đạm sẽ có tàn lá che
phủ dày, làm gia tăng hàm lượng amino acid trong dịch của cây lúa, cây lúa bị
xốp, mọng nước sẽ kích thích rầy cái tìm đến để hút nhựa và đẻ trứng; sâu
non tuổi 1 của sâu đục thân vừa nở cũng dễ dàng đục vào thân lúa và di
chuyển bên trong hệ thống mạch dẫn nhựa cây lúa. Ngoài ra, còn làm cho rầy
nâu thay đổi vị trí cư trú và đẻ trứng. Ở cây lúa thừa đạm, rầy nâu sẽ di
chuyển dần từ bên dưới gốc lên trên bẹ lá và lá cờ để đẻ trứng [30].
* Nghiên cứu về bón phân lân cho lúa
Robert H. Wells, (2007) [39] nghiên cứu thí nghiệm với 3 mức lân 99,8;
69,6 và 39,1 kg P
2
O
5
/ha, bón làm 4 lần: trước nảy mầm, 5 - 10 ngày sau nảy
mầm, giữa thời kỳ sinh trưởng và trước khi trỗ ở bang Arkansas Mỹ cho thấy:
Năng suất tăng rõ ràng khi được bón lân và đạt cao nhất là bón 69,6 kg P
2
O
5


bón kali hàng vụ có thể đủ để cân bằng dinh dưỡng kali cho cây lúa. Ngoài ra
nhiều nguyên tố dinh dưỡng khác cũng được trả lại đất cùng rơm rạ, góp phần
làm bền vững thêm cần bằng dinh dưỡng trong đất lúa.
Aggarwal P.K.,1997 [29]cho rằng: tính kháng của cây trồng với sâu hại
thay đổi tùy thuộc vào tuổi cây hay giai đoạn sinh trưởng của cây trồng, hay
nói cách khác thì tính kháng có mối liên hệ trực tiếp với sinh lý cây trồng. Và
như thế thì bất cứ yếu tố nào gây ảnh hưởng đến sự thay đổi sinh lý cây trồng
thì sẽ làm thay đổi đến tính kháng của cây.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

15
Kết quả thí nghiệm cho thấy, liều lượng kali có ảnh hưởng rõ đến
năng suất bông hạt. Tuy nhiên, sự phù hợp rõ nét hơn khi phối hợp mức K
trong đất với liều lượng K bón vào, và coi đó như là mức K cây có thể sử
dụng. Người ta thấy rằng, mức K hữu dụng trong đất, mà nó có thể đảm
bảo cho năng suất bằng 75% năng suất tối đa, khoảng 159 kg K
2
O/ha. Do
đó mức K hữu dụng tương ứng với đất có mức K cao để đạt năng suất tối
đa khoảng 363 kg K
2
O/ha.
2.3.1.3. Tình hình nghiên cứu về phân bón qua lá cho lúa
Hiện nay ngành nông nghiệp tại các nước đang phát triển của châu Á
đang phải đương đầu với vấn đề "trần năng suất" - năng suất lúa và các
cây trồng nông nghiệp khác không tăng nữa tuy được tăng cường bón
phân đa lượng.
Ở các nước đông dân như Trung Quốc, Ấn Độ vấn đề này làm cho các
nhà lãnh đạo phải lo ngại khiến họ khuyến khích nông dân áp dụng cân đối

- Kẽm bị loại bỏ dần trong quá trình thu hoạch vì cây, hạt, quả, bị lấy đi.
Ở đất chua, kẽm dễ tan và dễ hấp thụ cho cây hơn, nhưng ở đất có độ
pH cao hoặc đất đá vôi thì kẽm ở dạng những hợp chất không tan nên khó
được hấp thụ. Kẽm ít di chuyển trong cây. Các triệu chứng thiếu hụt kẽm
thường xuất hiện trước tiên ở lá non. Ở cây lá rộng, nếu thiếu kẽm lá non trở
nên xanh nhợt, đầu và mép lá có màu vàng, cây có thể bị còi cọc. Cây ngô
thiếu kẽm thì lá non sẽ có các dải màu vàng đến trắng, mép lá, vùng giữa gân
lá và đầu lá vân xanh.
Các chất vi lượng bị thiếu nhiều thứ hai (sau kẽm) là bo và molybden. Ở
Ấn Độ, sự thiếu hụt bo là đáng kể ở các vùng đất nhiều vôi, đất cát bị rửa trôi
và đất chua phèn được bón vôi. Trong các hộ canh tác lúa trên đất cát và đất
khai hoang sự thiếu hụt mangan cũng ảnh hưởng đến thu hoạch. Bón mangan
vào đất hoặc lá sẽ khôi phục lại được năng suất thu hoạch.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

17
Khả năng cây hấp thụ bo giảm mạnh khi pH của đất cao hơn 6,3. Đất
chua nặng nếu bón vôi sẽ gây thiếu hụt bo tạm thời cho cây trồng. Bo di
chuyển tương đối linh động trong đất. Bo ở dạng tan trong nước có thể bị rửa
trôi nếu đất ít chất hữu cơ và nhiều cát. Khác với các chất dinh dưỡng vi
lượng khác, bo cần thiết cho cây trong suốt vụ mùa. Khí hậu khô và đất khô
hạn có thể gây thiếu hụt bo. Sự thiếu hụt này nói chung thể hiện ở lá, chồi
non. Nên bón bo ở tỉ lệ 0,5-3 pao/mẫu Anh (1 mẫu Anh = 1000 m
2
). Các cây
phản ứng tương đối rõ rệt với việc bón Bo là cỏ linh lăng, hoa lơ xanh, lạc và
củ cải đường
Sự thiếu hụt molybđen chủ yếu xảy ra ở đất chua phèn và nhiều cát.
Khác với các chất vi dinh dưỡng khác, molypđen được cây hấp thụ tốt hơn

Mangan ít di chuyển trong cây. Sự thiếu mangan thường thể hiện trước
tiên ở lá non, ở dạng bệnh lá úa vàng đối với cây lá rộng, ở các cây hạt nhỏ, lá
cây có các đốm nâu - xám và nói chung lá bị vàng.[45]
2.3.2. Tình hình nghiên cứu lúa tại Việt Nam
2.3.2.1. Tình hình nghiên cứu về giống lúa lai
Trước năm 1954, bằng đức tính cần cù, sáng tạo, dân tộc Việt Nam đã
đúc kết được nhiều kinh nghiệm sản xuất và đã sử dụng các giống lúa địa
phương, tuy năng suất không cao nhưng có chất lượng tốt, chống chịu tốt với
các điều kiện bất lợi của môi trường và sâu bệnh hại. Nhiều giống lúa được
ông cha ta truyền lại đời này qua đời khác, đó là các giống: Chiêm Tép,
Chiêm Sài Đường, Chiêm Cút…, các giống trồng trong vụ mùa như lúa Di,
lúa Tám Xoan, lúa Dự…[19].
Việt nam bắt đầu nghiên cứu lúa lai từ năm 1985, nhưng thực sự được
xúc tiến mạnh từ những năm 1990. Một số dòng bất dục đực tế bào chất, dòng
phục hồi và tổ hợp lúa lai ba dòng được nhập nội từ Trung Quốc và IRRI đã
được đánh giá. Những kết quả bước đầu đã xác định được một số dòng bố mẹ
và giống lúa lai thích ứng với điều kiện sinh thái và sản xuất của Việt Nam,
đem lại năng suất và hiệu quả kinh tế cao (Quách Ngọc Ân, 1995).

Trích đoạn Biện pháp chăm sóc Phương pháp xử lý số liệu Ảnh hưởng của một số loại phân bón lá đến khối lượng vật chất Kết quả sản xuất thử trên diện rộng
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status