nghiên cứu khả năng sinh trưởng, phát triển và chất lượng của một số dòng, giống đậu tương nhập nội tại thái nguyên - Pdf 13

1
MỤC LỤC
2
DANH MỤC VIẾT TẮT
Bộ NN & PTNT: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
cs: Cộng sự
CSDTL: Chỉ số diện tích lá
KNTLVCK : Khả năng tích lũy vật chất khô
CV: Hệ số biến động (coefficient of variation)
KLNS: Khối lượng nốt sần hữu hiệu
SLNS: Số lượng nốt sần hưu hiệu
LSD: Sai khác nhỏ nhất có ý nghĩa (least significant difference)
NSLT: Năng suất lý thuyết
NSTT: Năng suất thực thu
P1000 hạt: Khối lượng 1000 hạt
TGST: Thời gian sinh trưởng
Nxb: Nhà xuất bản
ctv: Cộng tác viên
3
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỀU
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
4
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Đậu tương (Glycine max L. Merrill) còn gọi là đậu nành là một cây
trồng cạn ngắn ngày, có giá trị kinh tế cao. Sản phẩm hạt đậu tương làm thực
phẩm cho con người, thức ăn cho gia súc, nguyên liệu cho công nghiệp và là
một mặt hàng xuất khẩu có giá trị. Hạt đậu tương có thành phần dinh dưỡng
cao, hàm lượng protein trung bình khoảng từ 38-40%, lipit từ 15-20%,
hyđrát các bon từ 15-16% và nhiều loại sinh tố, muối khoáng quan trọng cho
sự sống. (Trần Văn Điền, 2010)[13].

“Nghiên cứu khả năng sinh trưởng, phát triển và chất lượng của một số
dòng, giống đậu tương nhập nội tại Thái Nguyên".
2. Mục đích và yêu cầu của đề tài
* Mục đích
Xác định được dòng, giống đậu tương nhập nội có năng suất cao, chất
lượng tốt, thích hợp với vụ xuân và vụ hè thu tại tỉnh Thái Nguyên.
* Yêu cầu
- Đánh giá được khả năng sinh trưởng, phát triển, tính chống chịu với
ngoại cảnh, sâu bệnh và một số chỉ tiêu sinh lý của các dòng, giống đậu
tương nhập nội;
- Đánh giá các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các dòng
giống đậu tương nhập nội;
- Đánh giá được chất lượng hạt và khả năng tạo đậu phụ của các dòng
giống đậu tương nhập nội;
5
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài
Đậu tương là cây trồng cạn ngắn ngày có giá trị kinh tế cao. Tại Thái
Nguyên và các tỉnh miền núi phía bắc, diện tích, năng suất và chất lượng đậu
tương còn thấp. Để nâng cao năng suất, chất lượng và sản lượng cây đậu
tương đặc biệt là trong bối cảnh thời tiết khí hậu có nhiều thay đổi như hiện
nay, thì giống là một khâu then chốt. Hiện nay các nhà khoa học không ngừng
nghiên cứu chọn tạo ra những bộ giống đậu tương cho năng suất cao thích
hợp với nhiều vùng sinh thái. Trong đó nhập nội là một phương pháp hiệu quả
và tiết kiệm thời gian nhất. Tuy nhiên các giống cây trồng nhập nội có điều
kiện sinh thái khác xa so với nơi chúng được tạo ra. Do đó chúng ta cần có
những nghiên cứu đánh giá trước khi tiến hành trồng ra sản xuất về khả năng
sinh trưởng, phát triển, năng suất, chất lượng cũng như hệ số tạo đậu phụ chế

diện tích và sản lượng.
Về diện tích: Qua bảng 1.1 cho thấy diện tích trồng đậu tương trên toàn
thế giới tăng chậm trong giai đoạn 2005-2006, và tăng nhanh trong giai đoạn
từ 2007-2009. Năm 2005 diện tích trồng đậu tương trên thế giới là 91,39 triệu
ha, năm 2009 cả thế giới trồng được 99,50 triệu ha tăng 8,11 triệu ha.
Về năng suất: Năm 2005 năng suất đậu tương thế giới đạt 23,00 tạ/ha
đến năm 2009 giảm xuống còn 22,43 tạ/ha. Năng suất đậu tương có sự biến
động nhỏ, nhưng diện tích tăng nhanh nên sản lượng đậu tương trên toàn thế
giới năm 2009 vẫn đạt 223,18 triệu tấn.
Mặc dù cây đậu tương được trồng trên khắp thế giới nhưng khoảng 80%
sản lượng đậu tương được sản xuất ở 4 nước là: Mỹ ,Brazil, Achentina và
Trung Quốc (Vũ Đình Chính 2010) [6]. Tình hình sản xuất đậu tương của 4
nước này được thể hiện qua bảng 1.2.
Bảng 1.2 cho thấy quốc gia đứng đầu về sản xuất đậu tương trên thế
giới là nước Mỹ. Đặc biệt năng suất đậu tương tại Mỹ cao hơn rất nhiều so
với năng suất bình quân của các nước thế giới. Năm 2009, trong khi năng suất
7
8
bình quân của thế giới chỉ đạt 22,43 tạ/ha, thì năng suất đậu tương tại Mỹ đã
đạt 28,72 tạ/ha.
Bảng 1.2. Tình hình sản xuất đậu tương năm 2009 của 4 nước
đứng đầu thế giới
Tên nước Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
Mỹ 28,84 28,72 82,82
Brazil 22,89 21,92 50,19

Đậu tương vốn là cây trồng tự thụ phấn nên phương pháp tạo giống và
chọn lọc giống như những cây tự thụ khác, nhưng cũng có đặc thù riêng của
nó. Song song với việc chọn lọc các giống theo phương pháp thông thường thì
công tác chọn lọc các giống theo chỉ số cũng đã được áp dụng đối với nhiều
cây trồng khác nhau, trong đó có cây đậu tương. Kết quả thông báo về nghiên
cứu và áp dụng chỉ số chọn lọc ở đậu tương còn hạn chế và chưa thống nhất.
Để tạo được giống đậu tương có chất lượng hạt cao người ta thường
dùng hai phương pháp chính là đột biến và lai tạo. Hoặc dùng các tia phóng
xạ với liều lượng khác nhau, xử lý hạt rồi đem gieo. Quá trình gây đột biến
thường cho kết quả mong muốn nhanh, rút ngắn thời gian lai tạo. Nhưng tạo
giống bằng phương pháp gây đột biến thường tốn kém và các thế hệ sau biến
dị ngày càng lớn hơn, do đó chất lượng giống giảm dần.
Lai hữu tính để tạo giống có chất lượng cao người ta thường dùng
phương pháp lai trở lại. Con lai trở lại với bố mẹ đã thích ứng để hoà nhập
các gen mong muốn từ gen nhập. Mức độ trở lại phụ thuộc vào độ khác biệt
giữa hai bố mẹ. Phương pháp này cho ra giống ổn định, lâu bền nhưng đòi hỏi
mất nhiều thời gian lai tạo.
9
10
Johnson và ctv (1955) [41] khi nghiên cứu hiệu quả chọn lọc theo chỉ
số gồm một hoặc nhiều tính trạng cho thấy chọn lọc theo các tính trạng gián
tiếp như thời gian đậu quả, tính chín muộn, hạt to, tính chống tách hạt, chống
đổ, hàm lượng protein thấp có thể cải lương về năng suất hạt, nhưng mức độ
hiệu quả có khác nhau giữa các tính trạng. Trong đó các tính trạng như thời
gian sinh trưởng ở quần thể 1 và khối lượng 1000 hạt ở quần thể 2 có thể thực
sự là các tính trạng khác nhau, các kết quả cho thấy chọn lọc chỉ dựa trên chỉ
số gồm thời gian đậu quả và khối lượng hạt cho hiệu quả tương đương như là
chọn lọc trực tiếp. Khi đưa thêm tính trạng chống đổ, hàm lượng dầu và đạm
vào chỉ số trên thì hiệu quả chọn lọc tăng lên tương đối rõ rệt. Hiệu quả chọn
lọc tương đối theo chỉ số gồm năng suất, thời gian đậu quả, khối lượng hạt,

những dòng có hàm lượng protein cao giảm 6% so với dòng có hàm lượng
dầu cao, mặc dù khi so sánh năng suất hạt của 2 dòng có hàm lượng protein
cao nhất với hai dòng có hàm lượng dầu cao nhất trong cùng môi trường,
những dòng có hàm lượng protein cao cho tăng 1% năng suất hạt, 18%
protein thô và giảm 20% dầu. Kết quả cho thấy tiềm năng cho năng suất của
những dòng, giống đậu tương có chứa hàm lượng protein và hàm lượng dầu
cao là như nhau.
Với ứng dụng công nghệ sinh học trong chọn tạo giống cây trồng người
ta đã tạo ra được các giống đậu tương vượt trội về năng suất (Vũ Minh Sơn,
2004) [30], thì hầu hết các giống đậu tương ở Mỹ là cây biến đổi gen và
khoảng 1/3 sản lượng đậu tương ở Brazil cũng từ các giống đậu tương biến
đổi gen. Giống đậu tương oleic axit là giống chuyển gen có hàm lượng axit
oleic tới 80%, đây là giống có triển vọng thoả mãn nhu cầu dầu ăn của con
11
12
người. Hiện nay các giống này đang được trồng ở Australia, Canada, Nhật
Bản, Mỹ Ngày nay, trên cơ sở các kết quả nghiên cứu và ứng dụng công
nghệ sinh học hiện đại đã tạo ra những giống đậu tương mới có nhiều ưu điểm
nổi bật như các giống chịu được thuốc diệt trừ cỏ, cho phép khống chế cỏ dại
tốt hơn và khuyến khích kỹ thuật trồng không lên luống nhằm bảo vệ đất, các
giống này được trồng ở Argentina, Australia, Brazil, Canada, Cộng Hoà Sec,
EU, Mỹ,(Vũ Minh Sơn, 2004) [30]
Hiện nay, công tác nghiên cứu đậu tương trên thế giới nhằm đáp ứng
được những mục đích sau:
- Nhập nội sau đó chọn lọc, thử nghiệm ở các vùng sinh thái khác nhau.
- Dùng các tác nhân vật lý, hoá học gây đột biến để tạo ra những giống
tốt phục vụ cho sản xuất.
- Xác định địa bàn trồng đậu tương trên thế giới và các nước trồng đậu
tương có năng suất cao.
Thông qua con đường nhập nội, chọn lọc, lai tạo và gây đột biến mà

Hiện đã có nhiều thành công trong việc xác định các dòng, giống tốt có
tính ổn định và khả năng thích ứng khác nhau với các điều kiện môi trường
khác nhau. Buitrago và cs (1971) [36] đã xác định được một số giống có khả
năng thích ứng rộng với tất cả các môi trường nghiên cứu, song có một số
giống lại chỉ thích ứng với môi trường riêng rẽ khi nghiên cứu 14 dòng, giống
qua bốn vụ.
Tại Brazil các kết quả nghiên cứu của Silva và cs (1970) [49] cho thấy
có những giống chỉ cho năng suất cao ở môi trường thuận lợi và ngược lại.
Qua thực nghiệm Salado-Navarro (1986) [48] đã xác định được bốn giống
13
14
đậu tương có năng suất cao và ít nhạy cảm với sự thay đổi của điều kiện môi
trường, và ba giống có tính ổn định trung bình ở tất cả các điều kiện môi
trường nhưng có năng suất thấp hơn trung bình.
Khi nghiên cứu sáu giống đậu tương, Rohwal (1970) [47] đã tìm được
giống Bragg và giống Lee thích hợp cho vùng có năng suất cao, giống
Punjabl và giống Pelican thích hợp cho vùng có năng suất thấp ở Ấn Độ. Tuy
nhiên, ông không tìm được giống lý tưởng phù hợp với mọi môi trường.
Để đáp ứng nhu cầu sử dụng đậu tương trong nước mà không lệ thuộc
vào việc nhập khẩu, nhiều quốc gia tại châu Âu đã quan tâm tới việc nghiên
cứu và phát triển sản xuất cây đậu tương trong nước. Ở Liên Xô cũ, từ năm
1945 thì Kosenco đã xác định được hiệu quả đột biến cao nhất của các liều
lượng chiếu xạ đối với hạt đậu tương khô là 5 kr, còn với mầm non và cây
đang nở hoa là 2 kr. Enken, 1957 bằng gây đột biến phóng xạ đã tạo ra được
các dạng chín sớm, năng suất cao, có hàm lượng Protein cao, chịu rét khá (Vũ
Đình Chính) 2006[5]. Theo nghiên cứu của Masenco vào giai đoạn 1955-
1956 khi tiến hành xử lý tia gamma và hoá chất Ethylenimin (EI),
Diethylsunphat (DES) sẽ tạo ra các giống chín sớm hơn giống khởi đầu từ 8 -
12 ngày, một số giống khác lại có năng suất vượt giống khởi đầu từ 23 - 24%,
(Vũ Đình Chính) 2006[5].

là Tainung 4) đã được dùng làm nguồn gen kháng bệnh trong các chương
trình lai tạo giống ở các cơ sở khác nhau như Trạm thí nghiệm Marjo
(Thái Lan), Trường đại học Philippin (Vũ Tuyên Hoàng và cs 1995) [20].
15
16
Hiện nay, vùng Đông Nam Á cũng là một vùng trọng điểm của công
tác phát triển giống đậu tương và được ưu tiên hàng đầu trong hệ thống nông
nghiệp. Tại Indonesia, các nhà nghiên cứu chọn tạo nhằm mục đích cải tiến
giống có năng suất cao trồng được ở vùng đất thấp sau vụ thu hoạch lúa, với
thời gian sinh trưởng ngắn khoảng 70- 80 ngày, chống chịu bệnh gỉ sắt và có
hạt dạng thon dài (Sumarno và T.Adisan wanto, 1991[50]. 13 giống có năng
suất cao đã được tạo ra và được khuyến cáo gieo trồng trong đó có giống
Wilis được trồng phổ biến nhất, giống này có thời gian sinh trưởng 85 ngày,
năng suất bình quân đạt 25 tạ/ha. Việc cải tiến giống đã góp phần đưa năng
suất đạt 25 tạ/ha, giống có thời gian sinh trưởng ngắn, thích ứng với môi
trường không thuận lợi (đất không cày bừa; đất khó tiêu nước), chất lượng hạt
được tăng lên, tăng khả năng chống đổ (Sumarno và T.Adisan wanto,
1991[50]. Qua chọn lọc mà họ đã chọn ra được một số giống trồng được trên
đất ướt sau vụ thu hoạch lúa với việc làm đất hoặc không làm đất trong mùa
khô mà vẫn cho năng suất 14,7- 16,8 tạ/ha như các giống Kerinci,
Lompobatang, Rinjani, (Buitrago và cs 1971) [36]. Các nhà nghiên cứu thuộc
Viện nghiên cứu cây trồng Thái Lan đã nghiên cứu việc sử dụng DNA marker
để xác định gen kháng bệnh gỉ sắt đậu tương. Hiện tại phần lớn các nghiên
cứu về việc kiểm soát bệnh gỉ sắt đậu tương đều tập trung vào việc xây dựng
tính kháng cho cây chủ. Các nghiên cứu sơ bộ cho thấy có 3 DNA marker có
liên quan đến tính chống chịu gỉ sắt ở đậu tương (Pitaksa và cs 1998[46].
Sự tương tác giữa giống và môi trường có vai trò quan trọng trong quá
trình cải lương giống cây trồng nông nghiệp nói chung và cây đậu tương nói
riêng. Đối với cây đậu tương đã có một số kết quả nghiên cứu về sự tương tác
giữa các giống với môi trường khác nhau.

300 nghìn ha và Tây Nguyên là 100 nghìn ha. Quỹ đất đang có này là một lợi
thế để nước ta phát triển sản xuất đậu tương đảm bảo nhu cầu trong nước.
Tuy Việt Nam có nhiều tiềm năng để mở rộng diện tích ,nhưng hiện
nay diện tích gieo trồng đậu tương của cả nước đang có xu hướng giảm, kéo
theo sản lượng giảm sút mạnh. Tình hình sản xuất đậu tương ở Việt Nam
trong 5 năm gần đây được trình bày trong bảng 1.3.
Bảng 1.3. Tình hình sản xuất đậu tương ở Việt Nam 5 năm gần đây
Năm
Diện tích
(1000ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(1000tấn)
2005 204,10 14,34 292,70
2006 185,60 13,91 258,10
2007 187,40 14,70 275,50
2008 191,50 14,02 268,60
2009 146,20 14,61 213,60
(Nguồn: FAOSTAT Database,2010) [38]
Bảng 1.3 cho thấy diện tích đậu tương của nước ta có xu hướng giảm
dần trong 5 năm gần đây, năm 2005 diện tích đạt 204,10 nghìn ha nhưng đến
năm 2009 giảm xuống 146,20 nghìn ha, sản lượng cũng giảm xuống 79,10
nghìn tấn so với năm 2005. Tuy nhiên, xét về mặt năng suất thì năng suất đậu
tương của nước ta trong những năm vừa qua có sự nhích lên nhưng không
đáng kể, từ 13,91 tạ/ha năm 2006 tăng lên 14,61tạ/ha vào năm 2009, và còn
thấp hơn nhiều so với năng suất bình quân chung của thế giới, năm 2009 năng
suất đậu tương của Việt Nam đạt 14,61 tạ/ha, trong khi đó năng suất bình
quân của thế giới năm 2009 là 22,43 tạ/ha. Do đó, có thể khẳng định rằng
năng suất là một lợi thế có thể khai thác để tăng sản lượng, hạ giá thành trong

chiếm 72,2% tổng diện tích trồng cả nước. Các tỉnh trồng nhiều đậu tương
như: Cao Bằng, Sơn La, Đồng Nai, Đồng Tháp Nhu cầu về sản phẩm đậu
tương của các ngành thương mại, chăn nuôi, công nghiệp thực phẩm ngày
càng phát triển nên cây đậu tương ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò
quan trọng trong ngành nông nghiệp nước ta. Xuất phát từ vấn đề trên trong
những năm gần đây, cây đậu tương đã được các Viện, trường Đại học đầu tư
nghiên cứu và tuyển chọn ra nhiều giống cho năng suất cao, chất lượng tốt,
thích ứng được nhiều vụ trong năm (Vũ Danh Ca, 2004)[3]. Trong công tác
chọn tạo giống đậu tương được tập trung vào một số hướng chính sau đây:
(Ngô Thế Dân và cs, 1999)[8].
- Chọn tạo giống thích hợp cho từng thời vụ gieo trồng khác nhau: ở
miền nam, chọn bộ giống thích hợp cho 2 vụ: mùa khô và mùa mưa. ở các
tỉnh phía Bắc, chọn bộ giống thích hợp cho vụ xuân, vụ hè và vụ đông
- Xác định các bộ giống thích hợp cho các vùng sinh thái khác nhau.
- Chọn giống năng suất cao và đưa ra định hướng cho những năm sau.
- Chọn tạo giống đậu tương chín sớm để đưa vào chân đất 2 lúa - 1 đậu
tương hè ở Bắc Giang với thời gian sinh trưởng 70-75 ngày.
20
21
- Chọn tạo giống đậu tương thích hợp cho vụ Đông với các tỉnh phía
Bắc, đặc biệt là Đồng bằng Sông Hồng, thời gian sinh trưởng 80-90 ngày.
- Chọn giống đậu tương thích hợp cho vùng đất bãi và trung du các tỉnh
phía Bắc, năng suất đạt từ 20-25 tạ/ha, thời gian sinh trưởng 90-100 ngày,
chống chịu với bệnh gỉ sắt.
- Chọn tạo giống đậu tương hè thích hợp cho các tỉnh miền Núi phía
Bắc, thời gian sinh trưởng 85-90 ngày, năng suất từ 15-20 tạ/ha, chịu hạn, ít
nhiễm virut.
- Chọn giống đậu tương cho vùng Tây nguyên có tiềm năng năng suất từ
25-27 tạ/ha trong vụ Xuân hè gieo từ tháng 3, đậu tương hè cho vùng Đông nam
bộ gieo từ tháng 4, đậu tương Xuân hè cho vùng đồng bằng sông Cửu long.

(9,2%). Tác giả cũng cho biết năng suất hạt có hệ số tương quan thuận chặt
với thời gian sinh trưởng, chiều cao cây, số đốt/thân, số quả/cây, số hạt/quả
và khối lượng 1000 hạt. Nguyễn Tấn Hinh (2003) [17] nghiên cứu sự khác
biệt di truyền của 50 giống đậu tương có nguồn gốc và đặc điểm khác nhau
cho thấy thời gian sinh trưởng và P1000 hạt được xác định là những yếu tố
quan trọng nhất tạo nên sự khác biệt di truyền ở đậu tương, sau đó là đến số
quả chắc/cây còn năng suất hạt có tỷ lệ ảnh hưởng thấp nhất.
Bằng phương pháp lai hữu tính đậu tương cho thấy các tính trạng khác
nhau có hệ số biến dị và di truyền khác nhau. Một số tính trạng như số quả
chắc/cây, khối lượng hạt/cây có hệ số biến dị cao. Chiều cao cây và số đốt/thân
chính có hệ số di truyền thấp. Một số tính trạng có hệ số tương quan thuận khá
cao ở các quần thể lai cũng dựa vào các tính trạng như: Số lượng hạt/cây, số quả
22
23
chắc/cây và P1.000 hạt. Tuy nhiên, ở các thế hệ đầu khi chọn lọc cần chú ý đến
tính trạng có hệ số di truyền cao và mối quan hệ năng suất hạt như: Chiều cao
cây và số đốt/thân chính (Vũ Tuyên Hoàng và cs, 1984) [21].
Một trong những yếu tố hạn chế năng suất ở đậu tương nhóm ngắn
ngày là diện tích lá. Kết quả nghiên cứu tương quan cho thấy có mối
tương quan thuận rất chặt giữa năng suất và tính trạng này (r = 0,89). Yếu tố
hạn chế khác được xác định là trọng lượng hạt và số quả/cây (trọng
lượng hạt/cây) từ đó đề xuất hướng chọn giống mới là ngắn ngày, diện tích lá
lớn và năng suất hạt/cây cao (Trần Văn Lài và cs, 1987) [22].
Nguyễn Tấn Hinh (2003) [17] cũng công bố kết quả khi nghiên cứu
tương quan giữa các tính trạng và năng suất hạt đậu tương cho biết năng suất
hạt có mối tương quan thuận chắc chắn với thời gian sinh trưởng và rất chắc
chắn với số quả chắc/cây, số đốt mang quả, số đốt/thân chính, chiều cao cây,
số cành cấp 1 và số hạt/quả. Vũ Thúy Hằng và cs (2007) [16] cũng khẳng
định năng suất cá thể cây đậu tương có tương quan thuận và chặt với các yếu
tố cấu thành năng suất như số quả/cây, số quả 3 hạt/cây và số hạt/cây nhưng

trưởng, yếu tố cấu thành năng suất và đặc điểm hạt ở đậu tương, Phạm Thị
Đào (1998) [11] thấy rằng: chất lượng hạt giống hoặc khả năng bảo quản hạt
không bị ảnh hưởng bởi các giai đoạn sinh trưởng dinh dưỡng của cây. Chất
lượng hạt sau thu hoạch có tương quan thuận với khối lượng riêng của hạt,
độ nhẵn vỏ hạt và tương quan nghịch với kích thước hạt, nếp nhăn/vỏ hạt.
Tác giả cho biết năng suất hạt có tương quan thuận với chiều cao cây, số
quả/ cây và số đốt/thân chính.
24
25
Nguyễn Huy Hoàng (1992) [19] nghiên cứu khả năng chịu hạn của
1.004 mẫu giống đậu tương nhập nội ở miền Bắc Việt Nam. Tác giả đã xây
dựng được phương trình biểu diễn mối tương quan phụ thuộc giữa khả năng
chịu hạn với một số đặc tính khác của cây đậu tương như: Mật độ lông phủ và
mật độ khí khổng/đơn vị diện tích lá, thời gian sinh trưởng ở nhóm giống chín
sớm và cực sớm Hàm lượng Protein, hàm lượng dầu và hệ số vi phân bổ có
tương quan rất yếu với khả năng chịu hạn của giống. Những kết quả phân tích
sự biểu hiện của tính chịu hạn của con lai F1 bước đầu cho thấy khả năng
chịu hạn ở con lai F1 nhìn chung di truyền theo qui luật trung gian.
Ở nước ta chỉ trong vòng 10 năm qua, công tác nghiên cứu về cây đậu
tương nói chung cũng như công tác chọn tạo giống đậu tương nói riêng đã đạt
được nhiều thành tựu. Hàng chục giống đậu tương được chọn bằng các
phương pháp khác nhau, có năng suất cao đã được đưa vào sản xuất: Giống
đậu tương M103 được chọn tạo bằng phương pháp xử lý đột biến Ethyleninin
nồng độ 0,01% từ giống V70 (Trần Đình Long và cs, 1995) [25] giống đậu
tương hè DT80 được tạo ra bằng con đường lai hữu tính giữa vàng Mộc Châu
(giống địa phương Sơn La) và V70, một số giống nhập nội từ Trung Quốc,
(Ngô Đức Dương và cs, 1995) [10].
Theo Trần Thị Đính (1995) [14] thì giống AK05 được chọn ra từ dạng
hình phân ly của G - 2216 nhập từ AVRGC, là giống chịu rét khá, sinh trưởng
khỏe, chống bệnh khá, có tiềm năng năng suất cao, mẫu mã đẹp đáp ứng được


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status