Nghiên cứu khả năng sinh trưởng phát triển và biện pháp kỹ thuật đối với giống đào có triển vọng tại huyện ba bể tỉnh bắc kạn - Pdf 14

1
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BVTV : Bảo vệ thực vật
cm : Centimet
CV : Hệ số biến động (Coefficients of variation)
Đ/c : Đối chứng
ĐVT : Đơn vị tính
g : Gam
kg : Kilogam
LSD.
05
: Sự sai khác nhỏ nhất có ý nghĩa ở mức 0,05 (Least significant
difference)
mm : Milimet
FAO : Tổ chức Nông Lương liên hiệp quốc (Food and Agriculture
Organization of the United Nations)
STT : Số thứ tự
TTTB : Tăng trưởng trung bình
T : Tháng
∑ : Tổng
2
DANH MỤC CÁC BẢNG
3
HÌNH
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cây ăn quả có vai trò rất lớn trong đời sống, kinh tế và sản xuất nông
nghiệp của kinh tế gia đình cũng như phát triển kinh tế của một vùng sinh thái
và cả đất nước. Cây ăn qủa cung cấp nguồn dinh dưỡng quý giá cho con
người, sản xuất cây ăn quả không chỉ cung cấp lượng hàng hóa quả tươi cho

miền núi như: Sơn La, Lào Cai, Lạng Sơn, Hà Giang, Bắc Kạn… nơi có độ
lạnh cần thiết vào mùa đông để giúp cho đào có thể tích lũy độ lạnh để ra hoa
và đậu quả.
Tại Bắc Kạn, cây đào được trồng từ rất lâu ở các huyện Ngân Sơn và
Ba Bể với diện tích khoảng 80ha, đã trở thành đặc sản của địa phương. Giống
đào Ngân Sơn thường chín vào tháng 7-8 dương lịch, quả trung bình 12-15
quả/kg, dóc hạt, vị ngọt, thịt giòn. Tuy nhiên thời gian ra hoa đậu quả vào
tháng 3 đầu tháng 4 nên thường bị ruồi đục quả hại nặng. Do đó đã ảnh hưởng
tới năng suất, chất lượng quả đào. Vì vậy việc nhập nội, trồng thử nghiệm một
số giống mới, năng suất cao, chất lượng tốt là rất cần thiết. Từ những vấn đề
đặt ra ở trên chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: "Nghiên cứu khả năng sinh
trưởng phát triển và biện pháp kỹ thuật đối với giống đào có triển vọng tại
huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn".
2. Mục đích và yêu cầu của đề tài
2.1. Mục đích
Thông qua nghiên cứu đặc điểm nông sinh học của các giống đào nhập
nội để chọn được giống đào chín sớm phù hợp với điều kiện tự nhiên tỉnh Bắc
Kạn góp phần khai thác thế mạnh điều kiện tự nhiên của tỉnh nhằm nâng cao
thu nhập, xóa đói giảm nghèo.
Trên cơ sở đó xác định được biện pháp kỹ thuật đối với giống đào có
triển vọng.
6
2.2. Yêu cầu
Đánh giá được khả năng sinh trưởng, phát triển và chống chịu của
các giống đào nghiên cứu để lựa chọn được giống có triển vọng.
Nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật đối với giống đào có triển vọng.
Nhằm tăng năng suất, chất lượng quả của giống.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

trồng thử nghiệm tại huyện Ba Bể và Ngân Sơn chúng tôi thấy có một số
giống triển vọng thể hiện ở đặc điểm sinh trưởng, phát triển khá, mẫu quả
đẹp, thu quả vào đầu tháng 5. Tuy nhiên để có thể đánh giá một cách chính
xác thì chúng ta cần nghiên cứu một cách có khoa học.
1.2. Nguồn gốc và phân loại
1.2.1. Nguồn gốc
Cây đào danh pháp khoa học Prunus persica là một loài cây có lẽ có
nguồn gốc từ Trung Quốc, được trồng để lấy quả hay hoa. Tên gọi khoa học
persica có lẽ có từ niềm tin ban đầu của người châu Âu cho rằng đào có
nguồn gốc từ khu vực Ba Tư (Persia- hiện nay là Iran). Sự đồng thuận lớn
trong giới các nhà thực vật học ngày nay đã cho rằng nó có nguồn gốc từ
Trung Quốc và được đưa vào Ba Tư cũng như khu vực Địa Trung Hải theo
con đường tơ lụa vào khoảng thời gian ban đầu của lịch sử nhân loại, có lẽ
vào khoảng thiên niên kỷ 2 trước công nguyên (Huxley và cs, 1992) [30].
Các giống đào trồng được chia thành hai loại là “hột rời” và “hột dính”,
phụ thuộc vào việc hột dính với cùi thịt hay không; cả hai loại này đều có cùi
thịt trắng hay vàng. Quả đào với cùi thịt trắng thông thường có vị rất ngọt và
ít vị chua, trong khi loại có cùi thịt màu vàng thông thường có vị chua kèm
theo vị ngọt, mặc dù điều này cũng có sự giao động lớn. Cả hai màu thông
thường đều có các vệt đỏ trong lớp thịt của chúng. Loại đào cùi trắng, ít chua
là phổ biến nhất tại Trung Quốc, Nhật Bản và các quốc gia châu Á xung
quanh, trong khi người châu Âu và Bắc Mỹ ưa thích loại có cùi thịt màu vàng
và có vị chua hơn (Huxley và cs 1992) [30].
9
1.2.2. Phân loại
Cây đào prunus persica, thuộc họ thực vật Rosaceae. Họ thực vật thân
gỗ, thân thảo và thân bụi, cây có bộ lá thay thế và ra hoa thường xuyên. Đào
được xếp vào giống Prunus. Cây than gỗ hoặc thân bụi có hoa 5 cánh, 5 đài
với khoảng 20 nhị và một bầu nhụy đơn. Đối với cây ăn quả hạt cứng (đào,
đào nhẵn, mận), thì giống Prunurs được chia thành nhiều loại khác nhau (Võ

Có 2 loại giống chín sớm và giống chín muộn, được trồng nhiều tại
huyện Sa Pa tỉnh Lào Cai.
Giống chín sớm có quả trung bình, chất lượng khá. Mầu quả phớt hồng,
thịt quả hồng nhạt, giòn, hơi chua. Thời gian thu hoạch quả cuối tháng 5.
Giống chín muộn quả to, chất lượng quả ngon. Mầu quả hồng vàng, thịt
quả mầu trắng, giòn, róc hạt. Thời gian thu hoạch quả cuối tháng 6 đầu tháng 7.
* Giống đào Pháp Đ1, Đ2
Được tuyển chọn từ tập đoàn cây ăn quả ôn đới do FAO tài trợ từ năm
1991. Cả 2 giống đều chín sớm, quả nhỏ, thời gian thu hoạch cuối tháng 4.
Giống Đ1 quả nhỏ hơn có mầu đỏ hồng, giống Đ2 quả có mầu vàng hồng. Cả
hai giống thịt quả đều mềm.
1.3. Đặc điểm thực vật học của cây đào
1.3.1. Rễ
Rễ đào tập trung chủ yếu ở trên tầng đất mặt từ 10 – 50 cm tùy thuộc
từng giống và từng loại đất, một số rễ cái ăn sâu vào lòng đất giúp cho cây
đứng vững không bị đổ. Với đặc điểm phân cành sớm và nhiều cành nhỏ cộng
lại với một số rễ cái nằm sâu, lá nhỏ nhẹ, cây đào ít bị đổ khi gặp gió bão.
Ngoại trừ trồng trên đất mùn hoặc đát đá vôi cây thường bị đổ do nguyên
nhân là đất quá tơi xốp và dễ bị sụt lở. Tuy nhiên hoa và quả rất dễ bị rụng do
gió bão nên khi thiết kế vườn đào người ta thường thiết kế vườn đào người ta
11
thường thiết kế đai rừng chắn gió (Trần Thế Tục, 1994) [21] và (Yung Kyung
Choi, Jung Hokim) [27].
1.3.2. Thân cành
Bình thường khi để mọc tự nhiên, đào thuộc loại cây gỗ nhỡ, thông
thường cây gieo hạt có một thân chính và 2 đến 3 thân phụ tỏa về các phía
(cành cấp 1). Nếu đào được nhân bằng cành chiết hay ghép số thân phụ sẽ lớn
hơn. Cây trung bình cao 3-4m, tán xòe rộng có nhiều cành nhỏ (Trần Thế
Tục, 1994) [21] và (Yung Kyung Choi, Jung Hokim) [27].
Tán cây để bình thường tùy từng loại và điều kiện sinh thái mà hình

đậu quả rất cao, chất lượng quả tốt.
1.3.4. Hoa
Mầu sắc hoa đào tùy từng loài có mầu đỏ tươi, mầu hồng hoặc mầu
trắng. Hoa đào thuộc loại hoa nhỏ, tính theo hình chiếu không gian của hoa,
đường kính hoa giao động từ 5mm đến 25mm tùy từng loài. Hoa đào thường
là 5 cánh hoa nở đều về 4 phía, có những giống số cánh hoa có thể nhiều hơn
(như đào bích kép), phần đài hoa bao lấy bầu, có từ 20-30 chỉ nhị, chiều cao
của chỉ nhị thường tương đương với chiều cao của cánh hoa, bao phấn không
nở sớm mà nở vào thời điểm hoa đã nở. Đầu nhụy vươn lên ngay kề cạnh bao
phấn. Hoa đào nở vào khoảng tháng 12 đến tháng 2 hàng năm, đối với những
giống đào dại (đào thóc) thường nở sớm hơn một chút. Ở các nước Châu Á
nhất là Trung Quốc và Việt Nam, giống đào hoa có ý nghĩa về mặt kinh tế do
bán hoa giá cũng khá cao (Trần Thế Tục, 1994) [21] và (Yung Kyung Choi,
Jung Hokim) [27].
Phần lớn các giống đào không có khả năng tự thụ: Khi tự thụ quá trình
thụ tinh không xẩy ra và kết quả là tỷ lệ đậu quả thấp, thậm chí hoa rụng
13
100%. Bởi vậy, muốn có được năng suất cao, cần phải trồng xen trong vườn
đào ăn quả với các giống đào khác nhau để làm cho cây có nguồn hạt phấn
phong phú hơn.
1.3.5. Quả
Đào là loại quả hạch, độ lớn của quả này thay đổi rất nhiều tùy thuộc
từng loại, các giống đào Châu Á quả thường nhỏ hơn đào Châu Âu và Châu
Mỹ, loại to khoảng 8-10 quả/kg. Mầu sắc quả thay đổi rất nhiều tùy giống, từ
vàng đỏ, vàng trắng và một số quả khi chín còn phủ lớp lông trắng bên ngoài,
lớp lông này có tác dụng bảo vệ quả chống sự xâm nhiễm của vi khuẩn, nấm,
tránh cho quả hấp thụ quá lớn nhiệt độ vào khi trời quá nóng.
Một số giống đào sớm thường cho quả thường chín vào khoảng giữa
tháng 4 đến đầu tháng 5, các giống chín trung bình vào khoảng cuối tháng 6.
Nhìn chung thời gian chín của đào có thay đổi theo từng vùng sinh thái và

sự lớn của quả. Ở thời kỳ này cây rất cần nước và phân để cung cấp dinh
dưỡng cho việc phát triển cuả quả. Trong giai đoạn này nếu có mưa đá và
sương muối thì rất dễ bị rụng.
- Thời kỳ thứ hai: Thời kỳ hạt được cứng lên, hạt từ mầu trắng sữa dần
dần chuyển sang mầu nâu, chất vỏ hạt cứng lên, nhân của hạt ở trạng thái
nước có mầu trắng sữa. Ở thời kỳ này quả sinh trưởng chậm, chủ yếu là sinh
trưởng phát dục vào thời kỳ này.
Các nhà nghiên cứu cho rằng việc đậu hoa ở cây ăn quả tùy thuộc vào 2
yếu tố: Tinh bột (hydrat carbon) và kích thích sinh trưởng. Sự ra hoa là sự cân
bằng giữa các chất kích thích sinh trưởng tăng và chất kích thích sinh trưởng
giảm. Hoa đào ra vào cuối mùa đông, đầu mùa xuân. Khi hoa nở nếu trời ấm,
15
nắng khô, ít sương mù, không mưa phùn thì việc thụ phấn, thụ tinh thuận lợi,
tỷ lệ đậu sẽ cao.
1.5. Yêu cầu về sinh thái của cây đào
Theo các tác giả R.J.Nissen; A.P.George; S. Hetherington và S
Newman, [33] cho biết: Điều kiện nhiệt độ, ánh sáng, lượng mưa, đất đai và
đặc tính vật lý của đất là yêu cầu cần thiết để cây đào sinh trưởng, phát triển
tốt, đạt năng suất và hiệu quả kinh tế cao.
1.5.1. Nhiệt độ
Nhiệt độ có thể ảnh hưởng đến sức sống, sự phát triển, khả năng ra hoa,
đậu quả và chất lượng quả đào. Nhiệt độ thấp và nhiệt độ cao đều có thể làm
tổn thương nụ và làm giảm khả năng đậu quả. Hoa và quả non đặc biệt mẫn
cảm với sương giá vào cuối mùa đông và mùa xuân, nhiệt độ hạ xuống dưới
2
o
C. Nhiệt độ cao hơn 18
o
C cũng có thể làm giảm việc đậu quả.
Nếu độ lạnh không đầy đủ, việc ra hoa lá sau ngủ nghỉ của cây có thể

Cây đào thích hợp với loại đất có kết cấu nhẹ dao động từ cát nhẹ, phù
xa sét, đến sét nhẹ. Đất cát nhẹ đến đất mùn là phù hợp nhất và độ sâu nước
ngầm phải trên 1m.
Nhìn chung các loại đất ở miền núi phía Bắc nước ta, với độ cao so với
mặt nước biển từ 500-600m đến 1000-1200m, có độ sâu hơn 1m, có cấu
tượng tơi xốp, giữ ẩm tốt dễ thoát nước, có độ mùn khá như đất rừng núi mới
khai phá, đất dốc tụ, phù sa cổ, feralit đỏ vàng, có độ pH 5,5-6,5 đều có thể
trồng đào ăn quả.
1.6. Tình hình sản xuất trên thế giới và Việt Nam
1.6.1. Tình hình sản xuất đào trên thế giới
Các nước trong khu vực sản xuất đào ăn quả quan trọng trong lịch sử là
Trung Quốc, Nhật Bản, Iran và các quốc gia khu vực Địa Trung Hải, là khu
17
vực đã được trồng đào hàng ngàn năm qua. Gần đây Hoa Kỳ (các bang
California, Nam Carolina, Michigan, Texas, Alabama, Georgia, Viginia),
Canada (miền nam Ontario và British Columbia) và Australia (khu vực
Riverland) cũng trở thành các quốc gia quan trọng trong trồng đào. Các khu
vực có khí hậu đại dương như khu vực tây bắc Thái Bình Dương và British
Isles nói chung không thích hợp cho việc trồng đào do không đủ nhiệt về mùa
hè, mặc dù đào đôi khi cũng được trồng tại đây (Yung Kyung Choi, Jung
Hokim) [26].
Bảng 1.1. Diện tích, năng suất, sản lượng đào một số nước trên thế giới
năm 2010
Địa điểm
Diện tích
(ha)
Năng Suất
(kg/ha)
Sản lượng
(tấn)

1.6.2. Tình hình sản xuất đào ở Việt Nam
Vùng phân bố tự nhiên của đào ở Việt Nam chủ yếu trên những vùng
núi cao. Đào trồng chủ yếu ở miền núi phía Bắc như: Lào Cai; Sơn La; Hòa
Bình, Lai Châu, Hà Giang, Lạng Sơn, Bắc Kạn… với các giống đào nổi tiếng
như đào Vân Nam trồng ở Lao Cai, đào Mẫu Sơn trồng ở Lạng Sơn (Bộ nông
nghiệp và phát triển nông thôn) [2], (Vũ Công Hậu)[10].
Ngày nay, các tỉnh Sơn La, Lao Cai đã di thực thành công khá nhiều
giống đào có nguồn gốc từ Trung Quốc (các giống đào Vân Nam, đào trắng
chín muộn…), từ Pháp (các giống Đ1, Đ2, Melina…) từ Australia (các giống
Tropic Beauty, Earligrand, Sunwright…) và các giống đào vỏ quả nhẵn từ
nhiều nước trên thế giới như: Rose diamond, Sunwright, Sunsnow (Viện Bảo
vệ thực vật, 2001) [23].
1.7. Những nghiên cứu về cây đào trên thế giới và Việt Nam
1.7.1. Những nghiên cứu về cây đào trên thế giới.
1.7.1.1. Những nghiên cứu về chọn giống
Theo tác giả R. J. Nissen; A. P. George; S. Hetherington và S.
Newman (2004) [33].Những nghiên cứu về cây đào tập trung vào các vấn
đề chủ yếu sau:
Yêu cầu về độ lạnh: Chương trình chọn tạo giống ở Florida, Brazil,
Taxas, California, Israel và Úc đã tạo được ra nhiều giống đào mới. Các giống
19
đào cần một giai đoạn lạnh, được tính toán như đơn vị lạnh (CU), đủ để phá
vỡ quá trình ngủ nghỉ một cách hiệu quả. Các giống được chia như sau:
Giống yêu cầu độ lạnh ít (50-200CU)
Giống yêu cầu độ lạnh thấp (200-400CU)
Giống yêu cầu độ lạnh trung bình (400-600CU)
Giống yêu cầu độ lạnh cao (> 600CU)
Ou ShyiKuan (2004) [34] khi nghiên cứu về yêu cầu độ lạnh của giống
đào campanulata P. địa phượng với 4 giống đào khác cho thấy: Số đơn vị lạnh
được tính theo số giờ có nhiệt độ 12

lá trên cành mẹ có tương quan chặt chẽ đến sinh trưởng của cành quả.
Nghiên cứu kỹ thuật đốn tỉa, tạo hình, tỉa cành để tạo cho tán có khả
năng hấp thụ tốt nhất ánh sáng mặt trời, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chăm
bón, phòng trừ sâu bệnh, điều tiết sinh trưởng, kích thích ra hoa, tăng đậu quả
để đạt được năng suất cao như mong muốn.
Rieger M. và cs (1993) [35] khi nghiên cứu mật độ trồng cho giống đào
Garnet Beauty với khoảng cách 1; 1,5; 2; 2,5; 3 m qua 4 năm cho thấy: Sự
phát triển của tán cây có tương quan chặt chẽ đến phát triển của rễ. Với mật
độ trồng từ 2 m trở lên tán cây có khả năng phát triển tốt. Năng suất đào ổn
định với các cây có mật độ trồng là 2m trở lên. Mật độ trồng dẫn tới sự cạnh
tranh về ánh sáng xẩy ra ngay từ năm đầu tiên sau trồng, trong khi ảnh hưởng
của mật độ trồng với bộ rễ chỉ xẩy ra từ năm thứ 3 sau trồng.
Furukawa Y. (2003) [29] khi nghiên cứu về mật độ trồng cho đào với
các mật độ trồng từ 1250 cây/ha đến 2500 cây/ha trong 6 năm từ 1995 đến
2001 cho thấy mật độ trồng có ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng của cây.
Qua phân tích tương quan cho thấy, mật độ trồng có tương quan chặt chẽ đến
năng suất của quả, số lượng quả có kích thước trung bình. Tuy nhiên số lượng
quả có kích thước nhỏ và lớn không có tương quan đến mật độ trồng.
Nghiên cứu về kỹ thuật bón phân: Bón phân dựa vào tính chất nông
hóa-thổ nhưỡng, nhu cầu dinh dưỡng của cây… dựa trên phân tích lá, phân
21
tích đất, kết hợp giữa bón phân quanh gốc, phun phân trên lá, bổ sung phân vi
lượng, chất điều tiết sinh trưởng [6].
Nghiên cứu kỹ thuật tưới và quản lý ẩm độ đất: Bao gồm những kỹ
thuật tủ gốc, trồng xen, trồng cây che phủ đất, các biện pháp công trình làm
đường đồng mức, các túi chứa nước trên đất dốc… đến các kỹ thuật tưới
phun, tưới nhỏ giọt, tưới nước kết hợp bón phân.
Ben Mechlia và cs (2006) [32] khi nghiên cứu về tưới nước cho đào trong
năm cho thấy, sự giảm hàm lượng nước trong các thời kỳ quả phát triển làm ảnh
hưởng đến năng suất quả, kết quả nghiên cứu cho thấy sự hạn chế nước vào giai

sâu bệnh và các thời kỳ vật hậu: ra hoa, đậu quả, quả chín và thu hoạch.
(3) Xác định giống bằng ISOZYME hoặc PCR. Ngoài mô tả hình thái,
các cá thể tuyển chọn được kiểm tra gen di truyền bằng kỹ thuật phân tích
ISOZYME hoặc PCR để xác định sự khác biệt giữa các giống.
(4) Xây dựng vườn thực liệu giống tuyển chọn. Tất cả các cá thể được
tuyển chọn năm đầu tiên sẽ được nhân bằng phương pháp ghép và trồng trong
vườn gọi là vườn thực liệu giống tuyển chọn. Mục đích là để có được những
cây giống làm cây mẹ ngay sau khi kết thúc 3 năm tuyển chọn tại hộ gia đình.
(5) Xây dựng vườn cây mẹ. Gồm các cá thể của các giống đã được
tuyển chọn đánh giá sau 3 năm, được coi là dòng/giống gốc làm thực liệu
nhân giống cung cấp cho sản xuất.
(6) Xây dựng mô hình giống đã được tuyển chọn. Mô hình giống tuyển
chọn là để chứng minh cho kết quả tuyển chọn, đồng thời là điạ bàn áp dụng
các tiến bộ kỹ thuật ngay từ đầu, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận dần với
những tiến bộ trong sản xuất.
1.7.2.2. Nhập nội và khảo nghiệm giống đào
Nhập nội giống đào cũng được tiến hành khá sớm, từ những năm 1986
đến nay. Nhìn chung công tác nhập nội và khảo nghiệm các giống đào đã
được thực hiện ở nhiều quy mô và điều kiện sinh thái khác nhau ở các tỉnh
miền núi phía Bắc nhưng kết quả còn rất hạn chế, song vẫn là một hướng cần
23
được tiếp tục với quy mô và cường độ lớn hơn để rút ngắn thời gian chọn tạo
giống trong nước.
1.7.2.3. Nghiên cứu về kỹ thuật canh tác cây đào
Theo các tác giả Vũ Công Hậu [11], R. J. Nissen; A. P. George; S.
Hetherington và S. Newman [33] và Viện Bảo vệ thực vật [24]: Đào cần trồng
ở nơi có nhiều ánh nắng, với sự thông thoáng gió tốt. Điều này cho phép
không khí lạnh được thổi đi vào những đêm sương giá và giữ cho khu vực
được mát mẻ vào mùa hè. Tại các khu vực trồng đào lấy quả thì việc trồng
đào tốt nhất diễn ra vào đầu mùa đông, do nó có đủ thời gian để rễ mọc ra và

két gỗ, vận chuyển… đều phải làm hết sức cẩn thận và thường bao giờ cũng
phải hái sớm một chút lúc quả còn cứng, dễ vận chuyển hơn, quả ít hỏng hơn.
1.7.2.4. Nghiên cứu về công dụng và giá trị kinh tế của cây đào
- Quả đào được coi là một trong những loại quả quý vì có mã quả đẹp,
vị ngọt, chua, rất hợp với khẩu vị của nhiều người, quả đào được dùng chính
để ăn tươi ngoài ra còn có thể chế biến thành các sản phẩm như: Đào ướp
đường, ô mai đào, rượu đào… đăc biệt đào phơi khô là một sản phẩm quý có
tác dụng nhuận tràng, dễ tiêu, kích thích thần kinh…
- Đào là một cây trồng có giá trị kinh tế cao, thể hiện ở chỗ: Có thể
thâm canh với mật độ cao, cây sinh trưởng nhanh, sớm cho thu hoạch quả,
khả năng đậu quả tốt, ít ra hoa cách năm…
1.8. Nghiên cứu về dinh dưỡng và kỹ thuật trồng trọt
1.8.1. Nhu cầu dinh dưỡng và kỹ thuật bón phân cho đào
Theo Phạm Văn Côn (2004) [4] cho biết: Cây ăn quả cũng như cây
trồng nói chung cần hút chất dinh dưỡng từ đất và phân bón để tạo ra sản
phẩm thông qua các quá trình quang hợp. Nếu thiếu dinh dưỡng hoặc các chất
dinh dưõng không cân đối làm cho cây sinh trưởng kém dẫn tới giảm năng
25
suất và phẩm chất sản phẩm. Nếu thừa dinh dưỡng làm cho cây sinh trưởng
quá mạnh cũng làm giảm năng suất và phẩm chất các sản phẩm đồng thời còn
gây ô nhiễm môi trường đất, nước và không khí.
Sự biểu hiện khi thiếu các chất dinh dưỡng ở cây đào như sau:
- Thiếu đạm: Lá vàng, có nhiều chấm đỏ, cành ngắn, quả bị chín ép
(chín sớm)
- Thiếu kali: Các lá cuộn lại, nhăn nheo, mép khô, dễ bị rụng quả.
- Thiếu phốt pho: Lá mầu xanh tối, cuốn lại, hàm lượng đường trong
quả giảm.
- Thiếu Mg: Lá có đám mầu nâu nhạt, rìa lá bị khô.
- Thiếu Ca: Dễ bị rụng quả, cần phun Booc đô kết hợp với trừ bệnh nấm.
- Thiếu kẽm: Lá có mầu nâu nhạt, gợn sóng và nhăn nheo, đầu các gân


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status