Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp góp phần quản lý bền vững tài nguyên rừng trên núi đá vôi tại huyện tràng định tỉnh lạng sơn - Pdf 14

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
QLBVR : Quản lý bảo vệ rừng
PCCCR : Phòng cháy chữa cháy rừng
UBND : Ủy ban nhân dân
i
DANH MỤC CÁC BẢNG
Dưới đây sẽ đi sâu phân tích từng mối đe dọa trực tiếp 42
4.2.1.1. Săn bắt động vật hoang dã 42
Hiện nay, các hoạt động săn bắt động vật hoang dã đã được kiểm soát
thông qua việc vận động người dân thu đổi các loại súng săn, súng tự chế,
kiểm tra các tụ điểm buôn bán động vật hoang dã nhưng trong thực tế
những hoạt động này có xu hướng gia tăng với các hình thức tinh vi phức
tạp hơn, khó kiểm soát. Để lý giải cho điều này chúng ta nhận thấy: do lợi
nhuận thu được từ hoạt động này lớn, biện pháp xử lý chưa chặt chẽ và
nghiêm minh, người dân chưa có ý thức bảo vệ các loại động vật hoang dã.
43
4.2.1.2. Khai thác gỗ 43
4.2.1.3. Khai thác lâm sản ngoài gỗ 44
4.2.1.4. Xâm lấn đất rừng để canh tác 45
4.2.1.5. Cháy rừng 46
DANH MỤC CÁC HÌNH
Dưới đây sẽ đi sâu phân tích từng mối đe dọa trực tiếp 42
4.2.1.1. Săn bắt động vật hoang dã 42
Hiện nay, các hoạt động săn bắt động vật hoang dã đã được kiểm soát
thông qua việc vận động người dân thu đổi các loại súng săn, súng tự chế,
kiểm tra các tụ điểm buôn bán động vật hoang dã nhưng trong thực tế
những hoạt động này có xu hướng gia tăng với các hình thức tinh vi phức
tạp hơn, khó kiểm soát. Để lý giải cho điều này chúng ta nhận thấy: do lợi
nhuận thu được từ hoạt động này lớn, biện pháp xử lý chưa chặt chẽ và
nghiêm minh, người dân chưa có ý thức bảo vệ các loại động vật hoang dã.
43

độc đáo, có tính đa dạng sinh học phong phú với nhiều nguồn gen động thực
vật quý hiếm và nhiều hệ sinh thái chuẩn của vùng núi đá.
1
Đây là hệ thống rừng núi đá tập trung ở các xã phía Bắc - Đông Bắc của
huyện Tràng Định - là một trong ít khu vực còn lại diện tích và trữ lượng rừng
tự nhiên đáng kể trong tỉnh Lạng Sơn. Nó nằm trong vùng núi đá miền Bắc
Việt Nam cao có thể khẳng định đây là một mẫu rừng đặc trưng cho hệ sinh
thái rừng trên núi đá vôi tỉnh Lạng Sơn. Hiện tại, những tác động tiêu cực của
một số người dân địa phương và các vùng lân cận đã và đang tàn phá khu
rừng, những mối đe dọa không ngừng gia tăng làm cho nguy cơ mất đi một
trong những hệ sinh thái rừng đặc thù và còn tính chất đa dạng sinh học cao là
một thực tế khó tránh khỏi. Trong khi đó, khả năng phục hồi rừng trên núi đá
là rất khó khăn, nếu để mất rừng núi đá sẽ làm mất đi nguồn tài nguyên khó
khôi phục và sẽ gây nên những hậu quả khó lường. Trong những năm gần
đây, công tác quản lý bảo vệ rừng đã được quan tâm và thực hiện một cách tốt
hơn. Tuy nhiên, do địa hình núi đá hiểm trở, phức tạp trong khi lực lượng
kiểm lâm mỏng, địa bàn quản lý rộng nên công tác bảo vệ rừng thường xuyên
gặp khó khăn, rừng trong khu vực vẫn tiếp tục bị đe doạ. Mức độ đe dọa đối
với hệ sinh thái rừng và các loài động thực vật quý hiếm vẫn đang ở mức cao,
nếu không có sự quản lý bảo vệ thì hệ sinh thái rừng nơi đây sẽ tiếp tục bị tàn
phá và trong những năm tới sẽ không còn giá trị bảo tồn. Để góp phần giải
quyết những vấn đề nêu trên, trong phạm vi luận văn, chúng tôi đã thực hiện
đề tài “Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp góp phần quản lý bền vững tài
nguyên rừng trên núi đá vôi tại huyện Tràng Định - tỉnh Lạng Sơn”
2
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan về quản lý rừng bền vững
Trước đây, rừng tự nhiên bao trùm phần lớn diện tích mặt đất. Tuy
nhiên, do những tác động của con người như khai thác lâm sản quá mức, phá

giá trị kinh tế của rừng không mâu thuẫn với việc duy trì diện tích và chất
lượng của nó, duy trì và phát huy những chức năng sinh thái to lớn với sự tồn
tại lâu bền của con người và thiên nhiên. Đây cũng là xuất phát điểm của
những ý tưởng của quản lý rừng bền vững – quản lý rừng nhằm phát huy
đồng thời những giá trị về kinh tế, xã hội và môi trường của rừng. Mặc dù
nội dung của quản lý rừng bền vững rất phong phú và đa dạng với những khác
biệt nhất định phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng địa phương, từng quốc
gia, song người ta cũng đang cố gắng đưa ra những khái niệm để diễn đạt bản
chất của nó. Chẳng hạn theo tổ chức Gỗ nhiệt đới (ITTO) thì “Quản lý rừng
bền vững là quá trình quản lý những diện tích rừng cố định nhằm đạt được
những mục tiêu là đảm bảo sản xuất liên tục những sản phẩm và dịch vụ rừng
mong muốn mà không làm giảm đáng kể những giá trị di truyền và năng suất
tương lai của rừng, không gây ra những tác động tiêu cực đối với môi trường
vật lý và xã hội”, còn theo hiệp ước Helsinki thì “Quản lý rừng bền vững là sự
quản lý rừng và đất rừng một cách hợp lý để duy trì tính đa dạng sinh học,
năng suất, khả năng tái sinh, sức sống của rừng, đồng thời duy trì tiềm năng
thực hiện các chức năng kinh tế, xã hội và sinh thái của chúng trong hiện tại
cũng như trong tương lai, ở cấp địa phương, quốc gia và toàn cầu và không
gây ra những tác hại đối với các hệ sinh thái khác” . Mặc dù có sự sai khác
nhất định trong cách diễn đạt ngôn từ, nhưng các khái niệm đều hướng vào
4
mô tả mục tiêu chung của quản lý rừng bền vững. Đó là quản lý để đạt được
sự ổn định về diện tích, sự bền vững về tính đa dạng sinh học, về năng
suất kinh tế và hiệu quả sinh thái môi trường của rừng.
Mục tiêu cơ bản của QLRBV là đồng thời đạt được bền vững về kinh
tế, bền vững về xã hội và bền vững về môi trường . Nội dung cơ bản của
những thuật ngữ này như sau:
- Bền vững về kinh tế: Lợi ích mang lại lớn hơn chi phí đầu tư và được
truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác.
- Bền vững về xã hội: Phản ánh sự liên hệ giữa sự phát triển tài nguyên

Mỹ, Canađa và nhiều dân tộc khác, mối quan tâm đối với nạn phá rừng đã thúc
đẩy các cộng đồng tổ chức các cuộc biểu tình quần chúng, chặn các con đường
chở gỗ, kêu gọi những đại biểu chính trị và các hệ thống pháp luật ngăn chặn
nạn phá rừng và làm suy thái tài nguyên rừng [17].
Quản lý rừng bền vững đề cập đến hai khía cạnh quan trọng là xây
dựng, bảo vệ và sử dụng các nguồn tài nguyên rừng phục vụ cho các nhu cầu
của con người phải được diễn ra một cách thường xuyên, liên tục và ổn định
qua các thế hệ hiện tại và mai sau.
Quản lý và sử dụng rừng bền vững bao gồm các quy trình công nghệ,
chính sách và hoạt động, nhằm hội nhập những nguyên lý kinh tế-xã hội với
các mối quan tâm về môi trường sao cho có thể đồng thời :
- Giảm mức độ nguy cơ cho sản xuất (ổn định)
- Duy trì và nâng cao sự phục vụ sản xuất (sản xuất)
- Có thể đứng vững được kinh tế (kinh tế)
- Có thể chấp nhận được về mặt xã hội.
- Không gây ô nhiễm môi trường.
- Nói cách khác, loại hình sử dụng tài nguyên rừng có thể được coi là
bền vững nếu như cách sử dụng có tính cân đối về mặt xã hội, có cơ sở về mặt
6
môi trường, được chấp nhận về mặt chính trị, có tính khả thi về mặt kỹ thuật
và phù hợp về mặt kinh tế [36].
Trên thế giới, lịch sử quản lý rừng được phát triển từ rất sớm. Đầu thế
kỷ 18, các nhà lâm học Đức G.L. Hartig [40], Heyer [41] hay Hundeshagen
[42] đã đề xuất nguyên tắc lợi dụng lâu bền đối với rừng thuần loại đồng
tuổi. Cũng vào thời điểm đó các nhà lâm nghiệp Pháp (Gournad, 1922) và
Thụy Sĩ (H. Boiolley) [38] cũng đã đề ra phương pháp kiểm tra điều chỉnh
sản lượng đối với rừng khác tuổi khai thác chọn. Trong thời kỳ này, hệ thống
quản lý rừng phần lớn vẫn dựa trên các mô hình kiểm soát quốc gia từ Trung
ương. Các khu đất rừng công cộng chiếm từ 25-75% tổng diện tích đất đai của
nhiều quốc gia. Hiện nay, nhiều Chính phủ vẫn giữ nguyên pháp lý độc nhất

tồn ĐDSH trên phạm vi toàn thế giới, cộng đồng quốc tế đã thành lập nhiều tổ
chức, tiến hành nhiều hội nghị, đề xuất và cam kết nhiều công ước về bảo vệ
và phát triển rừng trong đó có Chiến lược bảo tồn (năm 1980 và điều chỉnh
năm 1991), Tổ chức Gỗ nhiệt đới quốc tế (ITTO năm 1983), Chương trình
hành động rừng nhiệt đới (TFAP năm 1985), Hội nghị quốc tế về môi trường
và phát triển (UNCED tại Rio de Janeiro năm 1992), Công ước quốc tế về
buôn bán các loài động thực vật quý hiếm (CITES), Công ước về Đa dạng
sinh học (CBD, 1992), Công ước về thay đổi khí hậu toàn cầu (CGCC, 1994),
Công ước về chống sa mạc hoá (CCD, 1996), Hiệp định quốc tế về gỗ nhiệt
đới (ITTA, 1997). Những năm gần đây, nhiều hội nghị, hội thảo quốc tế và
quốc gia về QLRBV đã liên tục được tổ chức [13]. Phân tích khái niệm về
quản rừng bền vững của Tổ chức gỗ quốc tế thì QLRBV là cách thức quản lý
vừa đảm bảo được các mục tiêu sản xuất, vừa đảm bảo giữ được các giá trị
kinh tế, môi trường và xã hội của tài nguyên rừng.
Là tổ chức đầu tiên áp dụng vấn đề quản lý rừng bền vững ở nhiệt đới,
Tổ chức gỗ nhiệt đới quốc tế đã biên soạn một số tài liệu quan trọng như
8
“Hướng dẫn quản lý rừng tự nhiên nhiệt đới” (ITTO, 1990), “Tiêu chí đánh
giá quản lý bền vững rừng tự nhiên nhiệt đới” (ITTO, 1992), “Hướng dẫn
thiết lập hệ thống quản lý bền vững các khu rừng trồng trong rừng nhiệt đới”
(ITTO, 1993) và “Hướng dẫn bảo tồn ĐDSH của rừng sản xuất trong vùng
nhiệt đới” (ITTO, 1993 b). Tổ chức ITTO đã xây dựng chiến lược quản lý bền
vững rừng nhiệt đới, buôn bán lâm sản nhiệt đới cho năm 2000.
Hai động lực thúc đẩy sự hình thành hệ thống QLRBV là xuất phát từ
các nước sản xuất các sản phẩm gỗ nhiệt đới mong muốn tái lập một lâm phận
sản xuất ổn định và khách hàng tiêu thụ sản phẩm gỗ nhiệt đới mong muốn
điều tiết việc khai thác rừng để đáp ứng các chức năng sinh thái toàn cầu. Vấn
đề đặt ra là phải xây dựng những tổ chức đánh giá QLRBV. Trên quy mô
quốc tế, hội đồng quản trị rừng đã được thành lập để xét công nhận tư cách
của các tổ chức xét và cấp chứng chỉ rừng. Với sự phát triển của QLRBV,

bảo vệ tài nguyên, trong đó người dân cam kết bảo vệ ĐDSH trên địa phận
của mình còn chính quyền và Ban quản lý hỗ trợ người dân xây dựng hạ tầng
và cải thiện các điều kiện kinh tế - xã hội khác.
Tại Vườn Quốc gia Kruger của Nam Phi (2000), nhằm bảo vệ tài
nguyên bền vững, Chính phủ đã trao quyền sử dụng đất đai, chia sẽ lợi ích từ
du lịch cho người dân, ngược lại người dân phải tham gia quản lý và bảo vệ
tài nguyên tại Vườn quốc gia.
Theo Shuchenmann (1999), tại Vườn quốc gia Andringitra của
Madagascar, để thực hiện quản lý rừng bền vững, Chính phủ đảm bảo cho
người dân được quyền chăn thả gia súc, khai thác tài nguyên từ rừng phục hồi
để sử dụng tại chỗ, cho phép giữ gìn những tập quán truyền thống khác như
có thể giữ gìn các điểm thờ cúng thần rừng. Ngược lại, người dân phải đảm
bảo tham gia bảo vệ sự ổn định của các hệ sinh thái trong khu vực.
10
Theo báo cáo của Oli Krishna Prasad (1999), tại Khu bảo tồn Hoàng
gia Chitwan ở Nepal, để quản lý rừng bền vững, cộng đồng dân cư vùng đệm
được tham gia hợp tác với một số bên liên quan trong việc quản lý tài nguyên
vùng đệm phục vụ cho du lịch. Lợi ích của cộng đồng khi tham gia quản lý tài
nguyên là khoảng 30 - 50% thu được từ du lịch hằng năm sẽ được đầu tư trở
lại cho các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của cộng đồng [37].
Các mô hình quản lý bền vững các khu bảo vệ được nêu trên đã góp
phần quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên. Chúng đã đưa ra được một số
chính sách như chia sẽ lợi ích, hỗ trợ đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội
vv và một số giải pháp như đồng quản lý, quản lý có sự tham gia của người
dân, v.v Tuy nhiên, các mô hình trên chỉ phù hợp với một số quốc gia và
một số khu bảo vệ có tiềm năng về du lịch, tài nguyên, đất đai phù hợp.
1.3. Ở Việt Nam
Trong những năm qua do dân số tăng nhanh, nhu cầu của xã hội ngày
càng cao. Nạn khai thác gỗ ồ ạt của lâm tặc, khai thác không đúng quy trình,
chỉ chú trọng khai thác mà không chú ý đến tái tạo và nuôi dưỡng rừng,

sản đang ở mức tự cung tự cấp, lâm sản chưa trở thành hàng hoá.
+ Rừng mở để kinh doanh: Là những diện tích rừng ở những vùng có
dân cư và đường giao thông thuận lợi cho việc vận chuyển lâm sản. Những
diện tích rừng này được chia thành các đơn vị như khu, từ khu được chia
thành các lô khai thác và theo chu kỳ, sản lượng do hạt trưởng lâm nghiệp
quản lý, đấu thầu khai thác.
+ Rừng cấm: Là những diện tích rừng sau khai thác, cần được bảo vệ
để tái sinh trong cả chu kỳ theo vòng quay điều chế, cũng có thể là khu rừng
có tác dụng đặc biệt cần được bảo vệ [17].
12
Nhìn chung, trong thời kỳ trước năm 1945 tài nguyên rừng Việt Nam
khá phong phú, nhu cầu lâm sản của con người còn thấp, mức độ tác động của
con người vào tài nguyên rừng chưa cao, vấn đề QLRBV chưa được đặt ra.
Theo số liệu thống kê tài nguyên rừng khu vực Đông Dương, diện tích rừng
nước ta vào năm 1943 còn khoảng 14,3 triệu hécta, tương đương độ che phủ
43% [17].
Từ sau hoà bình lập lại rừng được chia thành 3 chức năng để quản lý sử
dụng đó là rừng sản xuất, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng. Tổ chức quản lý
sử dụng 3 loại rừng được hình thành và phát triển từ năm 1986 [17].
Trong thời kỳ này, hoạt động của ngành lâm nghiệp đã trải qua nhiều
giai đoạn khác nhau. Ngay sau khi hoà bình lập lại, toàn bộ diện tích rừng và
đất rừng ở miền Bắc được quy hoạch vào các lâm trường quốc doanh. Nhiệm
vụ chủ yếu là khai thác lâm sản để phục vụ cho nhu cầu phát triển của các
ngành kinh tế và của nhân dân, việc xây dựng và phát triển vốn rừng tuy có
đặt ra nhưng chưa được các đơn vị sản xuất kinh doanh lâm nghiệp quan tâm
đúng mức. Cùng với mức độ tăng nhanh về dân số, tình trạng chặt phá rừng tự
nhiên lấy đất sử dụng canh tác nông nghiệp, lấy các sản phẩm gỗ, củi và các
lâm sản khác càng diễn ra nghiêm trọng hơn. Những hình thức quản lý và sử
dụng tài nguyên rừng như trên đã làm cho tài nguyên rừng nước ta bị tàn phá
một cách nặng nề. Diện tích rừng đã bị thu hẹp từ 14,3 triệu ha năm 1943

được thuê, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp.
- Thông tư số 56/1999/TT/BNN-KL ngày 30/3/1999 của Bộ
NN&PTNT về hướng dẫn xây dựng quy ước bảo vệ và phát triển rừng trong
cộng đồng dân cư thôn, làng, bản, ấp.
- Nghị định số 09/2006/NĐ-CP ngày 16/1/2006 của Chính phủ quy
định về phòng cháy chữa cháy rừng.
14
- Nghị định số 32/2006/NĐ-CP ngày 30 tháng 3 năm 2006 của Chính
phủ về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm.
- Quyết định 661/QĐ-TTg ngày 29/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ về
mục tiêu, nhiệm vụ, chính sách và tổ chức thực hiện trồng mới 5 triệu ha rừng.
- Quyết định 245/1998/QĐ - TTg ngày 21/12/1998 của Thủ tướng
Chính phủ về thực hiện trách nhiệm quản lý Nhà nước của các cấp về rừng và
đất Lâm nghiệp.
- Quyết định số 186/1006/QĐ-TTg, ngày 14/8/2006 của Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành quy chế quản lý rừng.
- Quyết định số 40/2005/QĐ-BNN ngày 7/7/2005 của Bộ NN&PTNT
về việc ban hành quy chế về khai thác gỗ và lâm sản khác.
- Quyết định số 192/2003/QĐ-TTg ngày 17/9/2003 của Thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt chiến lược quản lý hệ thống khu bảo tồn thiên
nhiên Việt Nam đến năm 2010.
- Chiến lược phát triển ngành Lâm nghiệp Việt Nam đến năm 2010 và
Dự thảo chiến lược Lâm nghiệp quốc gia 2006 - 2020.
Ngoài ra, còn nhiều các văn bản pháp quy khác được ban hành từ Bộ
NN & PTNT, liên bộ và cả từ chính quyền địa phương về những vấn đề liên
quan đến quản lý và bảo vệ rừng. Những văn bản quy phạm đó đã góp phần giúp
các địa phương và ngành Lâm nghiệp quản lý bảo vệ rừng có hiệu quả hơn.
Trong những năm gần đây, Chính phủ Việt Nam đã có nhiều quan tâm
đến công tác QLBVR và sử dụng hợp lý tài nguyên rừng bằng các giải pháp
chính sách, tổ chức quản lý và xã hội hoá nghề rừng. Cụ thể đã thực hiện cắt

tiêu chuẩn và những tiêu chí áp dụng chung cho toàn quốc, đồng thời phải
phù hợp với tiêu chuẩn chung của quốc tế nên việc áp dụng không thể phù
hợp hoàn toàn trong mọi trường hợp và mọi điều kiện ở từng địa phương. Vì
16
vậy, khi áp dụng những tiêu chuẩn và những tiêu chí cần có sự mềm dẻo trong
một phạm vi nhất định, được các tổ chức chứng chỉ rừng quốc tế và FSC quốc
gia chấp nhận [35], [23].
Về cơ sở lý luận, ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu phân
tích những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý sử dụng tài nguyên rừng bền vững.
Một số đề tài nghiên cứu đã bước đầu đề xuất các giải pháp cụ thể áp dụng
cho một số vùng như:
- Quản lý sử dụng tài nguyên rừng bền vững lưu vực sông Sê San của Phạm
Đức Lâm và Lê Huy Cường 1998 [14], các tác giả đã đưa ra các giải pháp về quản
lý và sử dụng tài nguyên rừng bền vững tại lưu vực sông Sê San;
- Quản lý bền vững rừng khộp ở EaSúp - Đắc Lắc của Hồ Viết Sắc
1998 [19], tác giả đã đề xuất một số giải pháp về xã hội và quản lý nhằm quản
lý bền vững rừng khộp ở Ea Súp - Đắc Lắc;
- Du canh với vấn đề QLBVR ở Việt Nam của Đỗ Đình Sâm 1998 [20],
tác giả đã phản ánh thực trạng du canh, đánh giá sự ảnh hưởng của nó đồng
thời nêu lên một số giải pháp chính sách về định canh và biện pháp kỹ thuật
canh tác trên đất dốc nhằm quản lý rừng bền vững ở Việt Nam;
- Sử dụng đất tổng hợp bền vững của Nguyễn Xuân Quát năm 1996
[18], tác giả đã nêu lên những điều cần biết về đất đai, phân tích tình hình sử
dụng đất, các mô hình sử dụng đất bền vững, mô hình khoanh nuôi phục hồi
rừng ở Việt Nam, đồng thời đã đề xuất tập đoàn cây trồng nhằm sử dụng bền
vững và ổn định đất rừng;
- Cấu trúc rừng tự nhiên ở Tây Nguyên và khả năng ứng dụng trong
kinh doanh rừng của Trần Văn Con năm 1999 [9], tác giả đã đánh giá lại các
nghiên cứu về cấu trúc rừng tự nhiên ở vùng Tây Nguyên để xem xét thực
trạng sự hiểu biết, khả năng ứng dụng sự hiểu biết về cấu trúc rừng tự nhiên

CHƯƠNG 2
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI
KHU VỰC NGHIÊN CỨU
2.1. Điều kiện tự nhiên
2.1.1. Vị trí địa lý
Khu vực tài nguyên rừng núi đá của 3 xã Quốc Khánh, Tri Phương, Chí
Minh thuộc địa giới hành chính huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn cách thị
trấn Thất Khê khoảng 15km về phía Bắc và Đông Bắc:
Về ranh giới:
- Xã Chí Minh
Phía Bắc giáp huyện Thạch An, Tỉnh Cao Bằng.
Phía Đông giáp xã Tri phương
Phía Tây giáp xã Vĩnh Tiến, Tân Tiến
Phía Nam giáp xã Kim Đồng và xã Chi Lăng.
- Xã Tri Phương
Phía Bắc giáp xã Quốc Khánh
Phía Đông giáp xã Đội Cấn
Phía Tây giáp xã Chí Minh, Chi Lăng
Phía Nam giáp xã Đại Đồng.
- Xã Quốc Khánh
Phía Đông giáp huyện Long Châu, Tỉnh Quảng Tây-Trung Quốc.
Phía Bắc, Tây Bắc giáp huyện Thạch An tỉnh Cao Bằng
Phía Nam giáp với các xã Tri Phương, Đội Cấn.
Phạm vi nghiên cứu nằm trong địa giới hành chính của huyện Tràng
Định bao gồm một phần diện tích của 3 xã thuộc huyện Tràng Định gồm: xã
Quốc Khánh, diện tích tự nhiên 6.225,21ha. Tổng diện tích đất quy hoạch
vùng núi đá là 1.414,75ha; xã Tri Phương, diện tích tự nhiên 4.317,85ha.
19
Tổng diện tích quy hoạch vùng núi đá là 495,4 ha; xã Chí Minh, diện tích tự
nhiên 5.245,15ha. Tổng diện tích quy hoạch vùng núi đá là 555ha. Tổng diện

20
2.1.4. Thuỷ văn
Đặc điểm nổi bật của hệ thống thuỷ văn trong khu rùng núi đá là mật độ
dòng chảy bề mặt thấp do điều kiện địa hình núi đá vôi, nhiều hang động Các-
xtơ và suối ngầm.
Dòng chảy tương đối hẹp, độ dốc dòng chảy tương đối lớn. Có suối
ngầm, có sự xuất hiện đột ngột dòng chảy trên bề mặt tạo nên cảnh quan đẹp
trong khu bảo tồn thiên nhiên.
Lượng nước chảy thường xuyên quanh năm. Tuy mưa mùa, tập trung
song hầu như chưa xảy ra lũ ống, lũ quét, gây hậu quả lớn cho sản xuất và đời
sống cho nhân dân.
Điều kiện khí hậu cùng với đặc điểm địa hình địa mạo tạo nên những
vùng có tài nguyên động, thực vật rừng phong phú, đặc hữu và quý hiếm.
2.1.5. Địa chất, thổ nhưỡng
Qua điều tra, đất đai tại khu bảo tồn gồm 2 loại chính:
- Nhóm đất màu nâu đỏ (feranit) trên núi đá vôi và những nơi dốc tụ
chân núi đá:
Loại đất này thường nằm kẹp giữa những dãy núi đá vôi, trên đất
thường xuyên xuất hiện nhiều đá lộ đầu, nhưng đất có độ phì cao nên thường
bị đồng bào phát nương làm rẫy. Đất có thành phần cơ giới nặng, hơi chua
(pH=5,5-6,5), tầng B phát triển mạnh và có mầu đỏ tươi rất dễ nhận biết.
Xen kẽ loại đất đỏ có loại đất xám trên đá vôi với diện tích không lớn,
nhưng độ phì cao hơn, hàm lượng mùn và tầng mùn lớn hơn, kết cấu đất đa
phần là hạt, trên loại đất này đồng bào thường trồng ngô, khoai sọ, cây trồng
sinh trưởng rất tốt.
- Loại đất đỏ vàng hoặc vàng xám trên phiến thạch sét và đá biến chất:
Đây là loại đất chiếm diện tích khá lớn, nó được phân bố ở các thôn:
Pắc Bó, (xã Chí Minh), thôn Lũng Sàng (xã Tri Phương). Tầng đất của nó từ
21
mỏng đến trung bình và dày. Phân bố chủ yếu ở các vùng đồi núi đất có độ

Theo kết quả điều tra dân sinh kinh tế xã hội, cuộc sống của nhân dân
trong khu vực còn ở mức thấp. Tổng sản lượng lương thực bình quân năm
đạt: 4.198 tấn, trung bình đạt 650kg thóc/người/năm. Thu nhập bình quân đạt
3,5-4 triệu đồng/người/năm. Số hộ nghèo trong khu vực là 442 hộ, chiếm
29,4% tổng số hộ. Do cuộc sống khó khăn, người dân thường xuyên vào rừng
kiếm củi, khai thác gỗ, để kiếm sống đã tác động xấu đến rừng. Đây là một
trong những nguyên nhân chính làm suy giảm giá trị của rừng cả về diện tích
và chất lượng.
2.2.3. Cơ sở hạ tầng
- Giao thông: Giao thông trong vùng chưa phát triển. Toàn bộ hệ thống
giao thông chỉ có gần 150 km đường ô tô. Trong đó đường ô tô đi qua địa bàn 3
xã là 23 km đường nhựa, đường ô tô đi lại trong khu vực nghiên cứu chỉ được
cứng hóa 2km, còn lại là đường cấp phối và đường đất. 3 xã Tri Phương, Quốc
Khánh, Chí Minh đều đã có đường ô tô đến được trung tâm xã. Tuy nhiên riêng
xã Chí Minh chất lượng đường rất xấu nên việc đi lại rất khó khăn, đặc biệt là
trong mùa mưa lũ.
- Thủy lợi: Hệ thống kênh mương đã xây dựng được 60km, trong đó có
31km kênh mương cứng còn lại là mương đất. Hiện nay, một số đoạn kênh
mương đã xuống cấp và hiệu suất sử dụng các công trình này chưa cao, vì vậy
chưa đáp ứng được yêu cầu của sản xuất.
- Điện: Tất cả các xã trong khu vực đã có hệ thống điện lưới quốc gia.
Tuy nhiên, đường điện mới chỉ được kéo đến các trung tâm xã và một số thôn
bản nằm ven đường giao thông chính của xã. Các bản nằm xa trục đường
chính vẫn chưa được sử dụng điện. Hiện tại, một số hộ sử dụng máy thủy điện
nhỏ, ách quy kích điện và máy nổ để phát điện sử dụng trong gia đình.
23


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status