Phân tích, so sánh lý luận về vai trò của nhà nước trong học thuyết kinh tế cổ điển, tân cổ điển, học thuyết Keynes với trong lý thuyết kinh tế hỗn hợp. Nhận xét, ý nghĩa nghiên cứu. - Pdf 14

TIỂU LUẬN MÔN LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ
ĐỀ TÀI:
Phân tích, so sánh lý luận về vai trò của nhà nước trong học thuyết
kinh tế cổ điển, tân cổ điển, học thuyết Keynes với trong lý thuyết
kinh tế hỗn hợp. Nhận xét, ý nghĩa nghiên cứu.
GVHD: TS. Nguyễn Minh Tuấn
Nhóm thực hiện: Võ Hoàng An
Phan Minh Cảnh
Trịnh Phạm Doanh
Lớp: Cao học K19 - KTCT
MỤC LỤC
1
Nhóm thực hiện: Võ Hoàng An 1
Phan Minh Cảnh 1
Trịnh Phạm Doanh 1
Lớp: Cao học K19 - KTCT 1
MỤC LỤC 1
Lời mở đầu 3
1.Vai trò nhà nước trong học thuyết kinh tế chính trị tư sản cổ điển 5
2.Vai trò nhà nước trong học thuyết kinh tế tân cổ điển 7
3.Vai trò nhà nước trong học thuyết kinh tế Keynes 11
4.Vai trò nhà nước trong học thuyết nền kinh tế hỗn hợp 16
5.Nhận xét, so sánh và ý nghĩa của việc nghiên cứu vai trò nhà nước trong lịch sử
các học thuyết kinh tế 21
5.1.Nhận xét và so sánh vai trò nhà nước trong lịch sử các học thuyết kinh tế 21
5.2.Ý nghĩa của việc nghiên cứu vai trò nhà nước trong lịch sử các học thuyết
kinh tế 24
Kết luận 25
Tài liệu tham khảo 28
2
Lời mở đầu

gia, trang 43.
4
Xuất phát từ mô hình trên, bài viết sau đây không trình bày tất cả các
quan điểm về vai trò nhà nước về kinh tế mà tập trung phân tích, so sánh lý
luận về vai trò của nhà nước trong học thuyết kinh tế cổ điển với đại diện là
Adam Smith, học thuyết kinh tế tân cổ điển (cổ điển mới) với đại diện là Leon
Walras, học thuyết kinh tế của J.M. Keynes và lý thuyết về “nền kinh tế hỗn
hợp” của P.A.Samuelson; từ đó, nhận xét và rút ra ý nghĩa của việc nghiên
cứu vai trò nhà nước trong các học thuyết kinh tế đối với xã hội ngày nay.
1. Vai trò nhà nước trong học thuyết kinh tế chính trị tư sản cổ điển
Trong quá trình tan rã của chủ nghĩa trọng thương vào cuối thế kỷ XVII,
ở nước Anh và Pháp, trường phái kinh tế chính trị tư sản cổ điển (hay còn gọi
là học thuyết kinh tế tư sản cổ điển, kinh tế học tư sản cổ điển) bắt đầu xuất
hiện. Nguyên nhân là do sự phát triển của nền công nghiệp công trường thủ
công. Cuộc cách mạng tư sản Anh diễn ra từ giữa thế kỷ XVII tạo ra sự thay
đổi lớn về mặt kinh tế, chính trị, xã hội. Sự xuất hiện của tầng lớp quí tộc
mới, liên minh với giai cấp tư sản để chống lại triều đình phong kiến. Giai cấp
tư sản Anh đã trưởng thành, ít cần tới sự bảo hộ của nhà nước như trước. Các
chính sách kinh tế của nhà nước trong thời kỳ này cũng ít hà khắc hơn.Về mặt
tư tưởng, các ngành khoa học tự nhiên (toán, thiên văn), khoa học xã hội
(triết, lịch sử, văn học) phát triển đã tạo cho khoa học kinh tế có một cơ sở
phương pháp luận chắc chắn. Nổi lên ở giai đoạn kinh tế này là 3 đại diện tiêu
biểu là William Petty, Adam Smith và David Ricardo. Quan điểm nhà nước
không can thiệp vào kinh tế hay chủ nghĩa tự do kinh tế bắt đầu từ William
Petty. Ông viết: Trong chính sách kinh tế cũng như trong y học cần phải tính
đến những quá trình tự nhiên, không nên dùng những hành động cưỡng bức
riêng để chống lại những quá trình đó. Song quan điểm nhà nước không can
thiệp vào kinh tế được phát triển đầy đủ nhất ở Adam Smith bằng một tác
phẩm nổi tiếng là “Nghiên cứu về bản chất và nguyên nhân sự giàu có của
các dân tộc” xuất bản năm 1776.

tội phạm trong nước, thậm chí chỉ là “người gác đêm” cho chế độ tư hữu và tự
do kinh doanh. Đôi khi nhà nước cũng có thể thực hiện chức năng kinh tế khi
mà chức năng đó vượt quá khả năng của các đơn vị kinh doanh riêng lẻ như
xây dựng các công trình lớn, làm đường, thủy lợi… Còn trong điều kiện bình
thường, nhiệm vụ của nhà nước là duy trì trật tự trị an, bảo vệ tổ quốc… để
tạo ra một sự ổn định, để tư nhân hoạt động kinh tế. Vì thế, người ta xếp
Adam Smith vào trường phái tự do kinh tế.
Tuy nhiên, để thực hiện các hoạt động nhà nước cần phải có tiền. Vì vậy,
hoạt động chủ yếu của nhà nước là thu và chi ngân sách. Quan điểm của ông
thu và chi phải cân bằng. Ông chủ trương Nhà nước cần chi ít và ủng hộ
những chi phí của ngân sách nhà nước có mang lại lợi ích cho toàn xã hội. Về
thu ngân sách Adam Smith là người đặt cơ sở cho chính sách thuế của nhà
nước tư sản. Ông cho rằng, thuế cần phải phù hợp với sức và khả năng của
công dân. Ông ủng hộ thuế gián thu, chống lại thuế trực thu. Ông cũng chủ
trương xóa bỏ thuế quan bảo hộ mậu dịch. Theo ông cần phải xóa bỏ mọi cản
ngại đối với ngoại thương bởi vì tự do thương mại sẽ đem lại lợi ích cho toàn
xã hội. Việc thu chi ngân sách của nhà nước theo Adam Smith là thực hiện
chức năng quản lý hành chính của nó. Nhà nước theo Adam Smith trước sau
không nên can thiệp vào nền kinh tế.
2. Vai trò nhà nước trong học thuyết kinh tế tân cổ điển
Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, những mâu thuẫn và những khó
khăn về kinh tế của chủ nghĩa tư bản ngày càng trầm trọng. Giai đoạn này chủ
nghĩa tư bản tự do cạnh tranh đã chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc
quyền. Điều này đã xuất hiện những hiện tượng kinh tế - xã hội mới mà lý
thuyết kinh tế của trường phái cổ điển không giải thích được. Bên cạnh đó,
7
một sự kiện lịch sử trọng đại tác động đến các tư tưởng kinh tế trong thời kỳ
này là sự xuất hiện học thuyết kinh tế của K.Marx. Trong giai đoạn này, nhiều
trường phái kinh tế chính trị học tư bản xuất hiện để phân tích nền kinh tế thị
trường. Trong đó, trường phái tân cổ điển (cổ điển mới) đóng vai trò quan

cung – cầu và giá cả trên thị trường là điều kiện cơ bản cho sự phát triển và
cân đối tình hình thị trường. Đại biểu xuất sắc cho trường phái tân cổ điển về
vai trò nhà nước đối với kinh tế chính là Leon Walras (1834-1910). Ông đã
đưa ra lý thuyết về “Cân bằng tổng quát”.
Lý thuyết cân bằng tổng quát của Leon Walras được các nhà kinh tế học
tư bản đánh giá cao. Lý thuyết này phản ánh sự phát triển tư tưởng “Bàn tay
vô hình” của Adam Smith về tư tưởng tự do kinh tế.
Theo Leon Walras, trong cơ cấu nền kinh tế thị trường có ba thị trường
chủ yếu: thị trường sản phẩm, thị trường tư bản và thị trường lao động. Thị
trường sản phẩm là nơi mua bán hàng hóa, tương quan trao đổi giữa các loại
hàng hóa là giá cả của chúng. Thị trường tư bản là nơi hỏi và vay tư bản, lãi
suất tư bản cho và là giá cả của tư bản. Thị trường lao động là nơi thuê mướn
công nhân, tiền lương hay tiền công là giá cả lao động. Ba thị trường này vốn
dĩ là độc lập với nhau, nhưng lại được liên kết với nhau bởi các doanh nhân.
Doanh nhân là người sản xuất hàng hóa để bán. Muốn sản xuất doanh nhân
phải vay vốn trên thị trường tư bản, thuê công nhân trên thị trường lao động,
trên thị trường này doanh nhân là sức cầu. Sản xuất được hàng hóa doanh
nhân bán nó trên thị trường sản phẩm, ở đây doanh nhân là sức cung. Để vay
tư bản doanh nhân phải trả lãi suất, để thuê công nhân doanh nhân phải trả
tiền lương. Lãi suất và tiền lương được gọi là chi phí sản xuất.
9
Giả sử doanh nhân bán hàng với giá cả > chi phí sản xuất thì công việc
kinh doanh có lãi. Doanh nhân có xu hướng tiếp tục mở rộng qui mô sản xuất,
do đó, doanh nhân phải vay thêm tư bản, thuê thêm lao động. Như vậy sức
cầu của doanh nhân tăng lên làm cho lãi suất và tiền lương đều tăng lên. Đồng
thời, khi mở rộng sản xuất thì cung về sản phẩm cũng tăng lên, giá cả sẽ giảm
xuống. Đến một lúc nào đó, giá cả = chi phí sản xuất thì doanh nhân không có
lời nên doanh nhân ngừng sản xuất. Khi dừng sản xuất thì không vay thêm tư
bản, không thuê thêm công nhân, không tăng cung về hàng hóa. Nhờ vậy, giá
cả hàng hóa tư bản và lao động, tức lãi suất và tiền lương ổn định. Từ đó, làm

tiết. Người sáng lập ra lý thuyết này là John Maynard Keynes (1884-1946)
với tác phẩm nổi tiếng nhất là “Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền
tệ” xuất bản năm 1936. Đặc điểm chủ yếu của trường phái Keynes là:
- Thứ nhất, sử dụng phương pháp phân tích vĩ mô những chỉ tiêu của nền
kinh tế vĩ mô như sản lượng, thu nhập, việc làm, giá cả, đầu tư và tiết
kiệm. J.M. Keynes là người xây dựng nên môn học kinh tế học vĩ mô
hiện đại.
- Thứ hai, mục tiêu học thuyết của ông là chống thất nghiệp, giải quyết
công ăn việc làm. Ông coi trọng sức cầu trong nền kinh tế, nên phương
pháp nghiên cứu của ông gọi là phương pháp trọng cầu.
- Thứ ba, J.M. Keynes cho rằng chính tâm lý chủ quan của dân cư là đòn
bẩy tác động mạnh đến nền kinh tế vĩ mô. Vì vậy, đi sâu nghiên cứu
tâm lý tiêu dùng, tâm lý tiết kiệm, tâm lý ưa chuộng tiền mặt.
11
- Thứ tư, ông đã vận dụng lý luận cận biên, các phương pháp toán học,
đồ thị để phân tích các hiện tượng kinh tế và đưa ra một mô hình kinh
tế vĩ mô gồm 3 nhóm đại lượng:
o Một là, đại lượng xuất phát. Nó là nhóm đại lượng không thay
đổi hoặc thay đổi chậm. Đó là nguồn vật chất như tư liệu sản
xuất, số lượng sức lao động, mức độ trang bị kỹ thuật của sản
xuất, trình độ chuyên môn hóa của người lao động, cơ cấu của
chế độ xã hội.
o Hai là, đại lượng khả biến độc lập. Đó là nhóm khuynh hướng
tâm lý chủ quan như khuynh hướng tiêu dùng, tiết kiệm, sự ưa
chuộng tiền mặt… Nhóm này là cơ sở hoạt động của mô hình, là
đòn bẩy bảo đảm cho hoạt động của tổ chức kinh tế tư bản chủ
nghĩa.
o Ba là, đại lượng khả biến phụ thuộc. Đại lượng này cụ thể hóa
tình trạng kinh tế như khối lượng việc làm, thu nhập quốc dân
tính bằng đơn vị tiền công. Đó là các chỉ tiêu quan trọng cấu

chung có thể khái quát thành quy luật tâm lý. Ý đồ của J.M.Keynes là muốn
nhà nước tác động vào các quy luật tâm lý để giải quyết những vấn đề kinh tế.
Về vai trò nhà nước đối với kinh tế, J.M.Keynes đã lý giải trong lý
thuyết chung về việc làm và rút ra bốn nội dung cơ bản sau:
13
Thứ nhất, Nhà nước phải có chương trình kinh tế đầu tư trên qui mô lớn
và thông qua đó mà thực hiện sự can thiệp vào các quá trình kinh tế. Ông cho
rằng, để đảm bảo sự cân bằng của nền kinh tế thì không thể dựa vào cơ chế thị
trường tự phát mà phải bằng sự can thiệp tích cực của nhà nước vào kinh tế,
tăng cường “Bàn tay nhà nước”. Thông qua những hỗ trợ của nhà nước như là
những biện pháp để duy trì cầu đầu tư, thông qua những hỗ trợ tín dụng, hỗ
trợ từ ngân sách nhà nước, thông qua hệ thống các đơn đặt hàng của nhà
nước, hệ thống thu mua của nhà nước. Mục đích để tạo ra sự ổn định về môi
trường kinh doanh, ổn định thị trường. Từ đó, ổn định về lợi nhuận cho các
doanh nghiệp. Trong thời kỳ khủng hoảng, ông chủ trương nhà nước cần phải
có chính sách kinh tế tăng đầu tư và chi tiêu nhà nước để nền kinh tế ổn định.
Thứ hai, J.M. Keynes chủ trương sử dụng chính sách tài chính tín dụng
và lưu thông tiền tệ. Ở trong lý thuyết của Keynes, chúng cũng là những công
cụ quan trọng. Mục đích là để tạo lòng tin và sự lạc quan cho các nhà đầu tư.
Từ đó, doanh nhân tích cực đầu tư. Để đạt được mục đích này, ông chủ
trương tăng thêm khối lượng tiền đưa vào lưu thông, tăng giá cả hàng hóa
(nếu các yếu tố đầu vào chưa kịp điều chỉnh giá), sẽ làm tăng phần lời triển
vọng, tăng hiệu quả cận biên của tư bản, tăng cận biên đầu tư tư bản. Khi khối
lượng tiền đưa vào lưu thông tăng lên, cũng sẽ dẫn tới lạm phát. Tuy nhiên,
lạm phát không phải lúc nào cũng có hại, nhà nước có thể chủ động tạo ra lạm
phát, nếu kiểm soát được lạm phát sẽ làm giảm lãi suất, tăng cận biên đầu tư
tư bản. Ông đề xuất để trang trải những khoản chi tiêu của nhà nước, bù đắp
những khoản thâm hụt của ngân sách nhà nước và mở rộng đầu tư của nhà
nước. Keynes chủ trương in thêm tiền giấy. Điều này có thể dẫn đến lạm phát
nhưng có thể kích thích kinh tế. Ông cũng đề xuất dùng lạm phát nhưng

tiếp sức cho các công cụ ổn định bên trong đó, họ còn đưa ra biện pháp điều
15
hòa. Theo họ, trong thời kỳ hưng thịnh thì giảm chi tiêu nhà nước, còn trong
thời kỳ khủng hoảng thì tăng chi tiêu nhà nước, dù có thâm thụt ngân sách để
bù lại sự giảm sút chi từ phía tư nhân. Họ coi chiến tranh là phương tiện tốt
nhất để ổn định thị trường, thoạt khỏi khủng hoảng thất nghiệp.
Hạn chế lớn nhất của học thuyết Keynes là xem nhẹ, bỏ qua vai trò của
cơ chế thị trường, của tự do kinh tế. J.M.Keynes quá say sưa với vai trò điều
chỉnh can thiệp của nhà nước và thổi phồng vai trò của nhà nước. Điều này
cũng dẫn đến khủng hoảng do nền kinh tế kém hiệu quả.
4. Vai trò nhà nước trong học thuyết nền kinh tế hỗn hợp
Lý thuyết về “nền kinh tế hỗn hợp” là tư tưởng trung tâm của kinh tế học
trường phái chính hiện đại, thống trị thế giới từ những năm thập niên 1970.
Trong lịch sử các học thuyết kinh tế, các nhà kinh tế cổ điển và tân cổ điển
say sưa với “bàn tay vô hình”; các nhà kinh tế theo trường phái Keynes và
Keynes mới say sưa với “bàn tay hữu hình”; trong khi đó P.A. Samuelson
chủ trương phát triển kinh tế phải dựa vào cả “hai bàn tay” là cơ chế thị
trường và cơ chế nhà nước. Ông cho rằng “điều hành một nền kinh tế không
có chính phủ hoặc thị trường thì cũng như định vỗ tay bằng một bàn tay”.
Cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế trong đó cá nhân
người tiêu dùng và các nhà kinh doanh tác động qua lại lẫn nhau thông qua thị
trường để giải quyết 3 vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế là sản xuất ra cái
gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? Cơ chế thị trường mang nặng yếu
tố tự phát, nhưng lại “không phải là sự hỗn hợp mà là trật tự kinh tế”. Cơ chế
thị trường là một cơ chế hết sức tinh vi để mà phối hợp một cách không tự
giác hoạt động của người tiêu dùng và các nhà kinh doanh thông qua hệ thống
giá cả thị trường. Giá cả chính là phương tiện phát tín hiệu, nó có chức năng
thông tin. Mọi sự phân tích đánh giá tình hình của thị trường bắt đầu từ giá cả.
16
Thông qua sự vận động của giá cả trên thị trường mà các nhà kinh doanh tự

trường. những khuyết tật này có thể do tác động bên ngoài gây nên, như ô
nhiễm môi trường mà doanh nghiệp không phải trả giá cho sự huỷ hoại đó
hoặc là những thất bại thị trường do tình trạng độc quyền phá hoại cơ chế tự
do cạnh tranh; hoặc là các tệ nạn như khủng hoảng, thất nghiệp. Cuối cùng là
sự phân phối thu nhập bất bình đẳng. Để đối phó với những khuyết tật của cơ
chế thị trường, nền kinh tế hỗn hợp đã phối hợp “bàn tay vô hình” với “bàn
tay hữu hình” như thuế khoá, chi tiêu và luật lệ của chính phủ.
Vai trò của nhà nước trong kinh tế thị trường thể hiện qua 4 chức năng
như sau:
Chức năng thứ nhất là thiết lập khuôn khổ pháp luật. Chức năng này đã
vượt ra ngoài khuôn khổ của kinh tế học. Chính phủ đề ra các quy tắc trò chơi
kinh tế mà các doanh nghiệp, người tiêu dùng và bản thân nhà nước cũng phải
tuân thủ. Những qui tắc trò chơi kinh tế thực chất là hệ thống pháp luật kinh
tế. Các khuôn khổ pháp luật có thể tác động sâu sắc tới ứng xử kinh tế của
con người.
Chức năng thứ hai là sửa chữa những thất bại của thị trường để thị
trường hoạt động có hiệu quả. Trong chức năng này, nhà nước có 4 nhiệm vụ:
Thứ nhất, Nhà nước cần can thiệp để hạn chế độc quyền, đảm bảo tính
hiệu quả của cạnh tranh thị trường. Các tổ chức độc quyền thường lợi dụng ưu
thế của mình để quy định giá cả nhằm thu lợi nhuận. Điều này làm tính hiệu
quả của thị trường bị giảm. Nhà nước cần đưa ra các luật chống độc quyền và
18
luật lệ kinh tế để làm tăng hiệu quả của hệ thống thị trường cạnh tranh không
hoàn hảo.
Thứ hai, những tác động bên ngoài cũng dẫn đến tính không hiệu quả
của thị trường và đòi hỏi nhà nước phải can thiệp. Tác động bên ngoài xảy ra
khi doanh nghiệp hoặc con người tạo ra chi phí – lợi ích cho doanh nghiệp
khác, hoặc người khác mà các doanh nghiệp hoặc con người đó không được
nhận đúng những lợi ích mà họ cần được nhận hoặc không phải trả đúng số
chi phí mà họ phải trả.

của lý thuyết Keynes về “bàn tay hữu hình”. Còn cơ sở về lý thuyết để hình
thành quyền lực về tiền tệ của nhà nước là của lý thuyết tiền tệ của Friedman.
Vì vậy, chính sách về tiền tệ, tài chính có thể nới lỏng hoặc thắt chặt là tùy
từng giai đoạn kinh tế.
Trong quá trình thực hiện vai trò kinh tế, chính phủ phải đưa ra những
quyết định lựa chọn. Lựa chọn của nhà nước gọi là những phương án lựa chọn
công cộng, phải dựa trên cơ sở những phương án lựa chọn cá nhân. Trên thực
tế, không phải lúc nào nhà nước cũng lựa chọn đúng. Điều đó chứng tỏ vai trò
kinh tế của nhà nước cũng có những giới hạn. Để bổ sung, khắc phục những
giới hạn này thì vai trò kinh tế của nhà nước cần được kết hợp với cơ chế thị
trường, hình thành nên một “nền kinh tế hỗn hợp”. Trong “nền kinh tế hỗn
hợp” có cả cơ chế thị trường và chính phủ. Cơ chế thị trường xác định giá cả
và sản lượng trong nhiều lĩnh vực, trong khi đó, chính phủ điều tiết thị trường
bằng các chương trình thuế, chi tiêu và luật lệ. Cả hai bên thị trường và chính
phủ đều có tính chất thiết yếu.
20
5. Nhận xét, so sánh và ý nghĩa của việc nghiên cứu vai trò nhà nước
trong lịch sử các học thuyết kinh tế
5.1. Nhận xét và so sánh vai trò nhà nước trong lịch sử các học thuyết
kinh tế
Qua nghiên cứu vai trò nhà nước về kinh tế trong các học thuyết kinh tế
từ cổ điển, tân cổ điển, trường phái Keynes và lý thuyết về nền kinh tế hỗn
hợp, chúng ta có thể rút ra một số nhận xét và so sánh như sau:
Thứ nhất, trong lịch sử phát triển các học thuyết kinh tế từ cổ điển đến
nay có ba quan điểm về vai trò nhà nước trong nền kinh tế. Một là, quan điểm
nhà nước không can thiệp vào kinh tế; hai là, nhà nước can thiệp mạnh vào
nền kinh tế; ba là, quan điểm trung dung. Quan điểm nhà nước không can
thiệp vào kinh tế xuất hiện vào thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản ở Anh và
Pháp. Quan điểm này được đề cập trong học thuyết kinh tế chính trị tư bản cổ
điển với đại diện tiêu biểu là Adam Smith. Với tác phẩm “Nghiên cứu về bản

P.A.Samuelson đã vận dụng một cách sáng tạo những quan điểm của các bậc
tiền bối để xây dựng nên quan điểm về cơ chế thị trường rất có giá trị khoa
học và thực tiễn trong bối cảnh ngày nay. Đặc biệt các quan điểm này có thể
luận giải cơ chế thị trường trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế.
Thứ tư, đặc trưng của trường phái học thuyết Keynes là Nhà nước phải
can thiệp tích cực vào hoạt động kinh tế, gọi là “Bàn tay hữu hình”. Thông
qua việc nghiên cứu các đại lượng tổng quát như tổng cầu, tổng cung, tổng
đầu tư, tổng việc làm, tổng thu nhập và mối quan hệ giữa chúng và thông qua
cơ sở phân tích tâm lý chủ quan của số đông và tâm lý xã hội, các nhà học
thuyết theo trường phái Keynes đã giải thích các hiện tượng kinh tế ở góc độ
vĩ mô. Học thuyết Keynes đề cao tiêu dùng và những biện pháp kích cầu tiêu
22
dùng và đầu tư. Theo trường phái này, nhà nước cần phải tăng chi tiêu trong
thời kỳ khủng hoảng cho dù có thâm thụt ngân sách nhằm giúp quốc gia vượt
qua khủng hoảng nhờ tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập và tăng tiêu dùng.
So sánh với học thuyết cổ điển và tân cổ điển thì học thuyết của trường phái
Keynes đối lập hoàn toàn. Đó là sự thay đổi quan điểm về vai trò nhà nước từ
vai trò là người “giữ nhà” sang vai trò nhà nước phải can thiệp tích cực vào
nền kinh tế. Vai trò nhà nước trong học thuyết của Keynes đã được ứng dụng
rộng rãi ở các nước trên thế giới và đạt được nhiều thành công đáng kể. Sở dĩ
như vậy là vì các cuộc khủng hoảng kinh tế và chiến tranh thế giới đã minh
chứng cho sự thất bại của thị trường theo quan điểm của học thuyết cổ điển và
tân cổ điển. Đồng thời, trên thế giới thời kỳ này xuất hiện các quốc gia XHCN
theo học thuyết Mác-Lênin. Nhà nước các nước XHCN đã chủ trương kế
hoạch hóa nền kinh tế quốc dân, tuyệt đối hóa vai trò nhà nước và xóa bỏ
hoàn toàn thị trường. Tuy nhiên, quan điểm tuyệt đối hóa vai trò nhà nước
trong nền kinh tế đã làm cho nền kinh tế nhiều quốc gia trên thế giới tỏ ra
kém hiệu quả. Quan điểm về vai trò nhà nước can thiệp tích cực vào nền kinh
tế cũng được các nhà kinh tế thị trường hiện đại kế thừa và phát huy. Trong

thuyết kinh tế là một bộ phận đối tượng nghiên cứu quan trọng của lịch sử các
học thuyết kinh tế. Lịch sử các học thuyết kinh tế là một bộ môn khoa học độc
lập, chiếm vị trí quan trọng trong số các môn khoa học xã hội. Xuất phát từ
việc nghiên cứu vai trò nhà nước trong lịch sử các học thuyết kinh tế mà sau
này phát triển thành bộ môn khoa học xã hội độc lập là môn quản lý nhà nước
về kinh tế.
Thứ hai, việc nghiên cứu vai trò nhà nước trong lịch sử các học thuyết
kinh tế giúp chúng ta hiểu rõ hệ thống quan điểm các lý luận về vai trò nhà
24
nước trong nền kinh tế làm cơ sở cho việc nghiên cứu các vấn đề liên quan
đến kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta hiện nay.
Thứ ba, việc nghiên cứu vai trò nhà nước trong nền kinh tế, đặc biệt là
lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp giúp chúng ta nhận thức được những ưu
điểm và nhược điểm của “hai bàn tay”. Từ đó chúng ta nhận thức rõ hơn ranh
giới tương đối của “bàn tay vô hình” và “bàn tay hữu hình” để điều tiết hoạt
động của nền kinh tế.
Thứ tư, việc nghiên cứu vai trò nhà nước trong lịch sử các học thuyết
kinh tế giúp chúng ta hiểu rõ bản chất của nền kinh tế thị trường hiện đại ngày
nay.
Thứ năm, việc nghiên cứu vai trò nhà nước trong lịch sử các học thuyết
kinh tế giúp cho các nhà hoạch định hiểu rõ hơn bản chất sự can thiệp của nhà
nhà nước vào nền kinh tế để có những chính sách phù hợp.
Thứ sáu, trong điều kiện kinh tế Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu vai
trò nhà nước trong lịch sử các học thuyết kinh tế rất thiết để chúng ta có thể
nắm vững các chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong
quá trình xây dựng đất nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại vào năm 2020.
Kết luận
Vấn đề quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa thực chất là xác định vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status