Báo cáo nghiên cứu khoa học " ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CHĂN NUÔI PHÙ HỢP VỚI ĐIỀU KIỆN THỰC TẾ CỦA HUYỆN ĐAKRÔNG, TỈNH QUẢNG TRỊ " - Pdf 14

ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
CHĂN NUÔI PHÙ HỢP VỚI ĐIỀU KIỆN THỰC TẾ CỦA
HUYỆN ĐAKRÔNG, TỈNH QUẢNG TRỊ
Trần Sáng Tạo
Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế
TÓM TẮT
Kết quả nghiên cứu về chăn nuôi ở huyện Đakrông cho thấy từ năm 2000
đến 2006, đàn dê phát triển nhanh nhất (tăng 210,84%), tiếp đến là đàn bò (tăng
38,38%), đàn trâu tăng 29,33%; đàn gia cầm tăng 25,95%; đàn lợn tăng 13,52%,
nhưng lại giảm đáng kể trong năm 2005 (10.893 con năm 2005 giảm xuống còn
7.030 con năm 2006).
Kết quả phỏng vấn 210 hộ đại diện của 52 thôn thuộc 14 xã của huyện
Đakrông cho thấy có 42,4% hộ nuôi trâu và qui mô 2,7 con/hộ, có 35,7% hộ nuôi
bò địa phương với qui mô 3,8 con/hộ; tỷ lệ bò Lai Sind thấp, có 5,2% hộ nuôi và
qui mô 1,1 con/hộ. Chăn nuôi lợn chưa phát triển, vẫn còn nuôi giống lợn địa
phương (25,2%), tỷ lệ nuôi lợn lai thấp (21,0%). Tỷ lệ hộ nuôi dê là 17,1% và qui
mô nuôi là 6,6 con/hộ. Tỷ lệ hộ nuôi gia cầm là 55,2% và qui mô nuôi là 14,8
con/hộ.
Ngành chăn nuôi chiếm vị trí quan trọng, đóng góp khoảng 25% sinh kế
của gia đình, tuy nhiên người dân còn gặp khó khăn về kiến thức, kinh nghiệm,
vốn và thị trường. Để phát triển chăn nuôi cần thiết kế chương trình tập huấn hợp lý, xây dựng mạng lưới thú y, hỗ trợ vốn và lồng ghép các chương trình dự án trên
địa bàn. Tốt nhất là nên xây dựng một số mô hình trình diễn chăn nuôi, đó là nơi
áp dụng các tiến bộ kỹ thuật để nâng cao năng suất chăn nuôi và là địa điểm cho
nông dân học thực tế.
1. Đặt vấn đề

Các câu hỏi phỏng vấn bán cấu trúc, phỏng vấn chính thức và phiếu điều tra
được thiết kế phù hợp cho việc đánh giá hệ thống chăn nuôi ở 3 cấp: cấp xã, cấp
thôn/bản và cấp hộ. Mỗi xã, 3 thôn đại diện được chọn lựa, trong đó một thôn gần
với trung tâm xã, một thôn xa nhất và một thôn nằm ở khoảng giữa. Tại mỗi thôn,
5 hộ đại diện được lựa chọn để phỏng vấn cấp hộ, trong đó 2 hộ dưới mức nghèo,
2 hộ nghèo và 1 trên nghèo (Bộ LĐTBXH [1]). Thời gian khảo sát nghiên cứu từ
tháng 7 đến tháng 9 năm 2007.
3. Kết quả và thảo luận
3.1 Tình hình chăn nuôi ở huyện Đakrông
Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn về điều kiện sản xuất và dịch bệnh, số
lượng đàn gia súc nuôi ở huyện Đakrông vẫn tăng lên trong những năm qua (bảng
1). Trong sự phát triển của đàn gia súc, tỷ lệ đàn dê tăng cao nhất, 210,84%.
Đàn dê tăng nhanh có thể do trong những năm qua có các chương trình/dự án hỗ
trợ chăn nuôi tại địa phương; nông dân ở huyện Đakrông đã nhận thức được vai
trò của dê trong thu nhập và người dân thích ăn thịt dê hơn trước đây.
Bảng 1: Tình hình chăn nuôi của huyện Đakrông trong những năm qua (con)
Gia súc 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Tăng 6
năm (%)
Trâu 4333 4499 4618 4729 4758 5282 5604 29,33
Bò 2934 2575 2793 3562 4087 4011 4060 38,38
Lợn 6193 8014 8956 9541 10236

10893

7030 13,52
Dê 1245 1370 1437 1713 2264 3465 3870 210,84

6 tháng nuôi. Do Đakrông là một huyện biệt lập nên không bị ảnh hưởng của dịch
cúm gia cầm, đó là cơ hội để phát triển chăn nuôi gia cầm trong khi số lượng gia
cầm ở các địa phương khác trong nước đang giảm [5].
3.2. Tình hình chăn nuôi ở các nông hộ
Kết quả khảo sát về tình hình chăn nuôi ở cấp nông hộ của huyện Đakrông
được trình bày ở bảng 2.
Bảng 2: Số lượng gia súc gia cầm nuôi trong các nông hộ của huyện Đakrông
(n=210)
Nhóm

Chỉ số Trâu

Bò địa
phươn
g

lai
Sind

Lợn
địa
phươn
g
Lợn lai


Gia
cầm

Số hộ nuôi 89 75 11 53 44 36 116

24,4 Nhóm
3
Qui mô
(con/hộ)
2,4 2,9 1,0 2,1 2,8 6,4 13,6 Số hộ nuôi 10 28 7 11 10 19 33
% hộ nuôi 22,2 62,2 15,6 24,4 22,2
42,
2
73,3
Nhóm
4
Qui mô
(con/hộ)
2,6 3,5 1,1 2,5 2,1 5,2 12,0
(Nguồn: Kết quả điều tra, 2007)
Đánh giá chung về chăn nuôi trâu của các hộ điều tra, có 42,4% hộ nuôi
trâu và qui mô 2,7 con/hộ. Các xã của nhóm 1 có số trâu bình quân/hộ cao nhất
(2,8 con/hộ) và có 62,22% số hộ nuôi trâu. Đây là những xã gần với trung tâm
huyện, có các dự án hỗ trợ và gần Quốc lộ 9, dễ dàng tiếp cận thị trường. Về tỷ lệ
hộ nuôi trâu, các xã của nhóm 2 cao hơn các nhóm khác (73,33%). Chăn nuôi trâu
ở những xã của nhóm 2 phát triển hơn các xã khác vì đây là vùng đất bằng, hầu hết
đều là người Kinh, nhận thức được tầm quan trọng của chăn nuôi. Vì vậy, họ
chuẩn bị thức ăn cho gia súc được tốt hơn, trồng cỏ voi để nuôi trâu.
Bò nuôi tại các nông hộ của huyện Đakrông chủ yếu là bò địa phương (có
35,7% hộ nuôi) và tỷ lệ bò lai thấp hơn nhiều (5,2%). Về qui mô nuôi ở các nông
hộ cũng cho kết quả tương tự, 3,8 con/hộ đối với bò vàng và 1,1 con/hộ đối với bò
lai Sind. So sánh giữa các nhóm xã khác nhau, kết quả cho thấy số hộ của các xã

nhằm giảm nghèo, điều mà Chính phủ đang quan tâm hiện nay, 0.00
5.00
10.00
15.00
20.00
25.00
30.00
35.00
40.00
Toàn huyện Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4
% thu nhập
Trung bình
Hộ khá
Hộ TB
Hộ nghèo

Biểu đồ 1: Thu nhập từ chăn nuôi của các nông hộ
4. Một số phát hiện chính và đề xuất
Ngành chăn nuôi chiếm vị trí quan trọng đối với các hộ làm nông nghiệp,
đóng góp khoảng 25% sinh kế của gia đình. Tiềm năng phát triển chăn nuôi của
huyện khá lớn nhằm đáp ứng nhu cầu thịt bò, thịt lợn và gia cầm cho thị trường
trong tỉnh và tỉnh Thừa Thiên Huế [3].
4.1. Những trở ngại chính trong phát triển chăn nuôi
- Nhiều cán bộ địa phương còn thiếu kỹ năng tập huấn, đặc biệt là kỹ năng

Mô hình này cần đầu tư và kinh phí thấp (350-500 ngàn đồng/mô hình).
Mỗi hộ có thể trồng cỏ trong khoảng 500m
2
, sau đó tiếp tục mở rộng thêm nhằm
cung cấp đủ cỏ cho gia súc, nhất là những lúc thiếu thức ăn, thời vụ căng thẳng và
dùng để vỗ béo trâu bò.
4.3.2. Mô hình nuôi bò bán thâm canh (bò cái và bò đực)
Bò cái có thể giống lai Sind hoặc giống địa phương, chăn nuôi theo
phương thức bán thâm canh. Sau đó, mô hình nuôi bò đực lai Sind cũng rất cần
thiết triển khai để cho bò lai Sind giao phối trực tiếp với bò cái.
4.3.3. Mô hình nuôi lợn (lợn nái, lợn thịt, lợn đực nhập nội)
Trước hết, nên xây dựng các mô hình lợn thịt để nâng cao năng lực của
người dân. Sau đó, xây dựng một số mô hình nuôi lợn nái ở trung tâm huyện hoặc
các xã xung quanh như một trại cung cấp giống lợn. Trong trang trại này một số
giống lợn đực ngoại năng suất cao nên được sử dụng để giao phối với lợn nái
trong trại và sau đó khai thác tinh dịch để thụ tinh nhân tạo lợn nái nuôi tại các hộ,
đặc biệt những hộ xa trung tâm huyện. Mô hình trình diễn này cần có một hệ
thống dịch vụ đồng bộ về cung cấp giống, thức ăn và thuốc thú y, thị trường
4.3.4. Mô hình nuôi dê (giống địa phương và giống Bách Thảo)
Có thể triển khai mỗi xã một số mô hình nuôi dê, mỗi mô hình gồm 4 dê cái
và một dê đực. Sau khi mô hình này phát triển, dê đực Bách Thảo sẽ được cung
cấp để phối với dê địa phương để tạo ra dê lai có trọng lượng và tỷ lệ thịt nạc cao
hơn. 4.3.5. Mô hình nuôi gà (giống địa phương và giống cải tiến)
Mô hình nuôi gà có thể nuôi cả gà địa phương và gà nhập nội, mỗi mô hình
khoảng 100 con, nuôi bán thâm canh và thực hiện đầy đủ chương trình vacxin, an
toàn dịch bệnh và không sử dụng các chế phẩm hoóc môn.


(25.2%), while the rate of hhs raising improved pig was low (21.0%). The rate of
hhs raising goat was 17.1% with 6.6 heads/hh. Number of hhs raising poultry was
55,2% with 14.8 heads/hh.
Livestock plays an important role, contributing 25% to the livelihhood of
each family. However, local people are facing with shortage in knowledge,
experience, capital and market. In order to develop livestock it is necessary to
design an appropriate training program, set up a veterinary network, provide
credit scheme and integrate projects/programs implemented in the district. It will
be better to set the livestock demonstration models, where advanced technologies
are applied to improve animal productivity. These are places for farmers get more
practical experience.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status