LUẬN VĂN: Thế giới quan phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần con người Việt Nam hiện nay - Pdf 15

LUẬN VĂN:

Thế giới quan phật giáo
và ảnh hưởng của nó đối với đời sống
tinh thần con người Việt Nam hiện nay

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhỡn lại những thập kỷ cuối thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI, tỡnh
hỡnh tôn giáo trên thế giới và trong nước ta hiện nay, có nhiều biểu hiện diễn biến phức
tạp, hết sức nhạy cảm, đó và đang đặt ra nhiều vấn đề cần được lý giải trên cơ sở khoa
học. Trong xó hội hiện đại ngày nay, tôn giáo đang trở thành một trong những vấn đề
thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trên cả phương diện lý luận

Chính vỡ vậy, mà Phật giáo mang đậm tính triết học hơn bất kỳ một tôn giáo nào khác.
Trong công cuộc đổi mới của đất nước hiện nay, do sự tác động mạnh mẽ của
nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa cùng với các học thuyết tư tưởng và
tôn giáo, đạo Phật đó có những biến chuyển mạnh mẽ cùng với sự chuyển mỡnh lớn lao
của đất nước.
Việc đứng trên lập trường triết học Mác - Lênin để nghiên cứu thế giới quan Phật
giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần con người Việt Nam hiện nay, chỉ
ra những yếu tố tích cực, phát hiện những giá trị tinh tuý của nó cũng như những mặt
hạn chế của nó chính là một việc làm có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận cũng như về
mặt thực tiễn. Với tầm quan trọng và ý nghĩa như vậy, học viên mạnh dạn chọn vấn đề:
“Thế giới quan Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần con người Việt
Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học.
2. Tỡnh hỡnh nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh thần của con người
Việt Nam là một đề tài rộng lớn. Đó có nhiều công trỡnh nghiên cứu và đạt được
những kết quả đáng trân trọng. Có thể kể ra một số công trỡnh sau đây:
- Mấy vấn đề Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam của Viện Triết học, Hà Nội,
1986;
- Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Viện Triết học, Hà
Nội, 1991;
- Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1 của Nguyễn Tài Thư (chủ biên), NXB khoa
học xó hội, 1993;

- Góp phần tỡm hiểu tư tưởng triết học Phật giáo Trần Thái Tông của Nguyễn
Hùng Hậu, NXB Khoa học xó hội, 1996;
- Thiền học Trần Thái Tông của Nguyễn Đăng Thục, NXB Văn hoá thông tin,
1996;
- Tôn giáo, tín ngưỡng hiện nay, mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp thiết, Trung tâm
thông tin tư liệu - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1996;
- Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện

biệt là đời sống tinh thần. Những triết lý đầy tính nhân sinh của Phật giáo kết hợp với
văn hoá truyền thống, đó tạo nên sự phong phú của đời sống tinh thần của con người Việt
Nam. Các công trỡnh nghiên cứu nói trên, trực tiếp hoặc gián tiếp, ở từng khía cạnh và mức
độ xem xét khác nhau, đó thể hiện tư tưởng triết học Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với
đời sống xó hội Việt Nam. Tuy nhiên, nghiên cứu làm sáng tỏ có tính hệ thống thế giới
quan Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần con người Việt Nam hiện
nay thỡ cho đến nay vẫn chưa có một công trỡnh khoa học chuyên khảo nào trực tiếp nào
đề cập đến. Các công trỡnh trên là những tài liệu quý, hết sức có giá trị là cơ sở để học viên
tiếp thu và kế thừa những thành quả nghiên cứu của những người đi trước. Vỡ vậy, luận văn
này, từ góc độ triết học đi sâu nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống về tư tưởng thế
giới quan Phật giáo, từ đó tỡm hiểu ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần con người
Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn làm rừ thế giới quan Phật giáo trên những nội dung chủ yếu có liên
quan và có ảnh hưởng rừ nét đối với một số mặt trong đời sống tinh thần con người Việt
Nam hiện nay. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy mặt tích
cực, hạn chế mặt tiêu cực ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo đối với đời sống tinh
thần con người Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ cụ thể
sau:
- Làm rừ thế giới quan Phật giáo trên những nội dung chủ yếu (về thế giới, về
con người và về cuộc đời con người) .
- Phân tích ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo đối với một số mặt trong đời
sống tinh thần con người Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu
cực ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần con người Việt
Nam trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.

- Về mặt lý luận
Luận văn góp phần làm rừ thế giới quan Phật giáo cũng như tác dụng của nó đối
với đời sống tinh thần con người Việt Nam hiện nay.
- Về mặt thực tiễn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy tôn
giáo, liên quan đến tôn giáo ở các trường Cao đẳng, Đại học và những ai quan tâm tỡm
hiểu về Phật giáo nói chung.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm 2 chương, 6 tiết.
Chương 1
THẾ GIỚI QUAN PHẬT GIÁO

1.1. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THẾ GIỚI QUAN PHẬT GIÁO
Ấn Độ là một bán đảo lớn - một “tiểu lục địa” nằm ở miền Nam châu á trông
gần giống một tam giác cân mà đáy giáp Đại Tây Dương, một cạnh bên giáp biển Ấn
Độ Dương, cũn cạnh kia án ngữ bởi dóy Himalaya hùng vĩ dài tới 2.600 km, trong đó có
đến bốn mươi ngọn cao trên bảy cây số. Theo tiếng Phạn (Sanskrit) chữ Himalaya có

nghĩa là “xứ sở của tuyết”. Người Ấn Độ cổ cho đây là nóc nhà của thế giới, nơi ngự trị
của các đấng thần linh, nơi chứa đựng nguyên khí của trời đất. Như vậy, Ấn Độ là một
tiểu lục địa khép kín, ngăn cách hoàn toàn với châu Á.
Điều kiện thiên nhiên và khí hậu của Ấn Độ rất phức tạp. Địa hỡnh vừa có nhiều
núi non trùng điệp, vừa có nhiều sông ngũi với những đồng bằng trù phú; có vùng khí
hậu nóng, ẩm, mưa nhiều, có vùng lạnh giá tuyết phủ quanh năm, lại cũng có những
vùng sa mạc, khô khan nóng nực như thiêu như đốt, nơi thỡ lũ lụt, nơi thỡ gió cát bụi
mù mịt, Tính đa dạng, khắc nghiệt của điều kiện tự nhiên và khí hậu là những thế lực
tự nhiên đè nặng lên đời sống và ghi dấu ấn đậm nét trong tâm trí người Ấn Độ cổ, phần
nào cũng phản ánh sự đa dạng trong triết học Ấn Độ .
Phật giáo là một trong ba tôn giáo lớn trên thế giới. Phật giáo xuất hiện ở Ấn Độ

dân cũng đó ảnh hưởng mạnh mẽ tới tính chất và sự phát triển khắc nghiệt của tự nhiên
và chế độ đẳng cấp, thể chế xó hội luôn đè nặng lên đời sống của người dân Ấn Độ. Đó
là chế độ xó hội dựa trên sự phân biệt về chủng tộc, màu da, dũng dừi, nghề nghiệp, tôn
giáo, quan hệ giao tiếp, tục cấm kỵ hôn nhân… Theo thánh điển Bàlamôn và bộ luật
Manou người ta phân biệt trong xó hội Ấn Độ rất nhiều chủng tính khác nhau, nhưng có
thể quy định thành bốn chủng tính lớn và đó là bốn đẳng cấp lớn của Ấn Độ cổ đại.
Trước khi Phật giáo ra đời, xó hội tồn tại bốn đẳng cấp sau:
Thứ nhất, đẳng cấp Brahman - na (Bàlamôn) gồm: tăng lữ hay tu sĩ những người
chuyên làm công việc cúng tế thần, chuyên nghiên cứu giảng dạy thánh kinh, họ nắm
quyền thống trị về mặt tinh thần, chiếm địa cao nhất trong xó hội Ấn Độ. Đẳng cấp này
có đặc quyền về xó hội và chính trị, được tôn làm “Thần của nhân gian”.
Thứ hai, đẳng cấp Kshatriya (Sát đế lợi) gồm: vua chúa, vương công, tướng lónh,
vừ sĩ; họ nắm giữ quyền thống trị về mặt kinh tế, xó hội, cai trị và thâu tóm ruộng đất và
được coi là người bảo hộ của nhân dân.
Thứ ba, đẳng cấp Vaishya (Vệ xá) gồm: thương nhân, điền chủ, và những người
trong nghề thủ công. Đẳng cấp này là lực lượng chính tạo ra của cải vật chất cho xó hội
và có nghĩa vụ phải nộp thuế.

Thứ tư, đẳng cấp Shudra (Thủ đà la) gồm: những người lao động bỡnh thường,
nô lệ. Đẳng cấp này phục tùng những đẳng cấp trên.
Ngoài bốn đẳng cấp trên, cũn có những người bị coi là ngoài lề đẳng cấp xó hội,
đó là tầng lớp hạ tiện nhất gọi là Ba-lị-xá gồm những người cùng khổ dưới đáy xó hội.
Họ bị các đẳng cấp trên đối xử như thú vật, cuộc sống vô cùng khổ nhục, tối tăm.
Trong các đẳng cấp trên, đẳng cấp Brahman-na và Kshatriya là giai cấp thống trị;
đẳng cấp Vaishya và Shudra thuộc giai cấp bị trị. Bốn đẳng cấp này theo chế độ thế tập,
cha truyền con nối ở đẳng cấp nào thỡ đời đời vẫn ở đẳng cấp ấy.
Một xó hội bất bỡnh đẳng như thế làm cho mâu thuẫn xó hội ngày càng gay gắt,
nhất là khi đẳng cấp thống trị giàu có sinh ra trụy lạc, pháp luật không cũn được tôn
trọng. Tỡnh hỡnh xó hội Ấn Độ thời bấy giờ đó chín muồi một cuộc đấu tranh nhằm lật
đổ những giai cấp thống trị, áp bức bóc lột. Đây là cơ sở xó hội quan trọng làm cho thế

thần linh.
Trả lời câu hỏi, cái gỡ là thực tại cao nhất, là căn nguyên của tất cả mà khi nhận
thức được nó, người ta sẽ nhận thức được mọi cái cũn lại và có thể giải thoát được linh
hồn khỏi sự lo âu khổ nóo của đời sống trần tục và sự rằng buộc của thế giới hiện tượng
biến ảo, vô thường. Upanishad đó đưa ra một cách giải đáp duy tâm rằng: bản nguyên
của thế giới này là “tinh thần vũ trụ tối cao” Brahman (đại ngó), là thực thể duy nhất có
trước nhất, tồn tại vĩnh viễn, bất diệt, là cái từ đó tất cả thế giới đều nảy sinh và nhập về
với nó sau khi chết. Linh hồn con người (Atman - tiểu ngó) chỉ là sự biểu hiện, là một bộ
phận của “tinh thần tối cao”. Cơ thể, nhục thể chỉ là cái “vỏ bọc” của linh hồn, là nơi trú
ngụ của linh hồn, hiện thân của “tinh thần tối cao”, tuyệt đối bất tử Brahman và là tia nắng
của ánh nắng mặt trời. Nên về bản chất linh hồn là đồng nhất với “linh hồn tối cao”. Trong
vũ trụ, từ cái vô cùng lớn đến cái vô cùng nhỏ, đều là sự biểu hiện của một cái tối cao, tuyệt
đối, duy nhất Brahman.
Vỡ Atman - linh hồn, tiểu ngó là cái tồn tại trong thể xác con người ở đời sống
trần tục, nên ý thức con người lầm tưởng rằng linh hồn, “cái ngó” là cái khác với “linh
hồn vũ trụ”, khác với nguồn sống không có sinh, không có diệt của vũ trụ. Những ý chí,

cảm giác, ham muốn dục vọng và hành động của con người nhằm thoả món những ham
muốn đó trong đời sống trần gian đó gây ra những hậu quả, gieo đau khổ ở kiếp này và
cả kiếp sau, gọi là nghiệp báo (karma). Do vậy linh hồn bất tử cứ bị giam hóm vào hết
thể xác này đến thể xác khác, bị che lấp, ràng buộc bởi thế giới hiện tượng như ảo ảnh,
gọi là sự luân hồi (samsara), không nhận ra và không trở về đồng nhất với chân bản của
mỡnh là Brahma được. Muốn giải thoát linh hồn bất tử khỏi vũng vây hóm của nghiệp
báo, luân hồi, thoát khỏi sự chi phối của đời sống nhục dục, của thế giới hiện tượng cảm
tính như ảo ảnh (maya), thường biến, để đạt tới sự đồng nhất với “Tinh thần vũ trụ tối
cao, tuyệt đối” con người phải dốc lũng, toàn tâm tu luyện hành động và tu luyện tri
thức. Bằng nhận thức trực giác, thực nghiệm tâm linh, con người mới nhận ra chân bản
của mỡnh, khi đó linh hồn bất tử mới đồng nhất được với “Linh hồn vũ trụ tối cao”, bắt
đầu siêu thoát (moska).
Chính vỡ nội dung triết lý phong phú ấy mà Upanishad đó trở thành nguồn gốc

(Sakyamuni), có tên thật là Siddhartha (Tất Đạt Đa), họ Cồ Đàm (Gautama) vương tộc
Thích Ca (Sakya), là thái tử con vua Suddhodana (Tịnh Phạn) và hoàng hậu Mada, trị
vỡ một xứ nhỏ ở miền bắc Ấn Độ, trung lưu sông Hằng là Ca tỳ la vệ (Kapilavastu).
Ông sinh ngày 15- 4 (có sách ghi 8- 4) năm 563 tr.CN (Phật lịch cho là 544 tr.CN) tại
vườn Lumbini thuộc kinh thành Kapilavastu (hiện nay thuộc về nước NêPan).
Trong những kinh sách sau công nguyên thuật lại sự tích của Ngài cho
là Ngài sinh tại vườn Lumbili nay thuộc nước NêPan. Bà Mada mơ thấy một
con voi trắng đầu thai mà sinh ra Ngài. Ngài sinh ra từ nách mẹ, sinh ra bèn
đi 7 bước, một tay chỉ trời một tay chỉ đất nói: Thiên thượng địa hạ duy ngó
độc tôn. Đây đều là những huyền thoại văn hoá dân gian nhằm đề cao Ngài là
một Siêu Nhân chứ không phải là một thực tế lịch sử [32, tr.7].
Theo tục lệ thời bấy giờ Ngài kết hôn rất sớm, vào năm 16 tuổi (hay 19), Ngài
kết hôn với một công chúa rất xinh đẹp, đức hạnh tên là Yasodhara (Daduđàla). Cuộc
sống giàu sang nơi cung đỡnh đó tạo cơ hội cho ông chăm lo việc học hành, lễ bái, yến
tiệc và giải trí. Vỡ vậy, Ngài không hay biết những gỡ đen tối, cực nhọc, bất hạnh diễn
ra ở ngoài xó hội. Sau 4 lần trực tiếp đi ra ngoài thành và tận mắt chứng kiến nỗi khổ

của kiếp người, Ngài noi gương các đạo sĩ, quyết tâm tỡm đường cứu khổ cho chúng
sinh. Năm 29 tuổi sau khi người con duy nhất Rahula (Lahầula) ra đời, Ngài từ bỏ cung
điện và trở thành một người khổ hạnh ra đi tỡm giải pháp ấy. Trong 6 năm trời, Ngài
lang thang khắp thung lũng sông Hằng (gần núi tuyết sơn), gặp những vị thầy danh
tiếng, học hỏi và theo những hệ thống, phương pháp của họ, khép mỡnh vào những kỷ
luật khổ hạnh khắt khe (mỗi ngày Tất Đạt Đa chỉ ăn một hạt vừng, rồi 7 ngày ăn một
lần, ăn hoa quả và ăn cỏ…). Nhưng Ngài không được thoả món với những lý thuyết và
thực hành ấy. Bởi thế, Ngài từ bỏ tất cả những tôn giáo cổ truyền và những phương
pháp của chúng, theo con đường của riêng Ngài. Ngài nhận thấy rằng, lối tu đó cũng
không giải thoát con người khỏi nỗi đau sinh, lóo, bệnh, tử. Theo Ngài, tu khổ hạnh hay
chủ trương khoái lạc cũng đều là những cực đoan phi lý như nhau. Bằng sự kiên trỡ và
nhạy cảm về trí tuệ, cuối cùng Ngài đó phát hiện ra ra con đường “trung đạo”, một con
đường có thể dẫn đến sự giải thoát. Một hôm, sau khi xuống sông tắm, Ngài lên bờ thỡ

toạ của Mục Kiền Liên Tử Đế Tu. Chủ đề kiết tập là phê phán ngoại đạo. Tương truyền
Đế Tu viết Luận sự hay có tư liệu cho là soạn 7 bộ kinh và cho là từ đây kinh Phật thành
văn. “Nhưng nói chung các nhà nghiên cứu cho là trong lần kiết tập này vẫn không có
văn bản” [32, tr.15]. Chính lần kiết tập này, các tăng đoàn được thành lập để bắt đầu
công việc truyền bá Phật giáo ra nước ngoài.
Kiết tập lần thứ tư, do vua Ca Nhị Sắc Ca (Kaniska) [78 - 120 hay 144 - 170 sau
công nguyên] khởi xướng. Có 500 A La Hán dự do Thế Hữu chủ trỡ. Chủ đề kiết tập là
luận giải Tam tạng, kết quả lần kiết tập này đó hoàn chỉnh Kinh điển của Phật giáo.
Đạo Phật với luật lệ, lễ nghi đơn giản, giáo lý sâu sắc, nêu lên khả năng chế ngự
dục vọng, vai trũ tự giải thoát của con người, sự bỡnh đẳng của con người với con
người… nên được đông đảo quần chúng tin theo. Sau khi Phật tịch diệt khoảng hai thế
kỷ, dưới thời vua A Dục, vào thế kỷ III tr.CN, Phật giáo đó lan rộng khắp Ấn Độ. Phật
giáo ở Ấn Độ tiếp tục phát triển cho đến thời vua Gúp Ta, sau đó Phật giáo không giữ
được vai trũ như trước nữa và dần dần phải nhường chỗ cho một tôn giáo mới: Ấn Độ
giáo - một tôn giáo kết hợp giữa đạo Bàlamôn và một số tín ngưỡng dân gian, trong đó

có một số yếu tố của Phật giáo. Từ thế kỷ thứ VIII trở đi, Hồi giáo xâm nhập vào Ấn Độ
làm cho Phật giáo bị suy tàn dần.
Tuy vậy, Phật giáo vẫn phát triển sang các nước ngoài Ấn Độ một cách nhanh
chóng theo hai hướng: xuống phía Nam (gồm các nước như Miama, Lào, Campuchia,
Nam Việt Nam…) gọi là Phật giáo Nam Tông (Tiểu thừa). Kinh điển chủ yếu ghi bằng
chữ Pali. Phái Tiểu thừa (cỗ xe nhỏ): tự tu, tự chứng, tự giác với phương châm “Hóy
làm ngọn đèn cho chính bản thân mỡnh”, thiên về cá nhân hơn, theo giáo lý nguyên
thuỷ, chỉ thờ Phật Thích ca Mâu ni; một hướng truyền lên phía bắc (gồm các nước:
Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Bắc Việt Nam…) gọi là phái Bắc Tông (Đại thừa).
Kinh điển chủ yếu là bằng chữ Phạn. Phái Đại thừa quan niệm: tự giác, giác tha, tức là
không chỉ giác ngộ cho bản thân mỡnh mà cũn giác ngộ cho người khác, có tính xó hội
cao hơn, thờ Phật Thích ca Mâu ni và cả các vị Bồ Tát với cách thờ cúng khoa trương và
“đa nguyên”. Ngày nay, quá trỡnh giao lưu, hội nhập quốc tế được mở rộng, giao thông
thuận lợi và kinh điển được trao đổi ở khắp các nước nên sự chia rẽ giữa Bắc Tông và Nam

sao? Nó có thể biết gỡ và làm gỡ với thế giới đó? Vỡ sao có người tốt, kẻ xấu? Cuộc
sống con người có ý nghĩa gỡ? Trả lời những câu hỏi này sẽ hỡnh thành ở con người
những quan điểm, quan niệm nhất định về thế giới cũng như về vị trí và vai trũ con
người trong thế giới; đó chính là thế giới quan. Vậy thế giới quan là gỡ?
Theo nghĩa hẹp, thế giới quan là quan niệm hay hệ thống quan niệm của con
người về thế giới. Quan niệm hay hệ thống quan niệm này cũng không phải nhất thành
bất biến mà thay đổi theo thời đại phụ thuộc vào mức độ hiểu biết và cải tạo giới tự
nhiên của con người. Nhưng thế giới không tách rời con người.
Theo nghĩa rộng, thế giới quan là hệ thống những quan niệm của con người về
thế giới; về vị trí của con người trong thế giới đó, về chính bản thân cuộc sống của con
người và loài người trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định; nghĩa là, thế giới quan cũn
bao hàm cả nhân sinh quan, tức là toàn bộ những quan niệm về cuộc sống của con
người và loài người.
Trong Phật giáo, đặc biệt là đối với Phật giáo nguyên thuỷ, “khía cạnh vũ trụ quan,
thế giới quan có phần hơi mờ nhạt, trong khi đó khía cạnh nhân sinh quan lại khá rừ nét”

[27, tr.265]. Một số nhà nghiên cứu cho rằng Phật giáo nguyên thuỷ không lấy bản thể
luận làm chủ ý, mà vũ trụ quan (thế giới quan) lấy nhân sinh quan làm trung tâm. Tức là,
thế giới quan không tách rời nhân sinh quan, bởi lẽ khảo sát thế giới, nghiên cứu vũ trụ
mà tách rời khỏi con người thỡ đức Phật không chấp nhận. Tại sao lại có hiện tượng như
vậy?
Đức Phật không muốn bàn đến những vấn đề siêu hỡnh không cần thiết, hoàn
toàn thuộc địa hạt tư duy và phát sinh những vấn đề tưởng tượng. Ngài xem chúng như
một “hoang vu quan niệm” [56, tr.18]. Dường như chính trong số những môn đệ của
Phật cũng có người không thích thái độ này của Ngài. Trường hợp một trong những
người ấy là Malunkyaputta (Man - đồng tử) đến hỏi Ngài những vấn đề về siêu hỡnh
trừu tượng, chẳng hạn như vũ trụ trường tồn hay không trường tồn, nó là vô hạn hay
hữu hạn, linh hồn và thể xác là một hay khác nhau, Như lai sau khi chết có tồn tại hay
không tồn tại, hay nó vừa tồn tại vừa không tồn tại? Những câu hỏi đó suốt đời, thậm
chí đến chết cũng không giải thích nổi, “Sự trả lời của đức Phật cho Malunkyaputta quả

ghét. Đây là điểm xuất phát vô cùng quan trọng để khảo sát, nhận thức thế giới.
Với cách khảo sát này, đức Phật đó phát hiện ra, mọi sự vật hiện tượng đều do
nhân duyên sinh, các pháp do nhân duyên sinh. Nhân duyên ở đây chỉ mối liên hệ, điều
kiện (có cái này thỡ có cái kia, cái này sinh thỡ cái kia sinh. Cái này không thỡ cái kia
không, cái này diệt thỡ cái kia diệt). Như vậy, đức Phật đó nhỡn ra mối liên hệ chằng
chịt lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng. Trên thế giới này càng không có sự vật gỡ tồn
tại độc lập tuyệt đối, tất cả mọi cái đều phải nương tựa vào nhau. Mọi sự vật hiện tượng
đều nằm trong mối liên hệ phức tạp đó, dù Phật có ra đời hay không ra đời, chúng vẫn là
như vậy, không thể khác được.
Từ cách nhỡn nhận đó, theo Phật, thế giới này về đại thể có hai yếu tố cơ bản là
danh và sắc. Khái niệm danh, sắc này có từ thời Upanishad để chỉ hiện tượng và cá thể.
Nhưng đến thời đức Phật nó được ngụ ý là yếu tố tinh thần và yếu tố vật chất, nó chính
là vật và tâm, vật chất và ý thức. Theo thuyết “Chư pháp nhân duyên sinh” thỡ hai cái
đó liên hệ mật thiết khăng khít với nhau, không tách rời nhau, không có cái này thỡ
cũng không có cái kia và ngược lại. Cụ thể tức là không có vật thỡ cũng không có tâm và

sở dĩ có vật là do có tâm, không có tâm thỡ vật là gỡ thỡ cũng không ai biết. Thậm chí là
ngay từ “vật” cũng do tâm đặt ra. Ta cứ thử hỡnh dung trên thế gian này không có tâm,
không có ý thức, tinh thần thỡ liệu có cái gọi là vật không. Cái gọi là thế giới chẳng qua
là thành lập trên quan hệ nhận thức giữa sáu căn và sáu cảnh, ngoài ra thế giới đối với
chúng ta không có một ý nghĩa nào khác vỡ không có chủ quan thỡ cũng không có
khách quan, mà không có khách quan thỡ cũng không có chủ quan. Ngoài quan hệ chủ
quan - khách quan ra cũng không có thế giới, cái gọi là hết thảy cũng chỉ được thành lập
trên quan hệ ấy. Như vậy, theo tinh thần Phật giáo, trong hai yếu tố vật và tâm thỡ tâm
đóng vai trũ chủ đạo trong việc thành lập thế giới. Tất cả các giá trị của thế giới đều
hoàn toàn do tâm con người tạo ra.
Vỡ mọi sự vật hiện tượng đều do nhân duyên sinh, thế giới quan Phật giáo cho
rằng thế giới này sinh ra không nhờ một đấng sáng tạo nào, không nhờ một phép mầu
nhiệm nào ở ngoài nó cả, mà chỉ do nhân quả nối tiếp nhau mà thành. Cái quả bây giờ là
do cái nhân ở trước, cái nhân ở trước lại do cái quả ở trước nữa; cứ như thế đi ngược lên

châu.
2. Ngạ quỷ: kể cả Diêm Ma, Quỷ thần, Dạ xoa
3. Súc sinh
4. Atula (dưới đáy biển)
5. Nhân gian (có 4 châu nói trên)
6. Thiên (Trời)
Thời gian ở những cảnh giới khác nhau thỡ cũng khác nhau. Một ngày ở Tứ
Thiên Vương bằng 50 năm của chúng ta. Một ngày ở Đạo Lợi Thiên bằng 100 năm
chúng ta. Một ngày ở Đẳng hoạt địa ngục bằng 100 năm ở Tứ Thiên Vương
Theo cuốn Phật học phổ thông, Thích Thiện Hoa trong phần về thế giới quan (vũ
trụ quan) Phật giáo đó tổng kết bằng hai câu hỏi:
- Thực tại, thật tướng của vũ trụ là gỡ? Trả lời câu hỏi này ta có Thật tướng luận.
- Sau khi hỡnh thành, vũ trụ biến chuyển như thế nào, sự chuyển biến có nguyên
do từ đâu ? Để trả lời câu hỏi này ta có Duyên khởi luận.

* Thật tướng luận: Nó cho rằng thực thể, thực tướng của vũ trụ là Chân như.
Chân như là thực thể không biến đổi, không sinh diệt, không cũn mất, vô thuỷ vô
chung, sáng suốt vô hạn. Tuỳ theo từng trường hợp mà Chân như được gọi bằng những
tên khác nhau như Chân tâm, Viên giác, Phật tính, Pháp tính, Giác tính, Như như, Pháp
thân, Cho nên thật khó mà kể hết những danh từ khái niệm để chỉ Chân như. Nhưng
dù có kể hết, thỡ cũng chỉ là những danh từ khái niệm, chứ không phải Chân như. Chỉ
có ai giác ngộ thỡ mới trực nhận, thể nhập, thể chứng được nó. Ngôn ngữ, văn tự chỉ có
thể mô tả được hiện tượng giới, cũn khi trỡnh bày về thực tướng, bản thể thỡ nó trở nên
bất lực. Bởi vậy, thái độ đúng đắn nhất để trực nhận bản thể chân như là im lặng (vô
ngôn). Đó cũng là thái độ của đức Phật khi chứng đạo dưới gốc cây Bồ đề, khi các môn
đồ hỏi ngài về những vấn đề siêu hỡnh trừu tượng.
Nhưng nếu không nói gỡ thỡ làm sao cứu độ được chúng sinh, làm sao đưa con
người đến bến bờ giác. Cuối cùng đức Phật lại phải nói. Nhưng khi nói đến cái điểm
khó nói nhất - bản thể chân như thỡ Ngài không thể dùng lối nói thông thường được. Do
đó ta thấy trong Kinh Phật có những câu nói mà ta có cảm giác vô cùng phi lý, gàn dở,

giống như cảnh giới đối với người (dưới mắt con người), nghĩa là vũ trụ vạn hữu biến
đổi theo tầm mắt và sự hiểu biết của các loài.
Nghiệp cảm nghĩa là nghiệp thế nào thỡ cảm thọ cái thân và cảnh như thế ấy. Do
nghiệp mà có thân và cảnh. Thân cảnh tốt xấu là do nghiệp lành dữ. Nhưng cũn nghiệp
là cũn hiện tượng giới:
Sự hành vi của chúng ta hàng ngày, sinh ra Tam nghiệp (thân nghiệp,
khẩu nghiệp, ý nghiệp) - Tam nghiệp cứ lớp trước tàn lớp sau nối, liên liên
như những khoen dây xích. Thân tâm ta bởi đó mà tiếp dẫn với chủ quan giới
và khách quan giới. Ấy gọi là Nghiệp cảm duyên khởi [32, tr.34].
Cho nên, dứt trừ được nghiệp là trở về với Chân Như, Niết bàn. Như vậy, nghiệp
(do mê hoặc, vô minh mà có) - nguyên nhân xuất hiện con người và thế giới hiện tượng,
do đó muốn giải thoát phải diệt nghiệp.
+ Alaida duyên khởi. Là của phái Duy thức (Du già phái, Pháp Tướng tông)
theo Du già sư địa luận và Nhiếp Đại Thừa luận của Vô Trước ( khoảng thế kỷ IV-V

sau công nguyên). Thuyết này cho rằng sau khi chết, ngũ uẩn tan ra, Nghiệp lực dẫn dắt
đi đầu thai. Nhưng nghiệp dẫn dắt cái gỡ? Lục thức, ý thức sinh diệt vô thường. Bởi
vậy, Đại thừa sơ khởi bổ sung thêm hai thức nữa là Manas (mạt la thức) và Alaya (A lại
da thức).
Manas - chủ thấy biết, tự nhận có cái ngó giữ gỡn nó. Nhưng làm sao giữ được
cái giả ngó trong lúc ngũ uẩn, lục thức đều sinh diệt vô thường. Vậy dưới Manas tất
phải có một cái thức khác thường tại, chùm chứa mầm mống, chủng tử của các pháp.
Đó chính là Alaya (Tạng thức) mà công năng của nó là thu nhiếp và sinh khởi các pháp.
Gây nghiệp tức ghi tất cả những hành động, cử chỉ, hành vi, lời nói, suy nghĩ, chủng
tử dồn chứa vào Tạng thức, đủ nhân duyên thỡ những chủng tử (mầm mống) đó phát ra
hiển lộ (chẳng hạn, người có mầm tham, không có điều kiện ăn trộm cứ tưởng mỡnh là
lương thiện, người có mầm ngoại tỡnh, không có điều kiện cứ tưởng mỡnh là chung
thuỷ). Khi thân thể xuất hiện, Alaya đó bao hàm mầm của vạn pháp (vạn vật). Thế giới
bên ngoài thiên sai vạn biệt là do Alaya tác động mà ra. Như vậy, Alaya là cái căn bản
của hiện tượng giới, từ vô thuỷ nó đó bao chùm chủng tử. Chủng tử và hiện tượng giới

tượng không tách rời nhau.
+ Pháp giới duyên khởi. Thuyết này theo kinh Hoa Nghiêm và Hoa Nghiêm
Tông, Kinh Hoa Nghiêm thuộc đầu công nguyên, nhưng Hoa Nghiêm Tông thỡ do Đỗ
Thuận lập vào đầu thế kỷ thứ VIII. Cho rằng pháp giới (tức vũ trụ, vạn hữu) là một duyên
khởi lớn tức là các pháp làm nhân duyên cho nhau, nương tựa, tương phản, dung thông
nhau mà thành lập. Do pháp này dung thông nhau, cùng nhau làm duyên khởi, mỗi lớp mỗi
lớp không tận cùng cho nên cũn gọi là vô tận duyên khởi hay trùng trùng duyên khởi.
Như vậy, vũ trụ vạn hữu là một cuộc đại hoạt động của hiện tượng, từ vô thuỷ
đến vô chung, nối tiếp và tràn lan vô cùng tận, như những đợt sóng. Vỡ có hoạt động
nên mới có sinh diệt chuyển biến. Nếu không có hoạt động thỡ không có chuyển biến,
tức không có vạn tượng, không có vũ trụ.
Trong tư tưởng triết học Phật giáo, quan điểm về cách nhỡn nhận thế giới bên
ngoài có quan niệm về vô thường, vô ngó:

Trích đoạn Ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo đối với tư duy của người Việt Nam Hoạt động mê tín dị đoan Lợi dụng Phật giỏo núi chung, thế giới quan Phật giỏo núi riờng Tư duy hướng nộ Phải hiểu đúng mặt tích cực, tiêu cực trong thế giới quan Phật giáo
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status