Du lịch sinh thái vườn quốc gia Cúc Phương - Pdf 16

1. Giới thiệu chung về VQG Cúc Phương :
1.1.Lịch sử.
Vườn quốc gia Cúc Phương là một nơi mang giá trị lịch sử và là địa điểm khảo cổ.
Các di vật của người tiền sử có niên đại cách đây khoảng 12.000 năm đã được phát hiện tại
đây, chứng tỏ con người đã từng sinh sống tại khu vực Cúc Phương từ 7.000 đến 12.000
năm trước. Người ta đã phát hiện một loạt các hiện vật như mồ mả, rìu đá, mũi tên đá, dao
bằng vỏ sò, dụng cụ xay nghiền v.v. trong một số hang động thuộc vườn quốc gia này. Gần
đây, một phần bộ xương của một loài lưỡng cư biển, rất có thể là thằn lằn cá đã được phát
hiện trong địa bàn vườn.
Năm 1960 , rừng Cúc Phương được công nhận là khu bảo tồn rừng và theo Quyết định
72/TTg ngày 7 tháng 7 năm 1962 Cúc Phương được quyết định thành lập như là một khu
rừng cấm với diện tích 20.000 ha đánh dấu sự ra đời khu bảo vệ đầu tiên của Việt Nam .
Quyết định số 18 QĐ-LN ngày 8 tháng 1 năm1966 chuyển hạng lâm trường Cúc Phương
thành Vườn quốc gia Cúc Phương và thành lập một Ban quản lý vườn quốc gia này. Quyết
định số 333/QĐ-LN ngày 23 tháng 5 năm 1966 quy định chức năng và trách nhiệm của Ban
quản lý .
1.2. Đặc điểm tự nhiên.:
● Vị trí địa lý : Vườn quốc gia Cúc Phương trải dài từ 20°14’ đến 20°24’ vĩ bắc,
105°29’ tới 105°44’ kinh đông , nằm trong một thung lũng lớn dài 25km , giữa hai dãy núi
đá vôi trong đoạn cuối dãy Hoàng Liên Sơn , ở ranh giới ba tỉnh Hoà Bình , Thanh Hoá và
Ninh Bình (nhưng phân nửa nằm trên diện tích Ninh Bình).
● Diện tích : Theo luận chứng kinh tế - kỹ thuật của vườn quốc gia đã được Viện điều
tra quy hoạch rừng xây dựng vào tháng 10 năm 1985 và được chủ tịch hội đồng Bộ trưởng
phê duyệt theo quyết định số 139/CT xác định tổng diện tích đưa ra là 22.200 ha bao gồm
11.350 ha thuộc địa giới tỉnh Ninh Bình , 5.850 ha thuộc địa giới tỉnh Hòa Bình và 5.000 ha
thuộc địa giới tỉnh Thanh Hóa. VQG Cúc Phương được phân làm 3 khu chức năng :Thứ nhất
là khu bảo vệ nguyên vẹn có diện tích là 20.745 ha có chức năng duy trì, bảo vệ những điều
kiện tự nhiên nguyên thủy nhất, bảo vệ nguyên vẹn tài nguyên thiên nhiên, cảnh quan di tích
lịch sử. Thứ hai là khu chuyên dùng với diện tích 743 ha có chức năng hoạt động dịch vụ,
quản lý hành chính, nghiên cứu khoa học, dịch vụ du lịch và dân cư xen kẽ. Thứ ba là vùng
đệm nhằm tạo vành đai bảo vệ tránh những tác động xấu của con người cho hai khu trên.

• Thực vật : Cúc Phương có sự phát triển hệ
thực vật rất phong phú và đa dạng, là nơi tập trung của
4 luồng thực vật khác nhau. Một là luồng á nhiệt đới
(long não, mộc lan, máu chó...). Hai là luồng nhiệt đới
nóng ẩm (các cây họ thầu dầu, chò chỉ ). Ba là luồng ôn
đới (dẻ, ngát...). Bốn là luồng Tây Nam (họ bàng, họ gạo, họ bồ hòn). Theo số liệu gần
đây , Cúc Phương có 1983 loài thực vật bậc cao thuộc 912 chi trong 219 họ, 86 bộ của 7
ngành, trong đó có 433 loài cây làm thuốc, 229 loài cây ăn được, nhiều loài đươc ghi
2
trong sách đỏ Việt Nam. Thảm thực vật Vườn quốc gia Cúc Phương có ưu thế là rừng
trên núi đá vôi,92% đất có thực vật che phủ,rất phong phú về loài. Ở một đôi chỗ, rừng
hình thành nên nhiều tầng tán có thể đến 5 tầng rõ rệt, trong đó tầng vượt tán đạt đến độ
cao trên 40m. Do địa hình dốc, tầng tán thường không liên tục và đôi khi sự phân tầng
không rõ ràng. Nhiều cây rất phát triển hệ rễ bạnh để đáp ứng vơi tầng đất mặt thường
mỏng. Vườn quốc gia hiện là nơi có nhiều loại cây gỗ lớn như: chò xanh, chò chỉ,
đăng...Với diện tích bằng 1/700 diện tích miền Bắc, 1/1500 diện tích lãnh thổ cả nước
nhưng hệ thực vật VQG Cúc Phương chiếm tỷ lệ 76% số họ, 48,6% số chi, 30% số loài
của miền Bắc và chiếm 68,9% số họ, 43,6% số chi, 24,6% số loài hiện có ở Việt Nam.
Những con số đó cho thấy tầm quan trọng của rừng Cúc Phương và bảo tồn Đa dạng
sinh học. Song Vườn Quốc gia Cúc Phương còn nổi tiếng ở chỗ tồn tại những cổ thụ
khổng lồ, như cây chò chỉ ( Parashorea chinensis ) sống trên 1000 năm tuổi, có phần thân
dưới cành tới 70m, đường kính ngang ngực 2,4m ; cây chò xanh ( Terminalia myriocarpa
Heurcket Muell ) thân cao 45m, chu vi gốc 25m ; cây Vù hương (Cinnamomum
balansae) cao 48m, đường kính 2,5m v.v…Riêng hoa phong lan có tới 50 loài, có loài
cho hoa và hương thơm quanh năm.
● Động vật : Hệ thực vật phong phú đa dạng của Cúc Phương tạo điều kiện phát triển
của nhiều loài động vật.Cúc Phương có tới 88 loài thú; 308 loài chim trong đó có nhiều loài
thuộc nhóm gõ kiến, sáo, quạ, đớp ruồi; 43 loài lưỡng thê; 67 loài bò sát, 65 loài cá ; gần
2.000 loài côn trùng và 12 loài giáp xác . Một số loài động vật được ghi vào sách đỏ mà thế
giới không còn , chỉ có ở Cúc Phương như: cá diếc hang, sóc bụng đỏ,culi lùn , tê tê …Khu

● Dân số: Khi vườn quốc gia Cúc Phương được thành lập, có khoảng 500 người sống
trong các xóm thuộc vùng lõi của vườn quốc gia này. Trong giai đoạn di dời đầu tiên, kết
thúc vào cuối năm 1990, 6 xóm với 650 người đã được chuyển đến định cư ở vùng bán sơn
địa ngoài cửa vườn. Tuy nhiên, hiện vẫn còn khoảng 2.000 người sống dọc theo bờ sông
Bưởi bên trong vườn. Số dân này cũng đang được lên kế hoạch để di dời. Khoảng trên
62000 dân sống ở vùng đệm của vườn quốc gia, rất nhiều người trong số họ có cuộc sống
phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên bên trong vườn .Cúc Phương là một trong 2
xã miền núi của huyện Nho Quan.Trung tâm vườn có 9 bản trong đó địa phận tỉnh Thanh
Hoá 2 bản, Hoà Bình 1 bản , Ninh Bình 6 bản. Số bản trên đất Ninh Bình đều nằm gần
đường ô tô từ cửa rừng đến trung tâm. Đó là bản Mạc, bản Đang, bản Mền, bản Đồng Cơn,
bản Đăng và sâu nhất là bản Bống.
● Tập quán sinh hoạt cụ thể : Người Mường Cúc Phương ở nhà sàn làm bằng gỗ, vách
thường làm bằng nứa, giữa thờ thần rừng và gia tiên, gian giữa có một cửa sổ nhìn ra
hướng cổng. Ngày lễ Tết hoặc cúng giỗ tổ tiên, cổng được quét vôi treo vào đó cái rổ,
thúng hoặc nồi hỏng.Về tôn giáo, người Mường Cúc Phương có hai tôn giáo chính, đó là
đạo Phật và đạo Thiên chúa.Trong bản có già bản là người cao tuổi có uy tín, có hiểu biết.
Trong bản còn có một nhân vật quan trọng là thầy mo, việc chính là cúng ma . Thầy mo có
chút hiểu biết về các loại lá cây rừng để chữa các bệnh thông thường. Người Mường
4
không có chữ viết riêng, tiếng nói không riêng nhưng có một số từ vực có dùng cả tiếng
Kinh, những từ vực ấy khi phát âm có lái đi một chút. Người Mường có tập tục “Quyền
ún “ (ún là em ) nghĩa là quyền của người nhỏ nhất trong nhà không kể trai hay gái thể
hiện lĩnh vực bán đổi các tài sản trong nhà. Người Mường Cúc Phương trước ngày di dời
khỏi trung tâm rừng, phương thức canh tác là làm nương rẫy, trồng ngô, lúa, sắn, chặt cây
làm nương rẫy, tháng 9 thu hoạch lúa ngô. Văn hoá ẩm thực Cúc Phương được biết đến
với rượu cần và cơm lam. Trong tập tục cưới hỏi,thách cưới to nhỏ phụ thuộc vào vị trí xã
hội, quan hệ của nhà gái .
1.4. Cơ sở hạ tầng.
Sau 7 năm ( từ 1999-2005 ) thực hiện Chương trình 135, huyện Nho Quan đã xây
dựng và đưa vào sử dụng 11km đường liên xã nối liền vườn quốc gia Cúc Phương với quốc

hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hoá bản địa, gắn với giáo dục môi trường, có đóng
góp của nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững, với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa
phương”.
Các nhà kinh doanh hướng tới DLST phải tuân thủ những nguyên tắc, yêu cầu mang
tính đạo đức và trách nhiệm cao với mục tiêu chính là: gìn giữ và bảo tồn các đặc tính tự
nhiên của HST bao gồm các loài động thực vật trong đó, các giá trị văn hoá, phong tục tập
quán truyền thống của những người dân địa phương sinh ra và cùng tồn tại với HST đó. Giá
trị kinh tế từ hoạt động này mang lại không nhỏ. Một trong những công thức tính đến hiệu
quả kinh tế mà du lịch nói chung và DLST nói riêng mang lại là hiệu quả số nhân trong kinh
tế( multiplier effect). Ví dụ khách du lịch mua một tấm thổ cẩm do người dân địa phương
dệt nên, hoạt động này mang lại thu nhập cho người dệt thổ cẩm nhưng kéo theo đó người
trồng dâu nuôi tằm, người nhuộm thổ cẩm cũng có thu nhập từ việc bán được tấm thổ cẩm
đó.Cũng từ phân tích mô hình số nhân, DLST đã mang lại những hiệu quả kinh tế như:Làm
tăng nguồn ngân sách cho các địa phương phát triển du lịch; làm tăng giá trị xuất khẩu tại
chỗ; góp phần phát triển các ngành kinh tế khác phát triển theo; mở mang, hoàn thiện cơ sở
hạ tầng địa phương.
Tại VQG Cúc Phương dự án GEF/SGP đang được triển khai thành công. Đây là
chương trình tài trợ các dự án nhỏ về quản lý bền vững rừng nhiệt đới( SGP PTF) của môi
trường toàn cầu (GEF) với nội dung hỗ trợ các cộng đồng dân tộc thiểu số nghèo ở miền núi
quản lý rừng đồng thời đấu tranh chống nghèo đói ở địa phương, ngoài ra dự án còn đảm
bảo kết hợp với bảo vệ môi trường.
Hiện tại VQG Cúc Phương đã đầu tư xây dựng hoàn chỉnh một làng du lịch ở bản
Mường( chính là bản Khanh Vôi có đồng bào Mường sinh sống ở đó lâu đời) phía Tây theo
mô hình mẫu: Nông nghiệp, làng nghề truyền thống và du lịch. Trong làng có đường ôtô, có
thuỷ điện nhỏ, có vườn cây ăn quả và có nghề dệt thổ cẩm truyền thống được khôi phục với
những đêm lễ hội cồng chiêng, uống rượu cần, múa hát cùng với các đoàn du khách. Cũng
6
từ mô hình sống này, người dân trong làng đã có thu nhập cao hơn hẳn, đời sống tinh thần
được nâng lên và họ đã tự giác bỏ các hoạt động xâm hại đến rừng như trước đây. Với thành
công này, VQG Cúc Phương đang tiến hành nhân rộng ra một số làng thuộc vùng đệm.

về bảo vệ môi trường và ĐDSH. DLST khác với các loại hình du lịch khác cũng bởi nó
mang tính giáo dục cao. Vì vậy mà chi phí của một chuyến DLST cũng cao hơn so với các
7
loại du lịch đại trà khác.Có nhiều giá tour khác nhau để đến Cúc Phương, sau đây là giá tour
riêng tham quan Cúc Phương trong một ngày:
Số lượng 1 2 3 4 6-8trở lên
GiáUSD/
khách
97 62 47 39 32
Mức giá bao gồm: - Xe ô tô điều hoà, đời mới đưa đón trong chương trình.
- Ăn trưa.
- Phí tham quan suốt hành trình.
- Lái xe, hướng dẫn viên nhiệt tình, giàu kinh nghiệm.
Mức giá không bao gồm: Bảo hiểm du lịch, nước uống, điện thoại, tips cho HDV và
các dịch vụ cá nhân khác.
Cúc Phương là một trong những địa điểm DLST hấp dẫn bởi những điều kiện sẵn có ở
trên. Nó đã thu hút nhiều công ty du lịch kí hợp đồng các tour du lịch và hiện nay nhiều công
ty du lịch phía Nam như: Sài Gòn Tuorist, Bến Thành Tuorist, World Wide Adventure,…
đều có gắn logo của Cúc Phương trên hành trình tour dã ngoại.Du khách đến đây có thể lựa
chọn các tuyến du lịch sao cho phù hợp với túi tiền của mình.
*Tuyến, điểm tham quan khu cổng vườn gồm:
Vườn thực vật: 1 điểm tốt cho việc dạo bộ, đặc biệt vào sáng sớm, hoặc chiều
tối( 3km, 1,5 -2 giờ: Yêu cầu có hướng dẫn viên của VQG đi cùng).
Chòi quan sát: Một tuyến leo núi ngắn, cảnh quan đẹp(300m, 0,5-1 giờ, mức độ vừa
phải, không bắt buộc có hướng dẫn viên đi cùng).
Cắm trại và ngủ đêm trong rừng: là tuyến du lịch mạo hiểm bắt buộc phải có hướng
dẫn viên của VQG và người dân bản địa đi cùng. Tuyến bao gồm các chương trình xem
động vật hoang dã ban đêm( Thời gian 2-3 ngày, tuyến khó đi , tối đa 5 người).
Động người xưa: Một trong những điểm cư trú của người tiền sử, địa điểm đa dạng về
hệ dơi ( 300m,0,5-1 giờ, yêu cầu có ánh sáng khi tham quan).

này đồng nghĩa với việc bảo tồn các tài nguyên phục vụ DLST.
Về động vật: Hiện nay, ước lượng quần thể của một số loài bị đe doạ ở cấp độ toàn
cầu ở Việt Nam, minh hoạ cho tính chất đặc biệt hiếm của một số loài.
9
Nguồn:
Birdlife
International, chương trình Việt Nam.
* Đặc hữu Việt Nam.
Theo khảo sát thì số lượng voọc sống ở rừng Cúc Phương là lớn nhất, trong đó có một
số loài chỉ sống ở đây như voọc mông trắng và nó được xem là biểu tượng của VQG Cúc
Phương. Hiện tại Bộ NN& PTNT và ban quản lý VQG đầu tư khá lớn về kinh phí, trí tuệ để
bảo tồn, phát triển tính đa dạng của hệ động thực vật, đồng thời quy hoạch vườn trở thành
một điểm tham quan du lịch lý tưởng. Ngày 28 tháng 7 năm 1999, Bộ nông nghiệp và phát
10
Loài Tình trạng
đe doạ toàn
cầu
Quần thể
Voọc mông trắng
Trachypithecus
delacouri*
CR <500
Voọc Cát Bà
T.poliocephalus
ssp.poliocephalus*
CR <100
Voọc mũi hếch
Rhinopithecus
avunculus*
CR <500

Tại Cúc Phương tổ chức động vật học Frankfurt đã thành lập Trung tâm cứu hộ các
loài linh trưởng bị đe doạ (EPRC) nhằm nuôi nhốt gây giống và nghiên cứu thú y đối với các
loài vượn, culi và voọc của Việt Nam. EPRC nhận linh trưởng từ các cơ quan chức năng của
Nhà nước tịch thu của những đối tượng mua bán trái phép động vật hoang dã về chữa trị và
chăm sóc. Đây là tổ chức được các chuyên gia nước ngoài đánh giá thành công nhất khu vực
Đông Nam Á, hơn 100 cá thể gồm các loại Voọc Cát Bà, Voọc Mông trắng, voọc chà vá
chân xám, chân đen, chân đỏ, voọc Hà Tĩnh, culy, vượn được nuôi dưỡng, chăm sóc.
Voọc chân đỏ
Ngoài ra ban quản lý VQG còn là nơi triển khai dự án sinh sản, sinh thái loài cầy vằn
Bắc và chương trình sinh thái học & bảo tồn rùa. Hai chương trình này triển khai nhằm thiết
lập trại nhân nuôi sinh sản quần thể các loài động vật bị đe doạ trên toàn cầu hiện nay bởi
tình trạng mua bán trái phép động vật hoang dã. Trung tâm bảo tồn rùa ở Cúc Phương(TCC)
thành lập năm 1998 bởi FFI là trung tâm hàng đầu của Việt Nam trong công tác bảo tồn rùa.
Diện tích của trung tâm là 2.000 m2.Trong năm 2004, trung tâm đã thả gần 400 con rùa đất
lớn và núi vàng tại vườn quốc gia Cát Tiên. Trung tâm hiện nuôi dưỡng và bảo tồn 16/23
loài rùa nước ngọt với hơn 820 cá thể, trong đó có một số loài quan trọng và khó sinh sản
11
trong điều kiện nuôi nhốt như rùa cổ bự, rùa bốn mắt của Việt Nam. Đặc biệt, trung tâm còn
nghiên cứu ấp nở thành công 10 loài rùa, trong đó có những loài quý hiếm như rùa Trung
Bộ(Mauremys annamensis),rùa sa nhân(Pyxidea mouhotii), rùa
núivàng(Indotestudoelongata),...
Với sự giúp đỡ trực tiếp của các chuyên gia người Anh là Tim McCormack, trưởng
nhóm nghiên cứu thực địa (Hiệp hội Bảo tồn động thực vật hoang dã), trong thời gian tới
trung tâm sẽ xây dựng các hạng mục công trình để diễn giải về các loài rùa phục vụ du
khách đến thăm vườn và nâng cao nhận thức cho cộng đồng về trách nhiệm bảo tồn rùa.
Ngoài ra còn hàng loạt chương trình bảo tồn khác như: chương trình bảo tồn tê tê Châu Á
của VQG Cúc Phương, chương trình bảo tồn các loài nai, hoẵng, chim…
Bên cạnh đó, VQG xây dựng được một vườn thực vật 167 ha để trồng rừng, chăm sóc
và bảo tồn hàng trăm loại cây quý hiếm của Cúc Phương cũng như một số vùng khác, trong
đó có: 210 loài cây gỗ bản địa, 85 loài cây thuộc họ ráy, 20 loài cây ăn quả, 15 loại tre trúc,

lại ở đó, Ban quản lý VQG cần có thêm biện pháp nhằm nâng cao số lượng cũng như trình
độ của cán bộ kiểm lâm hơn nữa.

(Tetiaryeducation: tốt nghiệp cấp 3; secondaryeducation: tốt nghiệp cấp 2;Worker: công
nhân)
13

Trích đoạn Làm gì để thực hiện tốt công tác bảo tồn các tài nguyên có sẵn và khắc phục
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status