Thực trạng sử dụng các công cụ tài chính phái sinh ở Việt Nam - liên hệ Đà Nẵng - Pdf 18

Công cụ tài chính phái sinh GVHD: Ts. Đinh Bảo Ngọc
Mục lục:
LỜI MỞ ĐẦU
Trong giai đoạn hiện nay, hội nhập hóa nền kinh tế đất nước đang được thúc đẩy
mạnh mẽ tại Việt Nam với hàng loạt cải cách quan trọng trong nhiều lĩnh vực. Đặc
biệt trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ là quá trình chuyển từ chính sách “tài chính kiềm
chế” sang tự do hóa tài chính nhằm tiến tới phù hợp với xu hướng chung của thế giới.
Để rút ngắn khoảng cách trong hội nhập, nâng cao hiệu quả kinh doanh của hệ thống
ngân hàng trong nước, đồng thời tạo cơ hội cho giới doanh nghiệp và nhà đầu tư Việt
Nam có thể tiếp cân, sử dụng những công cụ tài chính cấp cao hữu ích; trong khoảng
thời gian 5 năm trở lại đây, Ngân hàng nhà nước đã từng bước cho phép đưa vào thực
hiện hoặc triển khai thí điểm rất nhiều các công cụ tài chính phái sinh trên thị trường
tài chính – ngân hàng nước ta.
Có thể nói, những lợi ích mà giao dịch của các công cụ tài chính phái sinh mạng lại
là điều không cần bàn cãi. Tuy nhiên, để đưa các loại công cụ phái sinh vào triển khai
thực tiễn và khuyến khích các đối tượng khách hàng sử dụng nó hiệu quả là điều
không dễ dàng trong điều kiện nước ta hiện nay. Bởi thị trường tài chính tiền tệ của
Việt Nam vẫn còn nhiều yếu kém; điều kiện cơ sở hạ tầng còn rất thiếu để các công cụ
tài chính phái sinh phát huy hết công năng. Đặc biệt là hạ tầng phần mềm liên quan
đến khung pháp lý làm nên tảng phục vụ cho quá trình giao dịch, cũng như tâm lý còn
e dè và lạ lẫm của mọi giới về công cụ mới này. Điều trên dẫn đến kết quả là: tuy thực
tế thị trường tài chính Việt Nam hiện cũng tồn tại khá đa dạng các công cụ phái sinh
nhưng một chừng mực nào đó, kết quả triển khai thời gian qua là chưa mấy khả quan
và chưa đáp ứng như kỳ vọng.
Xuất phát từ những điều trên, cũng như nhận thấy đây là vấn đề mang tính thời sự
khá “nóng” trong bối cảnh chúng ta hội nhập – và hội nhập luôn những bất ổn, biến
Thực trạng sử dụng các cctcps Nhóm 2
ở VN – liên hệ Đà Nẵng
-1-
Công cụ tài chính phái sinh GVHD: Ts. Đinh Bảo Ngọc
động về tỷ giá hối đoái, giá cả của các hàng hóa trên thị trường quốc tế nên rất cần đến

càng tinh vi và mang theo 1 số rủi ro gây gián đoạn lớn hơn độ rủi ro thông thường. Sự
sụp đổ của thị trường tài chính cổ phiếu Mỹ năm 1987 chính được đẩy nhanh nhờ sử
dụng rộng rãi kỹ thuật tự bảo hiểm Delta, được mua bán các hợp đồng bảo hiểm danh
mục đầu tư. Những người bảo hiểm này đã đầu tư, mạnh hơn vào thị trường mà nếu
như không có kỹ thuật này thì có thể họ đã không làm như vậy. Khi sự sụt giảm của thị
trường kích hoạt bảo hiểm, khối lượng bán đột ngột gây ra một gián đoạn và thị trường
sụp đổ. Hay như Great Britain’s Bearing, một trong những ngân hàng lâu đời nhất thế
giới đã phá sản năm 1995 khi đầu cơ các hợp đồng tương lai trong một thương vụ ở
Singapore. Tuy vậy, các công cụ tài chính phái sinh vẫn phát triển mạnh mẽ và được
sử dụng rộng rãi tại các thị trường tài chính lớn của thế giới. Nguyên nhân không nằm
ngoài việc đó là phương thức duy nhất để các chủ thể trên thị trường phòng chống rủi
ro. Theo điều tra đối với 500 công ty lớn nhất thế giới tai 26 quốc gia khác nhau thì có
tới 92 % các công ty trả lời rằng họ thường xuyên sử dụng công cụ tài chính phái sinh
để phòng ngừa và quản lí rủi ro.
2. Giới thiệu chung về các hợp đồng phái sinh.
Trong các thị trường tài sản, việc mua bán hòi hỏi hàng hoá hoặc chứng khoán phải
được giao nhận hoặc là ngay lập tức hoặc là chỉ ít lâu sau đó. Việc thanh toán cũng
thường được thực hiện tức thời mặc dù thỉnh thoảng cũng có trường hợp sử dụng 1 số
thoả thuận tín dụng. Do đặc điểm như vậy nên chúng ta thường gọi là thị trường tiền
mặt hoặc là thị trường giao ngay (spot market). Doanh số được thực hiện, khoản thanh
toán được hoàn trả và hàng hoá, chứng khoán được giao nhận. Trong tình huống khác,
hàng hoá hay chứng khoán vẫn được giao nhận vào một ngày sau đó, nhưng có các
thoả thuận giúp cho ngưòi bán hoặc người mua được chọn là có thực hiện bán hay
không các loại thoả thuận này, và nghiệp vụ này được thực hiện trong thị trường phái
sinh.
Thị trường phái sinh là thị trường dành cho các công cụ tài chính phái sinh, những
công cụ mang tính hợp đồng, mà thành quả của chúng được xác định trên 1 hoặc 1 số
công cụ tài sản khác. Chúng ta xem các công cụ phái sinh như là các hợp đồng, và
giống như tất cả hợp đồng, chúng được thoả thuận giữa hai bên, người mua và người
bán, trong đó mỗi bên sẽ thực hiện nghĩa vụ gì đó cho bên kia. Các hợp đồng này có

vậy, khác với hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai được giao dịch trên thị trường có
tổ chức, được gọi là sàn giao dịch tương lai. Người mua HĐTL là người có nghĩa vụ
mua hàng vào một ngày trong tương lai, có thể mua lại hợp đồng tương lai trên thị
trường tương lai. Điều này làm cho họ thoát khỏi nghĩa vụ mua hàng. Và tương tự đối
với người bán hợp đồng tương lai, là người có nghĩa vụ bán hàng vào một ngày trong
tương lai, có thể mua lại hợp đồng trên thị trường tương lai, và điều này cũng làm cho
họ thoát khỏi nghĩa vụ bán hàng. Đặc trưng này giúp những người tham gia mua bán
công cụ tài chính phái sinh tránh được những thiệt hại kinh tế đáng kể nếu trong thời
hạn hợp đồng giá cả của tài sản cơ sở có sự biến động không có lợi cho mỗi bên.
Giống như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai cũng có rủi ro hai chiều, rủi ro tín
dụng, tức người sở hữu hợp đồng hoặc là người được nhận hoặc là người phải chi trả.
Thực trạng sử dụng các cctcps Nhóm 2
ở VN – liên hệ Đà Nẵng
-4-
Công cụ tài chính phái sinh GVHD: Ts. Đinh Bảo Ngọc
Nhưng khác biệt rõ nhất với thị trường kỳ hạn là thị trường tương lai sử dụng 2 công
cụ để loại bỏ rủi ro này.
Thứ 1, thay vì giao nhận giá trị hợp đồng vào 1 ngày thông qua mua bán đơn thuần
vào ngày đáo hạn, thay đổi trong giá trị hợp đồng tương lai được thực hiện thanh toán
vào cuối ngày giao dịch. Điều này có nghĩa hợp đồng tương lai có tính chất thanh toán
tiền mặt hay điều chỉnh theo ngày, tức thời hạn tương lai được rút ngắn lại. Nhờ thế
mà rủi ro trong thanh toán được giảm đi.
Thứ 2, hợp đồng tương lai yêu cầu tất cả các thành viên tham gia thị trường, người
bán và người mua đều như nhau, phải thực hiện một khoản ký gửi gọi là ký quỹ. Nếu
hợp đồng tương lai của bạn tăng giá trị trong ngày giao dịch, mức tăng này sẽ được
công vào tài khoản ký quỹ của bạn vào cuối ngày. Ngược lại, nếu hợp đồng của bạn
giảm giá trị, thua lỗ sẽ được trừ ra.Và nếu số dư tài khoản ký quỹ của bạn giảm xuống
mức tối thiểu đã thoả thuận trước đó, bạn sẽ bị yêu cầu nộp một khoản ký gửi bổ sung,
tài khoản ký quỹ của bạn phải được bổ sung như cũ hoặc là vị thế của bạn sẽ bị đóng.
Hợp đồng tương lai rất giống với một danh mục các hợp đồng kỳ hạn. Tuy nhiên,

2.4. Hợp đồng hoán đổi:
Là một hợp đồng trong đó hai bên đồng ý hoán đổi dòng tiền, một giao dịch mà cả
hai bên đồng ý thanh toán cho bên còn lại một chuỗi các dòng tiền trong một khoảng
thời gian xác định. Ví dụ, một bên đối tác đang nhận được một dòng tiền từ một
khoản đầu tư, nhưng lại thích một loại đầu tư khác với dòng tiền mà mình đang thị
hưởng. Bên đối tác này sẽ liên lạc với một dealer hoán đổi, thường là một công ty hoạt
động trên OTC, và họ sẽ thực hiện vị thế đối nghịch trong giao dịch. Tuỳ thuộc vào lãi
suất hay giá sau đó thay đổi như thế nào mà 1 bên sẽ thu được lợi nhuận hay là bị lỗ.
Lãi của bên này chính là lỗ của bên kia. Có 4 loại hoán đôỉ là hoán đổi tiền tệ, hoán
đổi lãi suất, hoán đổi chứng khoán và hoán đổi hàng hoá. Và cũng giống như hợp đồng
kỳ hạn, các hoán đổi cũng gánh chịu những rủi ro nếu một bên bị vỡ nợ. Hoán đổi
được xem như là kết hợp giữa các hợp đồng kỳ hạn. Nó là cải tiến tài chính mới nhất
nhưng về thực chất không phức tạp hơn một danh mục các hợp đồng kỳ hạn và rủi ro
tín dụng hiện diện trong hoán đổi cũng có phần thấp hơn so với rủi ro tín dụng của hợp
đồng kỳ hạn có cùng kỳ hạn.
II. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ TÀI CHÍNH PHÁI SINH Ở VIỆT
NA M.
1. Quá trình hình thành và phát triển của thị trường phái sinh Việt Nam.
Mặc dù trên thế giới các nghiệp vụ phái sinh để bảo hiểm rủi ro tỷ giá như kì hạn,
hoán đổi, tương lai, quyền chọn đã được sử dụng phổ biến từ rất lâu với doanh số hàng
ngày lên tới hàng trăm tỷ USD. Nhưng cho đến nay, ở Việt Nam các nghiệp vụ phái
sinh vẫn còn sơ khai, kém phát triển thể hiện ở doanh số giao dịch thấp, thậm chí ở
một số NHTM mặc dù đã triển khai nghiệp vụ quyền chọn nhưng không có giao dịch.
Chính vì vậy, việc ứng dụng các công cụ phái sinh nhằm bảo hiểm rủi ro tỷ giá tại Việt
Nam đang gặp nhiều khó khăn.
Nhiều ý kiến cho rằng, xuất phát điểm nền kinh tế lạc hậu chưa cho phép chúng ta
áp dụng các kỹ thuật tài chính hiện đại. Nói cách khác,thói quen và tập quán kinh
Thực trạng sử dụng các cctcps Nhóm 2
ở VN – liên hệ Đà Nẵng
-6-

xuất nhập khẩu và nhà đầu tư còn hạn chế.
Trong năm 2013 này, UBCK đang xây dựng một Nghị định hướng dẫn riêng về tổ
chức và giao dịch chứng khoán phái sinh để trình Chính phủ ban hành. Trên cơ sở
Nghị định, Sở GDCK Việt Nam và trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam (VSD) sẽ
xây dựng các Quy chế hướng dẫn về giao dịch và thanh toán, bù trừ.
Thực trạng sử dụng các cctcps Nhóm 2
ở VN – liên hệ Đà Nẵng
-7-
Công cụ tài chính phái sinh GVHD: Ts. Đinh Bảo Ngọc
UBCK cũng sẽ trình Bộ để bổ sung các quy định về tổ chức và hoạt động của các
đối tượng tham gia TTCK phái sinh, quy định về công bố thông tin, quy định về cấp
chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán phái sinh (CKPS), quy định về thuế, phí
trên thị trường CKPS để bảo đảm một hành lang pháp lý tương đối đầy đủ giúp cho
thị trường vận hành hiệu quả, ổn định.
Theo đó, việc triển khai xây dựng TTCK phái sinh được gắn với việc tái cấu mô
hình tổ chức thị trường theo đề án hợp nhất các Sở GDCK. Sàn giao dịch chứng khoán
phái sinh là một trong ba sàn giao dịch thuộc Sở GDCK Việt Nam theo mô hình tái
cấu trúc hai Sở GDCK hiện hành (HOSE và HNX) thành một Sở thống nhất.
Sàn giao dịch phái sinh vận hành song hành cùng sàn giao dịch cổ phiếu, sàn giao
dịch trái phiếu. Hệ thống giao dịch CKPS sẽ được tổ chức gần giống với hệ thống giao
dịch trên thị trường cổ phiếu, đó là hệ thống đấu giá khớp lệnh với các phiên giao dịch
khác nhau.
Trung tâm LKCK Việt Nam (VSD) vẫn là đơn vị tổ chức việc thanh toán bù trừ cho
các CKPS. Hệ thống thanh toán sẽ cần một Trung tâm TTBT (Clearing house) đóng
vai trò là đối tác trung tâm (CCP- Central counterparty) bên cạnh hệ thống đăng ký,
lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán hiện nay của VSD. Bộ phận TTBT với chức
năng CCP sẽ đóng vai trò là người bán của mọi người mua và người mua của mọi
người bán. Rủi ro thanh toán sẽ được đảm bảo bởi CCP sẽ là người chịu rủi ro cuối
cùng.
Điều này đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt về chủ trương trong Quyết định

vai trò trung gian chứng khoán có thể chỉ được thực hiện thông qua các CTCK.
2. Thực trạng thị trường phái sinh ở Việt Nam-liên hệ Đà Nẵng
2.1.Thực trạng sử dụng các công cụ phái sinh ở các ngân hàng thương mại.
Từ khi xuất hiện tới nay các NVPS tại Việt Nam phát triển rất khiêm tốn với
những chương trình thí điểm của NHNN. Nhiều NVPS đã dần được các ngân hàng
triển khai thực hiện. Hiện nay, các nghiệp vụ này đã có mặt tại nhiều NHTM Việt
Nam. Một số sản phẩm phái sinh phức tạp đã bắt đầu xuất hiện, tuy nhiên số lượng
còn rất hạn chế và hầu hết là do các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam thực hiện.
Bảng : Tổng hợp các nghiệp vụ phái sinh tại các NHTM Việt Nam
Ngân hàng Kì hạn Tương
lai
Quyền chọn Hoán đổi
Hối
đoái
Vàng Ngoại
tệ
Tiền
đồng
Tiền
vàng
Tiền
tệ
Lãi
suất
Vàng
Citibank X X
SCB X
BIDV X X X X X
VCB X X X X X X
HSBC X X X X

Thực trạng sử dụng các cctcps Nhóm 2
ở VN – liên hệ Đà Nẵng
-10-
Công cụ tài chính phái sinh GVHD: Ts. Đinh Bảo Ngọc
Tốc độ tăng trưởng doanh số giao dịch kỳ hạn trong 3 năm đầu không ổn định. Năm
1999, doanh số kỳ hạn chỉ đạt 425 tỷ VND giảm 5% so với 444,1 tỷ VND năm 1998.
Sang năm 2000, doanh số giao dịch kỳ hạn tăng vọt 139% so với năm 1999 (đạt
1.015,1 tỷ VND). Kể từ năm 2001, tốc độ tăng trưởng giao dịch kỳ hạn tương đối ổn
định. Tuy nhiên, mức tăng là không đáng kể. Ví dụ như trong năm 2008, doanh số
giao dịch kỳ hạn chỉ tăng 16% so với năm 2007 (năm 2008 đạt 3.428 tỷ VND, năm
2007 đạt 2.943 tỷ VND). Vì doanh số bán lớn hơn doanh số mua, nên nếu xét riêng
nghiệp vụ mua bán kỳ hạn, thì các NHTM luôn ở trạng thái ngoại tệ đoản, nghĩa là
chịu rủi ro tỷ giá khi tỷ giá tăng nhiều hơn so với dự kiến.Thị trường ngoại hối VN
luôn ở tình trạng khan hiếm ngoại tệ, buộc các đơn vị phải tìm cách mua kỳ hạn để
phòng khan hiếm ngoại tệ trên thị trường giao ngay. Vì thế, các NHTM bán kỳ hạn
cho doanh nghiệp nhiều mà mua vào lại ít.Tính tới thời điểm ngày 01/07/2010 nghiệp
vụ mua bán ngoại tệ kỳ hạn đã được triển khai thực hiện tại hầu hết các NHTM Việt
Nam. Có thể kể tới những ngân hàng lớn như Agribank, Eximbank, Techcombank,
VCB, BIDV, HSBC, Sacombank, Vietinbank, MB… Tại các ngân hàng, mua bán
ngoại tệ kỳ hạn được thực hiện qua hệ thống xử lý và hạch toán tự động. Khi thanh
toán, khách hàng chuyển khoản qua tài khoản Nostro tại ngân hàng nước ngoài hoặc
tại Sở Giao dịch NHNN. Giao dịch mua bán ngoại tệ kỳ hạn được thực hiện qua một
số hình thức như: Reuters, phone, fax Giao dịch mua bán với các định chế tài chính
chưa tham gia hệ thống giao dịch Reuters thực hiện bằng hợp đồng ký qua Fax, bản
gốc gửi qua EMS. Nghiệp vụ này thường do phòng kinh doanh ngoại tệ phụ trách.
Giao dịch kỳ hạn ngoại tệ được thực hiện với tất cả các ngoại tệ mạnh như USD,
EUR, CAD, GBP, JPY, SGD, AUD, HKD, CHF, CNY và các ngoại tệ chuyển đổi
khác theo nhu cầu của khách hàng.Việc triển khai thực hiện giao dịch ngoại tệ kỳ hạn
Thực trạng sử dụng các cctcps Nhóm 2
ở VN – liên hệ Đà Nẵng

Thực trạng sử dụng các cctcps Nhóm 2
ở VN – liên hệ Đà Nẵng
-12-
Công cụ tài chính phái sinh GVHD: Ts. Đinh Bảo Ngọc
Thời gian Tổng giá trị của hợp đồng kì
hạn tiền tệ
Tổng giá trị ghi sổ kê toán
Tài sản Công nợ
2008 2.344.288 101.164
2009 2.621.518 788 -
2010 535.016 - 1.358
2011 20.662.606 - 180.009
2012 7.066.341 - 95.353
Với giao dịch hối đoái kỳ hạn, Eximbank yêu cầu mức ký quỹ 3% giá trị hợp đồng
cho các giao dịch USD/VND; mức ký quỹ từ 7 – 10% giá trị hợp đồng cho các giao
dịch có loại ngoại tệ khác với giao dịch USD/VND. Bên cạnh kỳ hạn tiền tệ, nghiệp vụ
mua bán vàng kỳ hạn cũng đã xuất hiện tại các NHTM Việt Nam và đạt được những
bước tiến đáng kể. Một nghiệp vụ kỳ hạn khác là lãi suất kỳ hạn. Hợp đồng kỳ hạn
lãi suất cũng đã được Techcombank tiến hành và đã thu được những kết quả nhất định.
2.1.2 . Nghiệp vụ tương lai
Nghiệp vụ tương lai không được các NHTM Việt Nam sử dụng nhiều như các
CCPS khác trong mục đích phòng vệ. Chính vì vậy, giao dịch tương lai tài chính
không phát triển. Nghiệp vụ tương lai chủ yếu được thực hiện tại Việt Nam hiện nay
là các giao dịch tương lai hàng hóa mà các NHTM làm trung gian.Tháng 9/2004,
NHNN đã cho phép Techcombank thực hiện giao dịch hợp đồng tương lai trên thị
trường hàng hóa. Techcombank là ngân hàng Việt Nam đầu tiên cung cấp dịch vụ này
với mục đích hỗ trợ khách hàng trong việc quản trị rủi ro, hạn chế tối đa mức thua lỗ
có thể có, bảo đảm được lợi nhuận cũng như tiếp cận với các phương thức kinh doanh
hiện đại của các thị trường lớn trên thế giới. Đối tượng khách hàng của Techcombank
là các doanh nghiệp, hộ kinh doanh chuyên sản xuất, xuất khẩu hàng hóa (hàng nông

đồng quyền chọn là Sacombank, Techcombank, Vietinbank,…
a. Quyền chọn ngoại tệ
Theo công văn số 135/NHNN-QLNH, Eximbank là ngân hàng đầu tiên trong cả
nước được thực hiện thí điểm nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ. Sau
Eximbank, NHNN cũng cho phép 7 ngân hàng khác thực hiện thí điểm nghiệp vụ này,
gồm Citibank, HSBC, BIDV, ACB, VCB, ICB và Agribank. Tính đến tháng 6/2004,
chỉ có 50 hợp đồng quyền chọn được ký kết với doanh số thực hiện hơn 50 triệu USD
Thực trạng sử dụng các cctcps Nhóm 2
ở VN – liên hệ Đà Nẵng
-14-
Công cụ tài chính phái sinh GVHD: Ts. Đinh Bảo Ngọc
của Eximbank với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, còn 7 ngân hàng còn
lại không ký được hợp đồng nào. Từ 2004 đến 2007, mặc dù không còn giới hạn về
số lượng ngân hàng tham gia giao dịch quyền chọn ngoại tệ nhưng thực tế cho thấy
các hoạt động mua bán này chưa thực sự sôi động, chỉ tập trung vào chi nhánh các
ngân hàng nước nước ngoài như HSBC hay Citibank và một số ít ngân hàng Việt
Nam như Eximbank, Techcombank. Cho tới nay, các ngân hàng đều đã thực hiện
quyền chọn ngoại tệ với các đồng tiền tự do chuyển đổi như USD, CAD, JPY, CHF,
SGD, AUD, GBP, HKD. Các ngân hàng thường quy định quy mô tối thiểu hợp đồng
quyền chọn tương đương 100.000 USD (Techcombank, VCB, MB…).
Hình thức quyền chọn được quy định khác nhau tùy ngân hàng. Techcombank quy
định hình thức giao dịch quyền chọn kiểu Châu Âu, tức là hợp đồng chỉ được thực
hiện khi đến ngày đáo hạn, thời gian kết thúc giao dịch là 13h Hà Nội hoặc 15h Tokyo.
Nhưng với Eximbank thì chỉ nêu ra có hai loại quyền chọn kiểu Mỹ và quyền chọn
kiểu Châu Âu chứ không quy định khách hàng phải chọn loại nào.Tuy mới thực hiện
nhưng các ngân hàng đã đạt được những kết quả nhất định.
Bảng. Doanh số giao dịch quyền chọn ngoại tệ tại VCB- HCM
Năm Doanh số
quyền chọn
Tỉ lệ tăng (%) (%) quyền

triệu đồng. Các con số này khá giống với Eximbank. Nhìn chung các giao dịch quyền
chọn tiền tệ được các ngân hàng triển khai đã bắt đầu có những kết quả đáng ghi
nhận.
b. Quyền chọn tiền đồng :
Tháng 4/2005, NHNN cho phép thí điểm thực hiện các quyền chọn tiền đồng tại
BIDV, ACB, VIB. ACB, với mức tối đa giá trị hợp đồng là 10 triệu USD và mức tối
thiểu là 10.000 USD (quy đổi ngoại tệ khác tương đương mức này cho quyền chọn
giao dịch giữa các ngoại tệ khác và VND).Tính đến tháng 05/2008, đã có 7 ngân hàng
(ACB, Eximbank, BIDV, VIB Bank, VCB, GP bank) được phép thực hiện giao dịch
quyền chọn giữa ngoại tệ và VND.
Ngoài ra, quy mô giao dịch cũng tương đối khác ở các ngân hàng. Techcombank
quy định mức giao dịch tối thiểu của một hợp đồng quyền chọn ngoại tệ/VND là
100.000 USD quy đổi với mức giá thực hiện nhỏ hơn tỷ giá kỳ hạn. Eximbank quy
định mức giao dịch tối thiểu với cặp tiền tệ USD/VND là 10.000 USD, với các loại
ngoại tệ tự do chuyển đổi khác thì tối thiểu phải tương đương 100.000 USD. Mặc dù
được triển khai từ 2005 nhưng doanh số mua bán thực tế của các ngân hàng không
đáng kể, hầu hết các giao dịch đều được tiến hành theo kiểu Mỹ vì điều kiện thanh
toán linh hoạt hơn. Qua kết quả thăm dò, các ngân hàng như ACB, Techcombank,
BIDV, VIB dù là những ngân hàng tham gia các nghiệp vụ này từ rất sớm nhưng họ
chỉ mới thực hiện được một số hợp đồng với doanh số không đáng kể.Cùng với công
văn 1820/NHNN – QLNH của NHNN ngày 18/03/2009 thì nghiệp vụ quyền chọn
tiền đồng dừng thí điểm từ 23/03/2009. Như vậy, kể từ tháng 03/2009, số lượng các
ngân hàng có thực hiện nghiệp vụ quyền chọn còn giảm hơn nữa.
c.Quyền chọn vàng.
ACB là ngân hàng đầu tiên ra mắt quyền chọn vàng. Sau ACB, Techcombank, VIB,
Sacombank, VCB, Agribank, BIDV đã triển khai mạnh dịch vụ này.Quyền chọn vàng
tại ACB chủ yếu là các khách hàng cá nhân có nhu cầu phòng ngừa rủi ro biến động
Thực trạng sử dụng các cctcps Nhóm 2
ở VN – liên hệ Đà Nẵng
-16-

Bảng. Giao dịch hoán đổi ngoại tệ tại Eximbank
Thời gian 2008 2009 2010 2011 2012
Tổng giá trị của hợp
đồng
1.243.002 2.062.703 1.491.926 8.322.188 2.556.631
Tổng giá
trị ghi sổ
Tài sản - 3.334 18.206 22.869 7.674
Công nợ 47.928 - - - -
Thực trạng sử dụng các cctcps Nhóm 2
ở VN – liên hệ Đà Nẵng
-17-
Công cụ tài chính phái sinh GVHD: Ts. Đinh Bảo Ngọc
Nguồn : Thuyết minh báo cáo tài chính
Hoạt động hoán đổi tại BIDV khá phát triển. BIDV cung cấp các hợp đồng hoán đổi
lãi suất một đồng tiền và hoán đổi tiền tệ và là NHTM Việt Nam đầu tiên thực hiện
các giao dịch hoán đổi
tiền tệ chéo cho khách
hàng doanh nghiệp
trong nước.
Ta có thể thấy sự
phát triển trong nghiệp
vụ kinh doanh ngoại tệ
của BIDV trong những
năm vừa qua với sự
tăng trưởng ở cả
nghiệp vụ giao ngay và
phái sinh.Theo biểu đồ,
dịch vụ kinh doanh ngoại tệ
đạt kết quả cao đặc biệt trong

2.2 Thực trạng sử dụng các công cụ phái sinh ở các doanh nghiệp.
Việt nam ta với xuất phát điểm nền kinh tế lạc hậu chưa cho phép chúng áp dụng
các kỹ thuật tài chính hiện đại. Nói cách khác, thói quen và tập quán kinh doanh là
những cản trở lớn đối với quá trình phổ biến các Công cụ tài chính phái sinh ở Việt
Nam.Tìm hiểu về thực trạng sử dụng công cụ phái sinh ở Việt Nam cho thấy:
• Đối với những giao dịch phái sinh và công cụ cơ sở hàng hóa : Việt Nam đã có
một số mặt hàng nông sản chủ lực và có thế mạnh trong xuất khẩu có thể làm công cụ
cơ sở cho các sản phẩm phái sinh hàng hóa như cà phê, hồ tiêu, gạo…Năm 2007 mặt
hàng cà phê của Việt Nam được đưa vào giao dịch thử nghiệm tại sàn giao dịch hàng
hóa. Tuy nhiên tất cả chỉ mới dừng lại ở mức thử nghiệm.
• Đối với những công cụ cơ sở cho các CKPS tài chính : Hiện tại Việt Nam chưa
có các giao dịch phái sinh tài chính mà công cụ cơ sở là hàng hóa trên TTCK, nhưng
trên thực tế, các giao dịch phái sinh tài chính đã được thực hiện từ vài năm gần đây
trên thị trường Ngân hàng và kim loại qúy.
• Hiện nay công cụ phái sinh tại Việt Nam được ứng dụng phổ biến nhất để
phòng ngừa rủi ro tỷ giá trong kinh doanh xuất nhập khẩu. Chính vì vậy nhóm xin
trình bày chi tiết về thực trạng sử dụng công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro tỷ giá
đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam:
Trong thời gian qua, trước những biến động khó lường của thị trường tài chính
đặc biệt là sau hai cuộc khủng hoảng lớn - khủng hoảng tài chính châu Á 1997 và
khủng hoảng tài chính kinh tế toàn cầu 2008, các doanh nghiệp Việt Nam đã nhận
thức rõ những rủi ro mà doanh nghiệp gặp phải khi nền kinh tế nước nhà hội nhập
sâu vào nền kinh tế thế giới và đã chủ động tìm kiếm và xây dựng những biện pháp
riêng cho doanh nghiệp mình đối phó với những rủi ro mà đặc biệt là rủi ro tỷ giá.
Tìm hiểu về mức độ quan tâm của các doanh nghiệp về RRTG, biểu đồ sau sẽ cho
thấy một cách khái quát mức độ nhận thức của các DN về RRTG:
Thực trạng sử dụng các cctcps Nhóm 2
ở VN – liên hệ Đà Nẵng
-19-
Công cụ tài chính phái sinh GVHD: Ts. Đinh Bảo Ngọc

rủi ro tỷ giá hối đoán thì có 14 hơp đồng kỳ hạn, 5 hợp đồng giao ngay và 6 hợp đồng
hoán đổi được sử dụng.
Hình 2.9: Tình hình sử dụng các công cụ phái sinh trong phòng ngừa rủi ro tỷ giá
Nguồn: Công trình dự thi “Giải thưởng nghiên cứu khoa học sinh viên Nhà kinh tế trẻ 2011”
Như vậy, hợp đồng kỳ hạn được sử dụng nhiều nhất trong tất cả các công cụ phái
sinh. Một điều cần đáng chú ý là hợp đồng quyền chọn không doanh nghiệp nào sử
Thực trạng sử dụng các cctcps Nhóm 2
ở VN – liên hệ Đà Nẵng
-21-
Công cụ tài chính phái sinh GVHD: Ts. Đinh Bảo Ngọc
dụng. Đây là một công cụ rất tốt nhưng lại không được phép sử dụng của NHNN
qua thông tư số 1820/NHNN – QLNH đối với quyền chọn USD –VND. Vấn đề
này vẫn đang vấn đề tranh luận sôi nỗi của những bên liên quan.
Trong 19 công ty có sử dụng công cụ phái sinh thì số DN cho là khá thành công
với việc sử dụng công cụ phái sinh là nhiều nhất chiếm 31,58%, tiếp đến là lỗ ít
chiếm 26,32% cuối cùng là lỗ nặng và rất thành công với 2 công ty cho mỗi loại.
Sự quan tâm của các doanh nghiệp Việt Nam về vấn đề RRTG tuy có nhưng chưa
cao, còn một bộ phận lớn các DN thờ ơ với việc phòng ngừa loại rủi ro này. Ngoài ra,
các DN không mặn mà với việc sử dụng CCPS mà chỉ tập trung vào những phương
pháp truyền thống để phòng tránh RRTG. Một kết quả đáng chú ý khác là đa số các
DN với quy mô vừa và nhỏ nên cơ cấu tổ chức đơn giản, không có giám đốc tài chính,
hay không có một bộ phận chuyên thu thập và xử lý những thông tin tài chính có liên
quan đến biến động của tỷ giá, từ đó đề ra phương hướng giải quyết. Hơn nữa, đa số
các DN vẫn chưa có một chương trình quản trị rủi ro mang tính chiến lược, dài hạn và
xác lập mục tiêu rõ ràng.
2.3 Thực trạng sử dụng các công cụ phái sinh ở Đà Nẵng.
2.3.1. Mục tiêu khảo sát.
Qua tìm hiểu nhu cầu sử dụng các sản phẩm hối đoái phái sinh của các
doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng để giúp chúng ta có thể xác định nguyên
nhân vì sao sản phẩm hối đoái phái sinh chưa được doanh nghiệp sử dụng phổ biến.

Khác 8 6,6
Tổng 122 100
Do tỷ giá thuộc về yếu tố khách quan, ngân hàng chỉ là một chủ thể nhỏ trong nền
kinh tế nên không thể tác động đến được, do đó trên cơ sở giả định tỷ giá biến động
mạnh trong thời gian sắp tới, tác giả đã tiến hành khảo sát ý kiến của doanh nghiệp về
vấn đề: “Ngân hàng nên làm gì để tạo điều kiện cho doanh nghiệp sử dụng các sản
phẩm hối đoái phái sinh?”. Theo bảng 2 và 3 do doanh nghiệp không am hiểu
nhiều về lĩnh vực này, chính vì thế điều mà doanh nghiệp mong muốn nhất ở ngân
hàng là hãy nâng cao sự hiểu biết của chính họ.
Bảng 3: Điều mà doanh nghiệp muốn ngân hàng làm để tạo điều kiện cho họ sử
dụng các sản phẩm hối đoái phái sinh.
Giải pháp Số người Tỷ lệ (%)
Tổ chức hội thảo, hội nghị 59 48,4
Giảm mức ký quỹ/phí 10 8,2
Nhân viên ngân hàng tư vẫn 45 36,9
Khác 8 6,6
Tổng 122 100
Thực trạng sử dụng các cctcps Nhóm 2
ở VN – liên hệ Đà Nẵng
-23-
Công cụ tài chính phái sinh GVHD: Ts. Đinh Bảo Ngọc
Theo quan điểm Marketing, bí quyết chính giúp ngân hàng có thể gia tăng được lợi
nhuận chính là hiểu và thỏa mãn được những mong đợi của khách hàng. Do đó khi
thỏa mãn được những mong đợi trên thì nhu cầu về sản phẩm phái sinh là khá cao
(theo bảng 4).
Bảng 4: Nhu cầu về sản phẩm hối đoái phái sinh của doanh nghiệp
Ý kiến Số người Tỷ lệ (%)
Muốn sử dụng 79 64,8
Không muốn sử dụng 13 10,7
Chưa quyết định 30 24,5

tại. Trong khi đó việc dự đoán xu hướng giá trong tương lai có sác xuất đúng/sai nên
việc tham gia vào thị trường phái sinh có thể rơi vào trạng thái lãi hoặc lỗ. Với các
tổng công ty lớn thuộc khối DN Nhà nước, việc lỗ từ hoạt động giao dịch hợp đồng
tương lai có thể bị kết luận là lỗ do “đánh bạc” trên thị trường. Quan niệm này khiến
việc thuyết phục các tổng công ty lớn thuộc khối DN Nhà nước – đối tượng khách
hàng có nhu cầu quản lý rủi ro giá cả hàng hóa lớn tham gia vào thị trường phái sinh
có khả năng gặp khó khăn.
Thứ năm,Thị trường non trẻ, thiếu nhà đầu tư kinh nghiệm: Từ những bước phát
triển đầu tiên của SGD hàng hóa tại Việt Nam vào năm 2002 (SGD điều của Hiệp hội
điều Việt Nam ở TP.HCM và SGD thủy sản Cần Giờ của Công ty chế biến thủy sản
Cholimex), đến nay với bề dày gần 10 năm phát triển, so với thế giới, thị trường phái
sinh Việt Nam vẫn là một thị trường non trẻ và thiếu những nhà đầu tư kinh nghiệm.
Thứ sáu,Thị trường hàng hóa cơ sở chưa phát triển:Thị trường hàng hóa cơ sở phát
triển là nền tảng cho thị trường phái sinh. Tuy nhiên, dù là một nước có sản lượng
nông nghiệp dồi dào, nhưng thị trường hàng hóa cơ sở Việt Nam chưa thực sự phát
triển. Về phía cung: sản xuất nông nghiệp còn tự phát; về phía cầu: sản phẩm nông
nghiệp phần lớn được xuất khẩu và phụ thuộc rất nhiều vào giá trên thị trường thế giới.
Thứ bảy: Thói quen, tập quán kinh doanh chưa phù hợp với thông lệ giao dịch tập
trung trên sàn: Thói quen và tập quán kinh doanh là những cản trở lớn đối với việc
phát triển thị trường phái sinh tại Việt Nam. Việc triển khai chưa thực sự thành công
của SGD thủy sản Cần Giờ và SGD cà phê Buôn Mê Thuột có nguyên nhân chính do
nông dân quen với việc mua bán trực tiếp với thương lái hơn là qua sàn, chưa tiếp cận
được với máy tính, công nghệ thông tin.
Thứ tám, chi phí giao dịch có liên quan để mua/ bán/ giao dịch công cụ tài chính
phái sinh còn cao. Chi phí giao dịch bao gồm:
- Chi phí tìm kiếm thông tin;
- Chi phí thương lượng với đối tác;
- Chi phí để điều chỉnh trạng thái nhằm thích nghi với điều kiện mới của thị trường
và tài thương lượng;
- Chi phí phát sinh từ những yếu tố bất định và rủi ro về thông tin, thể chế


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status