luận văn thạc sỹ giáo dục học của Nguyễn Ngọc Nguyên - Pdf 19

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
 Nguyễn Ngọc Nguyên
THIẾT KẾ TÀI LIỆU TỰ HỌC
CÓ HƯỚNG DẪN THEO MOĐUN NHẰM
TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO
HỌC SINH GIỎI HÓA HỌC LỚP 11 THPT

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2010
THƯ
VIỆNLời cám ơn

các em không thể thi và học tại trường chuyên được. Do đó mỗi trường phổ thông ở từng vùng cũng
phải cần có lực lượng giáo viên giỏi có khả năng phát hiện học sinh năng khiếu và có biện pháp,
phương pháp để bồi dưỡng cho các em. Điều đó minh chứng bằng kết quả thi học sinh giỏi cấp tỉnh và
cấp quốc gia hàng năm đã có không ít các em học ở các trường THPT không chuyên đạt giải, thậm chí
còn đạt giải cao. Kết quả đó phần lớn là do năng lực tự học, tự nghiên cứu của các em rất tốt.
Sau một thời gian đổi mới phương pháp dạy và học, đặc biệt là việc tự học và học suốt đời, các
em học sinh, đặc biệt là những em học sinh giỏi, học sinh năng khiếu môn Hóa học đã đầu tư cho việc
tự học nhiều hơn. Tuy nhiên, lượng tài liệu và thông tin hiện nay là rất lớn và có nhiều quan điểm khác
nhau của nhiều tác giả nên các em rất lúng túng trong việc lựa chọn tài liệu đảm bảo tin cậy để tự học
và cho ôn thi học sinh giỏi.
Xuất phát từ những lý do nêu trên tôi đã chọn đề tài “Thiết kế tài liệu tự học có hướng dẫn
theo mođun nhằm tăng cường năng lực tự học cho học sinh giỏi hóa học lớp 11 THPT” để nghiên
cứu.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu xây dựng một số biện pháp nâng cao năng lực tự học cho học sinh phần
hidrocacbon lớp 11- THPT nhằm nâng cao chất lượng dạy và học cho học sinh giỏi hóa học ở các
trường THPT.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Việc thiết kế tài liệu tự học có hướng dẫn theo mođun nhằm tăng cường năng lực tự học cho học
sinh giỏi hóa học lớp 11 THPT
3.2. Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy học hoá học phần hidrocacbon lớp 11 chuyên, lớp chọn môn Hóa học ở các
trường THPT.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Nội dung: Trong khuôn khổ của đề tài này chúng tôi chỉ nghiên cứu, lựa chọn và phối hợp sử
dụng một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học hoá học chương hidrocacbon no và
chương hidrocacbon không no cho học sinh giỏi hóa học ở các trường THPT.
- Địa bàn: Học sinh giỏi Hóa học ở các lớp chuyên, chọn hóa học ở các trường:
+ THPT Đầm Dơi- Huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.

- Nghiên cứu kế hoạch học tập của học sinh giỏi hóa học của các lớp chuyên, lớp chọn trường
THPT.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
7.3. Nhóm các phương pháp thống kê toán học
8. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về nâng cao chất lượng dạy học và tổ chức tự học có hướng dẫn
theo mođun cho HSG hóa học của các lớp chuyên, lớp chọn trường THPT.
- Thiết kế tài liệu tự học có hướng dẫn theo mođun cho học sinh giỏi hóa học của các lớp
chuyên, lớp chọn trường THPT (chương “hidrocacbon no” và chương “hidro cacbon không no” lớp
11).
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

• Các nghiên cứu về bồi dưỡng HSG hóa học ở trường THPT
Đi theo hướng này đã có các công trình nghiên cứu sau:
- “
Bồi dưỡng học sinh giỏi Hoá học ở trường THPT”, Luận văn thạc sĩ của tác giả Vũ Anh Tuấn

năm 1998, trường ĐHSP Hà Nội.
- “
Hệ thống lý thuyết bài tập dung dịch chất điện ly dùng bồi dưỡng học sinh giỏi và học sinh
chuyên Hóa học
”,
Luận văn Thạc sĩ của tác giả Cao Cự Giác

năm 1999, trường


Xây dựng hệ thống lý thuyết, bài tập phần Hóa lý dùng trong bồi dưỡng học sinh giỏi, chuyên
hóa trường THPT
”,
Luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Thị Mỹ Trang năm 2009, ĐHSP TP Hồ Chí Minh.
- “Xây dựng hệ thống bài tập Hóa học nhằm rèn luyện tư duy trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi
Hóa học ở trường THPT”, Luận án tiến sĩ của tác giả Vũ Anh Tuấn năm 2006, trường ĐHSP Hà Nội.
• Các công trình nghiên cứu về thiết kế tài liệu tự học có hướng dẫn theo mođun
Đi theo hướng nghiên cứu này có các đề tài sau:
- “Nâng cao chất lượng thực hành thí nghiệm phương pháp dạy học Hoá học ở Trường ĐHSP
bằng phương pháp tự học có hướng dẫn theo môđun”, Luận văn thạc sĩ của tác giả Hoàng Thị Bắc năm
2002, trường ĐHSP Hà Nội.
- “ Nâng cao chất lượng dạy học phần Hoá hữu cơ (chuyên môn I) ở Trường CĐSP bằng
phương pháp tự học có hướng dẫn theo môđun”, Luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Hoàng Hà năm 2003,
trường ĐHSP Hà Nội.

- “ Nâng cao chất lượng dạy học phần Hoá vô cơ (chuyên môn I) ở Trường CĐSP bằng phương
pháp tự học có hướng dẫn theo môđun”, Luận văn thạc sĩ của tác giả Hoàng Thị Kiều Trang năm 2004,
trường ĐHSP Hà Nội.

- “Nâng cao năng lực tự học cho học sinh giỏi hoá học bằng tài liệu tự học có hướng dẫn theo
môđun (Chương Ancol-phenol và chương Anđehit-xeton)”, Luận văn thạc sĩ của tác giả Bùi Thị Tuyết
Mai năm 2008, trường ĐHSP Hà Nội.

- “Dùng bài toán tình huống mô phỏng rèn luyện kỹ năng thiết kế công nghệ bài nghiên cứu tài
liệu mới cho sinh viên khoa Hoá đại học sư phạm”, Luận án tiến sĩ của tác giả Đặng Thị Oanh năm
1995, trường ĐHSP Hà Nội.

-
“ Một số biện pháp bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh phần Hoá học đại cương THPT
nhằm nâng cao chất lượng dạy học cho học sinh giỏi hoá học”, Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Thị

Theo PGS Bùi Long Biên (ĐHBK Hà Nội) thì:" HSG hóa học phải là người nắm vững bản chất
hiện tượng hóa học, nắm vững các kiến thức cơ bản đã được học, vận dụng tối ưu các kiến thức cơ bản
đã được học để giải quyết một hay nhiều vấn đề mới (do chưa được học hoặc chưa thấy bao giờ) trong
các kì thi đưa ra". Còn theo PGS.TS. Trần Thành Huế thì:"Nếu dựa vào kết quả bài thi để đánh giá thì
bài thi đó phải hội tụ các yêu cầu:
- Có kiến thức cơ bản tốt, thể hiện nắm vững các khái niệm, các định nghĩa, các định luật hay
quy luật đã được quy định trong chương trình, không thể hiện thiếu sót về công thức, phương trình hóa
học. Số điểm phần này chiếm 50% toàn bài.
- Vận dụng sắc bén có sáng tạo các kiến thức cơ bản trên. Số điểm này là 40%.
- Tiếp thu ngay một số vấn đề mới nảy sinh do đề đưa ra. Số điểm phần này là 6%.
- Bài làm trình bày sạch đẹp, rõ ràng. Phần này chiếm 4% ”.
Chúng ta phải công nhận rằng, mỗi người có một cách học, một phương pháp học khác nhau;
không thể có một khuôn mẫu chung cho mọi người. Vấn đề mà có lẽ mọi người đều thống nhất là cần
phải có một lòng hăng say học tập cao độ và một ý chí vươn lên thật mạnh mẽ. Trong cách học, có lẽ
trước hết ta phải tìm cách nắm vững được kiến thức cơ bản. Có nghĩa là chúng ta phải lật đi lật lại vấn
đề với 3 câu hỏi lớn: "Đó là cái gì? Nó như thế nào? Tại sao lại như thế ?". Với ba câu hỏi ấy, bạn sẽ
tìm được cách tự học tốt nhất cho mình.
1.2.3. Những năng lực cần có để một HS trở thành HSG hoá học
Các em HSG, học sinh chuyên hoá là các học sinh có trí tuệ phát triển tương đối đặc biệt, đó
phải là học sinh hội tụ được các phẩm chất và năng lực sau:
- Có năng khiếu hoá học, biểu hiện ở chỗ:
+ Có kiến thức hoá học cơ bản vững vàng, sâu sắc, hệ thống (chính là nắm vững bản chất của
các hiện tượng hoá học).
+ Có khả năng nhận thức vấn đề nhanh, rõ ràng và năng lực tư duy hoá học (biết phân tích, tổng
hợp, so sánh, khái quát hoá cao, có khả năng sử dụng phương pháp phán đoán mới: qui nạp, diễn dịch,
loại suy...).
+ Có khả năng quan sát, nhận thức, nhận xét các hiện tượng tự nhiên, có khả năng vận dụng linh
hoạt, mềm dẻo, sáng tạo những kiến thức cơ bản vào những tình huống khác nhau. Có khả năng nhìn
nhận một vấn đề từ nhiều góc độ.
+ Biết tìm ra con đường hay nhất, ngắn nhất, độc đáo để đi đến đích và có khả năng diễn đạt

- Hình thành cho HS một kiến thức cơ bản, vững vàng, sâu sắc. Đó là lý thuyết chủ đạo, là các
định luật cơ bản, là các quy luật cơ bản của bộ môn. Hệ thống kiến thức phải phù hợp với logic khoa
học, logic nhận thức đáp ứng sự đòi hỏi phát triển nhận thức một cách hợp lý.
- Rèn luyện cho HS vận dụng lý thuyết chủ đạo, định luật, quy luật cơ bản của môn học một
cách linh hoạt, sáng tạo trên cơ sở bản chất hoá học của sự vật, hiện tượng.
- Rèn luyện cho HS dựa trên bản chất hoá học, kết hợp với kiến thức các môn học khác chọn hướng giải
quyết vấn đề một cách logic và gọn gàng.
- Rèn luyện cho HS biết phán đoán (quy nạp, diễn dịch…) một cách độc đáo, sáng tạo giúp cho
HS hoàn thành bài làm nhanh hơn, ngắn gọn hơn.
- Huấn luyện cho HS biết tự đọc và có kỹ năng đọc sách, tài liệu (Xem mục lục, chọn nội dung cần
đọc, ghi nhớ những phần trọng tâm… và đọc đi đọc lại nhiều lần), với HSG đọc càng nhiều mới tăng
lượng chất trong vốn kiến thức của mình.
- Người giáo viên bộ môn phải thường xuyên sưu tầm tích luỹ tài liệu bộ môn, cập nhật hoá tài
liệu hướng dẫn HS tự học, tự nghiên cứu và xem đó là biện pháp không thể thiếu được trong việc bồi
dưỡng HSG.
1.2.5. Thực trạng về bồi dưỡng HSG hóa học hiện nay ở các trường THPT
Để góp phần nâng cao chất lượng dạy - học môn Hóa học ở trường THPT cũng như tăng cường
hiệu quả của việc bồi dưỡng HSG hóa học bằng tài liệu tự học nói chung và phần hidro cacbon nói
riêng. Chúng tôi đã tham khảo ý kiến của 85 thầy cô giáo dạy môn Hóa học ở các trường THPT tỉnh Cà
Mau và các học viên lớp cao học LL & PPDH Hóa học- K
19
Trường ĐHSP TP Hồ Chí Minh bằng
phiếu thăm dò (xem phụ lục 1) về một số vấn đề và thu được kết quả như sau:
1.2.5.1. Vấn đề tự học của HSG
Khi bồi dưỡng HSG, để đạt hiệu quả cao thì theo thầy cô, yếu tố tự học tự nghiên cứu thêm của học
sinh là:
(Chúng tôi đã đưa ra 5 câu trả lời về mức độ và thu được kết quả trong bảng tổng hợp dưới đây).
Bảng 1.1: Kết quả điều tra giáo viên về vấn đề tự học của HSG
Rất cần thiết Cần thiết Có hay không
cũng được

Khi soạn tài liệu để dạy HSG nói chung và chuyên đề hidro cacbon nói riêng, thầy cô thường
tham khảo tài liệu lấy từ những nguồn nào? Mức độ sử dụng thế nào? (Chúng tôi đã đưa ra các câu trả
lời ứng với các mức độ và thu được kết quả trong bảng dưới đây).
Bảng 1.3: Kết quả điều tra về nguồn tài liệu tham khảo Ý kiến
Các mức độ
Rất thường
xuyên
Thường
xuyên
Trung bình Ít Không
Số
lượng
% Số
lượng
% Số
lượng
% Số
lượng
% Số
lượng
%
Mạng internet 70 82.4 10 11.8 5 5.9 0 0 0 0
Tạp chí 30 35.3 35 41.2 10 11.8 5 5.9 5 5.9
Sách tham khảo 30 35.3 50 58.8 5 5.9 0 0 0 0
Biến đổi 25 29.4 40 47.1 15 17.6 5 5.9 0 0
Tự xây dựng 0 0 16 18.8 17 20 50 58.8 0 0
Kết quả điều tra cho thấy đa số giáo viên dạy hóa học rất chú trọng đầu tư và cập nhật kiến thức để

cho bài tập
49 57.6 31 36.5 5 5.9 0 0 0 0
Giảng lý thuyết,
giới thiệu sách
33 38.8 23 27.1 21 24.7 5 5.9 3 3.5
Giảng lý thuyết,
giới thiệu sách,
giao nhiệm vụ

31

36.5

30

35.3

22

25.9

2

2.4

0

0
Giảng lý thuyết,
giới thiệu sách có

42
49

Kết quả thực sự phản ánh phương pháp truyền thống trong bồi dưỡng HSG đã tồn tại lâu nay. Các
cách trên đều có thể đạt được hiệu quả nhất định với HS có tố chất tốt. Nếu kết hợp tất cả các cách trên
lại thì kết quả cũng khá tốt. Tuy nhiên theo chúng tôi, nếu giáo viên soạn sẵn thêm tài liệu có yêu cầu
rõ ràng, ngắn gọn, súc tích để HSG chuẩn bị trước ở nhà thì hiệu quả sẽ tăng lên đáng kể. Nếu làm
được vậy thì ở trên lớp hoạt động của HS sẽ đóng vai trò chủ đạo còn giáo viên sẽ đỡ phải thuyết trình
tất cả nội dung tài liệu mới. Đây chính là ý tưởng của đề tài.
1.2.5.5. Về những khó khăn khi bồi dưỡng HSG
Những khó khăn khi bồi dưỡng HSG hóa học nói chung (phần hidro cacbon nói riêng) của giáo
viên các trường THPT thường gặp hiện nay là:
(Chúng tôi đã đưa ra hệ thống các câu trả lời và thu được kết quả trong bảng tổng hợp dưới đây).
Bảng 1.5: Những khó khăn khi bồi dưỡng HSG

Ý kiến
Đồng ý Không đồng ý
Số
lượng
% Số
lượng
%
Tài liệu tham khảo còn ít 29 34.1 56 65.9
Thời gian của chương trình còn hạn chế 67 78.8 18 21.2
Chính sách cho HSG chưa hấp dẫn 78 91.8 7 8.2
GV gặp khó khăn khi soạn giáo án dạy HSG 28 32.9 57 67.1
Thấy khó có giải khi thi HSG nên ngại tìm tòi 14 16.5 71 83.5
Kiến thức thi HSG là quá rộng và khó 59 69.4 26 30.6
Kinh phí dành cho bồi dưỡng HSG thấp 42 49.4 43 50.6
GV chưa sử dụng thành thạo các loại bài tập khó 9 10.6 76 89.4

1.3.2. Khái niệm tự học
Tự học là hoạt động học không có sự hiện diện của GV, HS không có sự tiếp xúc trực tiếp với
GV, là hình thức học tập hoàn toàn không có sự tương tác trực tiếp thầy trò, do đó HS phải tự lực thông
qua tài liệu, qua hoạt động thực tế, qua thí nghiệm để chiếm lĩnh kiến thức.
1.3.3. Các hình thức tự học [30]
1.3.3.1. Tự học không có sự hướng dẫn trực tiếp của GV
a. Tự học hoàn toàn (không có GV): thông qua tài liệu, qua tìm hiểu thực tế, học kinh nghiệm
của người khác. HS gặp nhiều khó khăn do có nhiều lỗ hổng kiến thức, HS khó thu xếp tiến độ, kế
hoạch tự học, không tự đánh giá được kết quả tự học của mình... Từ đó HS dễ chán nản và không tiếp
tục tự học.
b. Tự học trong một giai đoạn của quá trình học tập: thí dụ như học bài hay làm bài tập ở nhà
(khâu vận dụng kiến thức) là công việc thường xuyên của HS phổ thông. Để giúp HS có thể tự học ở
nhà, GV cần tăng cường kiểm tra, đánh giá kết quả học bài, làm bài tập ở nhà của họ.
c. Tự học qua phương tiện truyền thông (học từ xa): HS được nghe GV giảng giải minh họa,
nhưng không được tiếp xúc với GV, không được hỏi han, không nhận được sự giúp đỡ khi gặp khó
khăn. Với hình thức tự học này, HS cũng không đánh giá được kết quả học tập của mình.
d. Tự học qua tài liệu hướng dẫn: Trong tài liệu trình bày cả nội dung, cách xây dựng kiến
thức, cách kiểm tra kết quả sau mỗi phần, nếu chưa đạt thì chỉ dẫn cách tra cứu, bổ sung, làm lại cho
đến khi đạt được (thí dụ học theo các phần mềm trên máy tính). Song nếu chỉ dùng tài liệu tự học HS
cũng có thể gặp khó khăn và không biết hỏi ai.
e. Tự lực thực hiện một số hoạt động học dưới sự hướng dẫn chặt chẽ của GV ở lớp: Với hình
thức này cũng đem lại kết quả nhất định. Song nếu HS vẫn sử dụng SGK hóa học như hiện nay thì họ
cũng gặp khó khăn khi tiến hành tự học vì thiếu sự hướng dẫn về phương pháp học.
Qua việc nghiên cứu các hình thức tự học ở trên chúng ta thấy rằng mỗi hình thức tự học có
những mặt ưu điểm và nhược điểm nhất định. Để nhằm khắc phục được những nhược điểm của các
hình thức tự học đã có này và xét đặc điểm của HSG hoá học chúng tôi đề xuất một hình thức tự học
mới: tự học theo tài liệu hướng dẫn và có sự giúp đỡ trực tiếp một phần của GV gọi tắt là "tự học có
hướng dẫn".
1.3.3.2. Tự học có hướng dẫn
Tự học là một hình thức học. Vậy hoạt động tự học cũng phải có mục đích, nội dung và phương

cần thiết để hoàn thành từng công việc, biết tự kiểm tra, tự đánh giá kết quả hoạt động tự học của chính
mình.
Như vậy khái niệm tự học ở đây được hiểu là hoạt động tự lực của HS để chiếm lĩnh tri thức
khoa học đã được qui định thành kiến thức học tập trong chương trình và SGK với sự hướng dẫn trực
tiếp hoặc gián tiếp của GV thông qua các phương tiện học tập như tài liệu tự học có hướng dẫn, tài liệu
tra cứu, giáo án điện tử,...
HS không dùng SGK phổ thông mà sử dụng tài liệu viết riêng cho họ tự học. Tài liệu tự học có
hướng dẫn cung cấp cho HS nội dung kiến thức và phương pháp học nội dung kiến thức đó.
1.3.4. Năng lực tự học
1.3.4.1. Khái niệm năng lực tự học
Năng lực tự học là năng lực hết sức quan trọng vì tự học là chìa khoá tiến vào thế kỉ XXI, một
thế kỉ với quan niệm học suốt đời, xã hội học tập. Có năng lực tự học mới có thể học suốt đời được. Vì
vậy, quan trọng nhất đối với HS là học cách học. Năng lực tự học là khả năng tự mình tìm tòi, nhận
thức và vận dụng kiến thức vào tình huống mới hoặc tương tự với chất lượng cao. Để bồi dưỡng cho
HS năng lực tự học, tự nghiên cứu, cần phải xác định được các năng lực và trong quá trình dạy học,
GV cần hướng dẫn và tạo các cơ hội, điều kiện thuận lợi cho HS hoạt động nhằm phát triển các năng
lực đó.
1.3.4.2. Các năng lực tự học cần bồi dưỡng và phát triển cho HS [30]
- Năng lực nhận biết, tìm tòi và phát hiện vấn đề
Trong dạy học truyền thống, theo kiểu “bình quân - đồng loạt”, HS được “ru êm” bằng những
bài thuyết trình của giáo viên suốt từ học kì này sang học kì khác của năm học. HS ít khi được phát
hiện vấn đề mới, mà thường lặp lại hoặc phát hiện lại vấn đề đã được GV đưa ra. Kiểu học như vậy kéo
dài góp phần làm thui chột khả năng tự tìm kiếm, tự phát hiện của HS, trái với quan niệm về việc học
“là sự biến đổi bản thân mình trở nên có thêm giá trị, bằng nỗ lực của chính mình để chiếm lĩnh những
giá trị mới lấy từ bên ngoài” là “một hành trình nội tại, được cắm mốc bởi kiến thức, phương pháp tư
duy và sự thực hiện tự phê bình, để tự hiểu bản thân mình” (Jacques Delors-Learing: The Treasure
Within, UNESCO, Pari 1996).
Năng lực nhận biết, tìm tòi, phát hiện vấn đề hết sức quan trọng đối với mọi người, đặc biệt
HSG. Nhờ năng lực này HS vừa tự làm giàu kiến thức của mình, vừa rèn luyện tư duy và thói quen
phát hiện, tìm tòi,…

trong lúc giải quyết vấn đề, nên HS có thể đi chệch ra khỏi vấn đề chính đang giải quyết hoặc lạc với
mục tiêu đề ra ban đầu. Vì vậy hướng dẫn cho HS kĩ thuật xác định kết luận đúng không kém phần
quan trọng so với các kĩ thuật phát hiện và giải quyết vấn đề. Các quyết định phải được dựa trên logic
của quá trình giải quyết vấn đề và nhắm đúng mục tiêu.
- Năng lực vận dụng kiến thức vào thực tiễn (hoặc vào nhận thức kiến thức mới)
Kết quả cuối cùng của việc học tập phải được thể hiện ở chính ngay trong thực tiễn cuộc sống,
hoặc là HS vận dụng kiến thức đã học để nhận thức, cải tạo thực tiễn, hoặc trên cơ sở kiến thức và
phương pháp đã có, nghiên cứu, khám phá, thu nhận thêm kiến thức mới. Cả hai đều đòi hỏi người học
phải có năng lực vận dụng kiến thức.
Việc vận dụng kiến thức vào thực tiễn, đặc biệt trong các trường hợp mới, lại làm xuất hiện các vấn
đề đòi hỏi phải giải quyết. Như vậy kĩ năng giải quyết vấn đề lại có cơ hội để rèn luyện và kết quả của
việc giải quyết vấn đề giúp cho người học thâm nhập sâu hơn vào thực tiễn. Từ đó hứng thú học tập,
niềm say mê và khao khát được tìm tòi, khám phá, áp dụng kiến thức và kinh nghiệm tăng lên, các
động cơ học tập đúng đắn càng được bồi dưỡng vững chắc. Giải quyết các vấn đề thực tiễn mới làm
nảy sinh nhu cầu nghiên cứu tài liệu, trao đổi, hợp tác với bạn bè, đồng nghiệp. Các kĩ năng về giao
tiếp, cộng tác, huy động nguồn lực được rèn luyện. Kết quả của hoạt động thực tiễn vừa làm giàu thêm
tri thức, vừa soi sáng, giải thích, làm rõ thêm các kiến thức được học từ SGK, tài liệu. HS thấy tự tin,
chủ động hơn, đồng thời họ lại phải có thái độ dám chịu trách nhiệm về các quyết định mình đã lựa
chọn và có kĩ năng lập luận, bảo vệ các quyết định của mình.

- Năng lực đánh giá và tự đánh giá
Dạy học đề cao vai trò tự chủ của HS (hay tập trung vào người học), đòi hỏi phải tạo điều kiện, cơ
hội và khuyến khích (thậm chí bắt buộc) HS đánh giá và tự đánh giá mình. Chỉ có như vậy, họ mới
dám suy nghĩ, dám chịu trách nhiệm và luôn luôn tìm tòi sáng tạo, tìm ra cái mới, cái hợp lí, cái có hiệu
quả hơn.
Mặt khác, kết quả tất yếu của việc rèn luyện các kĩ năng phát hiện và giải quyết vấn đề, kết luận
và áp dụng kết quả của qui trình giải quyết vấn đề đòi hỏi HS phải luôn đánh giá và tự đánh giá. HS
phải biết được mặt mạnh, hạn chế của mình, cái đúng sai trong việc mình làm mới có thể tiếp tục vững
bước tiếp trên con đường học tập chủ động của mình. Không có khả năng đánh giá, HS khó có thể tự
tin trong phát hiện, giải quyết vấn đề và áp dụng kiến thức đã học.
Bảng 1.6: Kết quả điều tra về về vai trò của tự học đối với các kỳ thi
Rất cần thiết Cần thiết Có hay không
cũng được
Không cần
thiết
Hoàn toàn không
cần thiết
Số lượng 261 23 0 0 0
% 91.9 8.1 0 0 0

Kết quả trên chứng tỏ tất cả các em đã ý thức tốt được vai trò của tự học.
+ Về lí do các em cần phải tự học ở nhà: Lý do các em HSG cần phải tự học ở theo các em là vì:
(chúng tôi đã đưa ra các câu trả lời và thu được kết quả trong bảng dưới đây)
Bảng 1.7: Lý do HS cần phải học phần hidro cacbon ở nhà
Ý kiến Lựa chọn
Số lượng %
Giúp HS hiểu bài trên lớp sâu sắc hơn 225 79.2
Giúp HS nhớ bài lâu hơn 209 73.6
Phát huy tính tích cực của HS 189 66.5
Kích thích hứng thú tìm tòi nâng cao mở rộng kiến thức 202 71.1
Tập thói quen tự học và tự nghiên cứu suốt đời 191 67.3
Rèn luyện thêm khả năng suy luận logic 185 65.1
Nội dung phần hidro cacbon thường đề cập trong các kì thi 169 59.5
Lí do khác... 0 0
Kết quả trên chứng tỏ đa phần các em đã biết rõ tác dụng của việc tự học.
1.3.6.2. Về vấn đề học tập của HS ở các lớp 11 chuyên, chọn hóa học
(Chúng tôi đã đưa ra các câu trả lời và thu được kết quả trong bảng dưới đây).
Bảng 1.8: Kết quả điều tra về việc tự học ở nhà của HSG hóa học

1.3.6.4. Về điều kiện, khó khăn trong việc tự học
(Chúng tôi đã đưa ra các câu trả lời và thu được kết quả trong bảng dưới đây).
Bảng 1.10: Những khó khăn trong việc tự học của HSG Hóa học
Ý kiến Lựa chọn
Số lượng %
Thiếu tài liệu học tập, tham khảo 87 30.6
Thiếu sự hướng dẫn cụ thể cho việc học tập 203 71.5
Kiến thức rộng khó bao quát 69 24.3

Các số liệu điều tra cho thấy HS ở các trường THPT chuyên và không chuyên hiện nay đang
khó khăn trong việc tự học, các điều kiện cho học tập đã đáp ứng như không thiếu tài liệu để học tập,
tham khảo, nhưng các em lại không biết phương pháp tự học có hiệu quả. Theo chúng tôi tài liệu học
tập, tham khảo hiện nay không thiếu mà chính là thiếu tài liệu, văn bản cụ thể của bài học HS cần. Tức
là HS muốn tài liệu để sử dụng ngay chứ không muốn phân tích, tổng hợp từ nhiều tài liệu khác. Hiện
nay có rất nhiều loại sách, tài liệu tham khảo đang lưu hành trên thị trường, cùng với sự phổ biến rộng
rãi của mạng Internet đã tạo ra cho các em một nguồn cung cấp tài liệu khổng lồ. Nhưng cũng chính
"biển" tài liệu to lớn như vậy lại gây khó khăn rất nhiều cho các em trong việc phải tìm, lựa chọn, phân
loại sách để đọc, để nghiên cứu. Bên cạnh đó là vấn đề các em cần tự học - tự đọc như thế nào để với
các tài liệu đã có để đạt được hiệu quả học tập cao. Đó chính là điểm yếu của đa số HS trong học tập,
tự học hiện nay mà GV cần quan tâm để định hướng cách dạy, cách học ở các trường THPT. Qua kết
quả điều tra này cho thấy HS đang cần có sự hướng dẫn, giúp đỡ trong học tập, đó chính là học cái gì,
học như thế nào, làm thế nào để đạt được kiến thức mình muốn có trước khối lượng kiến thức rất lớn,
nhiều nguồn thông tin. Như vậy, GV cần có tài liệu, văn bản giúp cho HS cách thực hiện để lĩnh hội
kiến thức cho mình. Nói khác là GV dạy cho HS cách học để HS tự học, tự thu thập kiến thức chủ động
hơn.
1.3.6.5. Về tác động đến kết quả học tập
(Chúng tôi đã đưa ra các câu trả lời và thu được kết quả trong bảng dưới đây).
Bảng 1.11: Kết quả điều tra về những tác động đến kết quả học tập
Ý kiến Lựa chọn
Số lượng %

Sử dụng khi nghiên cứu bài, làm bài tập 59 20.8
Sử dụng thường xuyên như là giải trí 96 33.8
Chưa sử dụng nhiều hoặc có sử dụng khi cần 129 45.4

Thực tế số liệu này cho thấy HS THPT nói chung và HSG nói riêng hiện nay có khả năng sử
dụng tốt các ứng dụng của công nghệ thông tin cho mục đích khác nhau. Trong học tập, nếu được giao
việc, yêu cầu thực hiện thì HS mới học tập tích cực. Như vậy chúng ta cần khai thác lĩnh vực này bằng
tài liệu tự học điện tử để HS sử dụng phương tiện điện tử, thu thập thông tin cho học tập. Từ đó mà HS
có được nguồn tư liệu phong phú, sinh động để phối hợp tài liệu tự học hướng dẫn mà tổ chức việc học
bài, nắm kiến thức tốt hơn.
Nhìn chung phần đông HS ở các lớp chuyên chọn chưa có cách học tốt nên hoặc là mất nhiều
thời gian hoặc học qua loa nên kết quả học tập đạt được thấp. Việc tự học của HS chủ yếu là học thuộc
lại bài trên lớp, nên kiến thức tích lũy được là hạn chế và kém bền, thụ động và thiếu tự tin trong học
tập.
Phân tích kết quả điều tra
Các số liệu điều tra cho thấy HS ở các lớp 11 chuyên chọn hóa học xác định đúng vị trí về tự
học khi học ở các trường THPT.
Các lý do về điều kiện học tập như thiếu tài liệu, thời gian học và cách thức học tập ở trường
THPT được coi là yếu tố ảnh hưởng đến tự học, đến kết quả học tập của HS. Tuy nhiên, theo chúng tôi
nguyên nhân chính vẫn là cách tự học của HS và nguồn gốc của nó có thể là:
- Cách dạy học ở trường phổ thông đã tạo nên cách học lệ thuộc vào thầy, HS thiếu tính chủ
động trong học tập nên kết quả không cao.
- HS cho là thiếu sự hướng dẫn cho việc học tập, tài liệu rộng, khó bao quát. Thực tế do không
có hướng dẫn của GV hay tài liệu học tập, mặt khác khả năng thu thập, xử lý các thông tin cho học tập
của HS còn yếu, không biết tổng hợp thành các nội dung cơ bản của bài học mà chỉ liệt kê chung chung
theo SGK, không biết phân tích để vận dụng nên chỉ nắm lý thuyết theo SGK, thiếu luyện tập để củng
cố và rèn luyện kỹ năng.
- Các GV dạy ở các trường THPT đã thực hiện đổi mới PPDH theo hướng tăng cường tự học
của HS như giao bài cho HS chuẩn bị nhưng chưa hướng dẫn cách học nên HS lúng túng trong việc tự
học kiến thức mới hoặc khi vận dụng kiến thức đã học ở các bài tập khó.

Hình 1.1: Cấu trúc của mođun dạy học.
* Hệ vào
Hệ vào của mođun gồm:
- Tên gọi hay tiêu đề của mođun.
- Giới thiệu vị trí, tầm quan trọng và lợi ích của việc học theo mođun.
- Nêu rõ các kiến thức, kỹ năng cần có trước.
- Hệ thống mục tiêu của mođun.
- Test vào mođun.
* Thân mođun
Là bộ phận chủ yếu của mođun. Nó chứa đựng đầy đủ nội dung dạy học được trình bày theo một
cấu trúc rõ ràng kèm theo những hướng dẫn cần thiết về phương pháp học tập giúp cho người học tự
lực chiếm lĩnh được nội dung và hình thành được phương pháp tự học. Thân mođun gồm một loạt
những tiểu mođun kế tiếp nhau.
Mỗi tiểu mođun gồm 3 phần:
- Phần mở đầu (giống hệ vào của mođun).
- Phần nội dung và phương pháp học tập.
- Test trung gian.
* Hệ ra
Hệ ra của mođun gồm:
- Một bản tổng kết chung.
- Một bản test kết thúc.
- Hệ thống chỉ dẫn để tiếp tục học tập tuỳ theo kết quả tự học mođun của người học. Nếu người
học đã đạt tất cả các mục tiêu của mođun thì chuyển sang mođun tiếp theo. Nếu không qua được phần
lớn các test kết thúc thì chỉ phải học lại những tiểu mođun bổ trợ mà thôi.
Thông thường để việc dạy học theo mođun được thuận lợi cần phải có một số công cụ kèm theo
như:


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status