luận văn thạc sỹ giáo dục học - Pdf 19

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Thái Hải Hà Chuyên ngành : Lý luận và phương pháp dạy học hóa học
Mã số : 60 14 10

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

NGƯỜ I HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN PHÚ TUẤN

tốt nhất về tinh thần, về vật chất, về thời gian… luôn bên tôi trong suốt
quã
ng thời gian tôi thực hiện ước mơ của mình.

Một lần nữa, tôi xin được gởi lời tri ân đến tất cả mọi người. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Bài tập hóa học : BTHH
Bảng tuần hoàn : BTH
Công thức cấu tạo : CTCT
Công thức electron : CT e
Điện tích hạt nhân : ĐTHN
Đối chứng : ĐC
Giáo viên : GV
Học sinh : HS
Nơtron : n
Phản ứng hóa học : PƯHH
Phương trình hóa học : PTHH
Proton : p
Sách bài tập : SBT
Sách giáo khoa : SGK
Thực nghiệm : TN
Trắc nghiệm khách quan : TNKQ
Trung học cơ sở : THCS
Trung học phổ thông : THPT
- Nghiên cứu lý luận về Phương pháp dạy học.
- Tìm hiểu thực trạng việc dạy học hóa học ở trường THPT.
- Đề xuất việc áp dụng một số phương pháp dạy học tích cực trong dạy học
hóa học.
- Xây dựng một số bài giảng hóa học lớp 10 – chương 1, 2, 3, 4 - theo định
hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh.
- Thực nghiệm sư phạm để xác định hiệu quả và tính khả thi của đề tài.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Phương pháp dạy học hóa học theo định hướng tích
cực hóa hoạt động của học sinh.

- Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học hóa học ở trường THPT.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu phương pháp dạy học hóa học lớp 10 trong các bài học về khái
niệm, định luật, học thuyết hóa học cơ bản, trong các bài tập, luyện tập và ôn
tập – chương 1, 2, 3, 4.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu dạy học hóa học theo định hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh thì
sẽ nâng cao đư
ợc chất lượng dạy học hóa học ở trường THPT.
7. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu cơ sở khoa học của đề tài, các phương pháp
dạy học truyền thống và hiện đại, xu hướng đổi mới phương pháp dạy học trên thế
giới và trong nước, các định hướng đổi mới phương pháp dạy học ở nước ta hiện
nay, các tài liệu khác liên quan đến đề tài,…
-
Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu.
- Các phương pháp điều tra cơ bản: thu thập thông tin bằng phiếu hỏi, quan sát,
phỏng vấn, dự giờ, …
- Phương pháp chuyên gia.

dục thay đổi. Để đáp ứng được sự thay đổi đó người giáo viên buộc phải thay đổi
phương pháp dạy học, từ đó hình thành các thế hệ phương pháp dạy học như sơ đồ
1.1 của tác giả Đặng Thành Hưng: [15, tr.36]

Thầy Trò

Như vậy, hoạt động của trò ngày càng tích cực, chủ động hơn. Đã có nhiều tác
giả viết và nghiên cứu về các phương pháp dạy học để giúp học sinh đạt được mục
đích trên như Nguyễn Ngọc Quang, Nguyễn Cương, … và một số luận án tiến sĩ,
luận văn thạc sĩ gần đây:
- Xây dựng hệ thống bài tập nâ
ng cao về hợp chất hữu cơ có nhóm chức
nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong dạy học hoá học
ở trường THPT - Nguyễn Thị Hà - ĐHSPHN, 2005 – Luận văn thạc sĩ.
- Nghiên cứu các biện phá
p nâng cao chất lượng bài lên lớp hoá học ở
trường trung học phổ thông - Lê Trọng Tín - ĐHSPHN, 2002 - Luận án tiến sĩ.
- Sử dụng phương pháp dạy học tích cực và phương tiện kỹ th
uật dạy học
để nâng cao chất lượng bài lên lớp hoá học ở trường trung học phổ thông Hà Nội -
Trần Thị Thu Huệ - ĐHSPHN, 2002 - Luận văn thạc sĩ.
- Sử dụng thí nghiệm và các phương tiện kỹ thuật dạy học để nâng cao tính
tích cực, chủ động của học sinh trong học tập hoá
học lớp 10, lớp 11 trường trung

Khái niệm
1.2.1.1. Phương pháp
Phương pháp là một khái niệm rất trừu tượng, có nhiều cách hiểu khác
nhau. Một trong số các khái niệm về phương pháp là: Phương pháp là cách thức,
con đường, phương tiện, là tổ hợp các bước mà chủ thể phải đi theo để đạt được
mục đích.[2, tr.5]
1.2.1.2. Phương pháp dạy học [19, tr.5]
Có nhiều khái niệm về phương pháp dạy học, ở đây chỉ nêu khái niệm
phương pháp dạy học của I.Lecne (một chuyên gia nổi tiếng về lý luận dạy học của
Liên Xô), khái niệm này khá phù hợp với việc đổi mới phương phá
p dạy học theo
định hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh:
“Phương pháp dạy học là một hệ thống tác động liên tục của giáo viên
nhằm tổ chức hoạt động nhận thức và thực hành của học sinh, để học sinh lĩnh hội
vững chắc các thành phần của nội dung giáo dục nhằm đạt được mục tiêu đã định.”
Như vậy,
phương pháp dạy học luôn đặt trong mối quan hệ hai chiều với
mục tiêu và nội dung dạy học:
1.2.2. Phân loại phương pháp dạy học
Có nhiều cách phân loại phương pháp dạy học khác nhau.
Mục tiêu
Phương pháp
Nội dung
 Theo Iu.K Babanski, một nhà giáo dục học nổi tiếng của Liên Xô [19,

thức làm cơ sở, chia phương pháp dạy học làm 3 nhóm: [2, tr.9-10]
1. Các phương pháp sử dụng ngôn ngữ
- Phương pháp thuyết trình
- Phương pháp đàm thoại
- Phương pháp dùng sách giáo khoa và các nguồn tài liệu khác.
2. Các phương pháp trực quan (phương pháp có sử dụng phương tiện
trực quan)
- Phương pháp quan sát, tham quan
- Phương pháp trình bày trực quan (mô hình, tranh ảnh,…)
- Phương pháp biểu diễn thí nghiệm
3. Các phương pháp thực hành (học sinh làm việc)
- Phương pháp luyện tập
- Phương pháp thí nghiệm
- Phương pháp trò chơi…
1.2.3.

Đặc điểm phương pháp dạy học
1.2.3.1. Đặc điểm chung của phương pháp dạy học [2, 5]
 Phương pháp dạy học gồm hai mặt: mặt khách quan gắn liền với đối
tượng của phương pháp và điều kiện dạy học; mặt chủ quan gắn liền với chủ thể sử
dụng phương pháp.
 Phương pháp dạy học là một phương pháp kép, là sự tổ hợp của hai
phương pháp: phương pháp dạy và phương pháp học. Hai phương pháp này có
tương tác chặt chẽ và t
hường xuyên với nhau trong đó học sinh vừa là đối tượng của
hoạt động dạy vừa là chủ thể của hoạt động học.
 Phương pháp dạy học chịu sự chi phối của mục đích dạy học và nội
dung dạy học.
 Phương pháp dạy học là một nghệ thuật.
 Phương pháp dạy học có tính đa cấp:

 Các học thuyết, định luật có vai trò rất lớn trong dạy học hóa
học.Định luật tuần hoàn – Bảng tuần hoàn và các kiến thức về cấu tạo chất là lý
thuyết chủ đạo cả hệ thống kiến t
hức hóa học. Từ chỗ là đối tượng nhận thức, sau
khi học xong, nó trở thành phương tiện sư phạm rất hiệu nghiệm.
 Bài tập hóa học là công cụ rất hiệu nghiệm để củng cố, khắc sâu và
mở rộng kiến thức cho học sinh, là cầu nối giữa lý thuyết và thực tiễn đời sống.
 Hóa học là bộ môn có nhiều ứng dụng trong đời sống. Trong dạy học
hóa học cần có sự liên hệ mật thiết giữa nội dung kiến thức hóa học với thế giới tự
nhiê
n và cuộc sống con người.
1.2.4.

Một số cấu trúc phương pháp dạy học

1.2.4.1. Mô hình cấu trúc hai mặt của phương pháp dạy học
(theo Lothar Klinberg) [5, tr.25]

Hình 1.2. Mô hình cấu trúc hai mặt của phương pháp dạy học
- Dạy học thông báo: thuyết trình, làm mẫu, trình diễn, trình bày trực quan.
- Cùng làm việc: đàm thoại, thảo luận.
- Làm việc tư lực: bài tập cá nhân, bài tập nhóm.
1.2.4.2. Mô hình năm thành phần cơ bản của phương pháp dạy học
(theo Hibert Meyer) [5, tr.25] Phương pháp
d
ạy học
Mặt bên ngoài Mặt bên trong

pháp
Phân tích
Tổng hợp
So sánh

Giải thích –
Minh h
ọa
Làm mẫu – Bắt
chước
Khám phá
Giải quyết vấn
đề-
Nghiên cứu
1.2.4.3. Mô hình ba bình diện của phương pháp dạy học
(theo Bernd Meier) [5, tr.26]

1.2.4.4. Cấu trúc phức hợp của phương pháp dạy học [5, tr.26]

Tiến
trình
dạy học
Hình
thức xã
hội
Hình 1.3. Mô hình năm thành phần cơ bản của phương pháp dạy học
Bình diện vĩ mô
Bình diện vĩ mô
Bình diện vi mô
Bình diện trung gian
Quan điểm dạy học Hình thức dạy học
Sử dụng phương tiện dạy học
Kỹ thuật dạy học

Hình thức
xã hội
Phương pháp
dạy học cụ thể
Tiến trình
dạy học
Hình 1.5. Cấu trúc phức hợp của phương pháp dạy học
1.2.5. Một vài quan hệ có ý nghĩa đối với phương pháp dạy học [19]
1.2.5.1. Quan hệ giữa dạy và học
Thuật ngữ “dạy học” vốn được dùng để phản ánh hoạt động của người
dạy. Đối tượng của hoạt động dạy này là người học. Người học vừa là đối tượng của
hoạt động dạy, vừa là chủ thể của hoạt động học. Nếu người học không chủ động
học, không có cách học tốt thì việc dạy khó mà đạt đến kết quả m
ong muốn. Bởi
vậy, phương pháp dạy học bao gồm cả cách thức dạy của giáo viên và cách thức học

Treasure Within”, 4/1996) của Hội đồng quốc tế về giáo dục cho thế kỷ XXI do
UNESCO thành lập năm 1993 nhằm hỗ trợ các nước trong việc tìm tòi cách thức tốt
nhất để kiến tạo lại nền giáo dục của mình vì sự phát triển bền vững của con người,
đã nêu quan điểm mới về chức năng của giáo dục: “Giáo dục phải là một công cụ,
vừa
cho cá nhân, vừa cho tập thể nhằm bồi dưỡng một hình thức hài hòa hơn về sự
phát triển của con người”. Hội đồng cũng đề ra phương châm “Học suốt đời” dựa
trên bốn cột trụ: học để biết, học để làm, học để cùng sống với nhau, học để làm
người. Đây cũng chính là mục đích của việc học.
1.3.
1.1. Học để biết
- Học kiến thức.
- Học cách học ( biết học tập theo phương pháp khoa học).
- Học cách nắm vững những công cụ sử dụng kiến thức.
- Học cách nhận xét, đánh giá.
1.3.1.2. Học để làm
- Nắm được các kỹ năng.
- Biết cách sử dụng kiến thức vào thực tiễn.
- Có khả năng đối mặt với nhiều tình huống trong cuộc sống.
1.3.
1.3. Học để cùng sống với nhau
- Có cách nhìn đúng đắn về thế giới.
- Cảm nhận sâu sắc được tính phụ thuộc lẫn nhau trong cuộc sống hiện tại.
- Hiểu được người khác thông qua sự hiểu chính mình.
1.3.1.4. Học để làm người
- Giáo dục là một “hành trình nội tại” dẫn đến sự xây dựng nhâ
n cách của
mỗi con người.
- Thế kỷ XXI đòi hỏi mỗi con người năng lực tự chủ và xét đoán cao hơn.
- Khuyến khích sự phát triển đầy đủ nhất tiềm năng sáng tạo của mỗi người

học, rèn luyện cho họ tập giải quyết các vấn đề của khoa học từ dễ
đến khó, từ đó họ mới có điều kiện tốt để tiếp thu và vận dụng kiến
thức một cách chủ động, sáng tạo.
- Phương pháp nhận thức khoa học hóa học là thực nghiệm, cho nên
phương pháp dạy học hóa học phải tăng cường thí nghiệm thực hành
và sử dụng thật tốt các thiết bị dạy học giúp mô hình hóa, giải thích,
chứng minh các quá trình hóa học.
1.3.3.

Một số mô hình đổi mới phương pháp dạy học Hóa học hiện nay
1.3.3.1. “Dạy học hướng vào người học” hay “Dạy học lấy học sinh làm
trung tâm”
a) Nguồn gốc [14]
Quá trình dạy học gồm hai mặt quan hệ hữu cơ: hoạt động dạy của
giáo viên và hoạt động học của học sinh. Trong lý luận dạy học có những quan niệm
khác nhau về vai trò của giáo viên và vai trò của học sinh nhưng tựu trung lại có hai
hướng: hoặc tập trung vào vai trò hoạt động của giáo viên (lấy giá
o viên làm trung
tâm) hoặc tập trung vào vai trò hoạt động của học sinh (lấy học sinh làm trung tâm).
Những năm gần đây, các tài liệu giáo dục và dạy học ở nước ngoài và trong
nước thường nói đến việc cần thiết phải chuyển từ dạy học “lấy giáo viên làm trung
tâm” sang dạy học “lấy học sinh làm trung tâm”. Đây là một xu hướng tất yếu có lý
do lịch sử.
Trong lịch sử giáo dục ở thời kì chưa hình thành tổ chức
nhà trường, một giáo
viên thường dạy cho một nhóm nhỏ học sinh, có thể chênh lệch nhau khá nhiều về
lứa tuổi và trình độ. Chẳng hạn, thầy đồ Nho ở nước ta thời kì phong kiến dạy trong
cùng một lớp từ đứa trẻ mới bắt đầu học Tam tự kinh đến môn sinh đi thi tú tài cử
nhân. Trong kiểu dạy học này, ông thầy bắt buộc phải coi trọng trình độ, năng lực,
tính các

tìm tòi nghiên cứu. Theo hướng đó, bên cạnh xu hướng truyền thống thiết kế
chương trình giảng dạy lấy logic nội dung m
ôn học làm trung tâm đã xuất hiện xu
hướng thiết kế chương trình học tập lấy nhu cầu, lợi ích của người học là trung tâm.
Trong “Thuật ngữ giáo dục người lớn” do Unesco xuất bản năm 1979 bằng ba thứ
tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha đã dùng thuật ngữ “giáo dục căn cứ vào người học”,
“giáo dục tập trung vào người học” với định nghĩa là “sự giáo dục mà nội dung quá

trình học tập và giảng dạy được xác định bởi nhu cầu, mong muốn của người học,
người học tham gia tích cực vào việc hình thành và kiểm soát, sự giáo dục này huy
động những nguồn lực và kinh nghiệm của người học”.
b) Bản chất [14, 24]
Theo R.R.Singh (1991), tư tưởng này đặc biệt nhấn mạnh vai trò của
người học, hoạt động học. Người học được đặt ở vị trí trung tâm của hệ giáo dục,
vừa là mục đích vừa là chủ thể của quá trình học tập.
S.Rassekh (1987) viết: “Với sự tham gia tích cực của người học vào quá trình
học tập tự lực, với sự đề cao trí sáng tạo của mỗi người học thì sẽ khó m
à duy trì
mối quan hệ đơn phương và độc đoán giữa thầy và trò. Quyền lực của giáo viên
không còn dựa trên sự thụ động của học sinh mà dựa trên năng lực của giáo viên
góp phần vào sự phát triển tột đỉnh của các em… Một giáo viên sáng tạo là một giáo
viên biết giúp đỡ học sinh tiến bộ nhanh chóng trên con đường tự học. Giáo viên
phải là người hướng dẫn, người cố vấn hơn là chỉ đóng vai trò c
ông cụ truyền đạt
kiến thức”.
Thực hiện “dạy học lấy học sinh làm trung tâm” không những không hạ thấp
vai trò của giáo viên mà trái lại đòi hỏi giáo viên phải có trình độ cao hơn nhiều về
phẩm chất và năng lực nghề nghiệp, có đầu óc sáng tạo và nhạy cảm mới có thể là
người gợi mở, hướng dẫn trong các hoạt động độc lập của học sinh, đánh giá tiềm
năng của mỗi em, chuẩn bị tốt cho các em tham gia phát triển cộng đồng.

triển cao hơn về nhận thức, tình cảm, hành vi, tự tin hơn trong cuộc sống.
1.3.3.2. Dạy học theo hướng hoạt động hóa người học
a) Nguồn gốc [21]
“Dạy học theo hướng hoạt động hóa người học” được Bộ Giáo dục và
Đào tạo tổ chức thực hiện từ năm học 1994-1995 nhằm đáp ứng nhu cầu cấp thiết
đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Mục tiêu chung là tạo chuyển biến trong t
oàn xã hội về nhận thức và
hành động theo hướng hoạt động hóa người học trong giảng dạy và học tập. Cụ thể
là xây dựng cơ sở lý luận cho việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng hoạt
động hóa người học.
b) Bản chất [24, 34]
The
o định hướng hoạt động hóa người học, các nhà nghiên cứu đã đề
xuất:
- Học sinh phải được hoạt động nhiều hơn và trở thành chủ thể
hoạt động, đặc biệt là hoạt động tư duy.
- Các phương pháp dạy học phải thể hiện bằng phương pháp nhận
thức khoa học và tận dụng các nét đặc thù của môn học để tạo ra các
hình thức hoạt động đa dạng, phong phú của học sinh trong giờ học.
- Chú trọng dạy học sinh phương pháp tự học, tự nghiên cứu tr
ong
quá trình học tập.
Vậy, bản chất của việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng hoạt động
hóa người học là tổ chức cho người học được học tập trong hoạt động tự giác tích
cực, sáng tạo của mình; trong đó việc rèn luyện phong cách học tập sáng tạo là cốt
lõi của việc đổi mới phương pháp giáo dục nói chung và phương phá
p dạy học nói
riêng.
c) Những nét đặc trưng cơ bản của định hướng “hoạt động hóa người học”

ch học là dạy cho học sinh
phải tự học, tự chiếm lĩnh tri thức bằng tư duy độc đáo và sáng tạo của bản thân.
Muốn thế người học phải là chủ thể tự hoạt động biến nhu cầu của xã hội thành nhu
cầu của chính bản thân mình.
 Vai trò của người thầy trong “hoạt động hóa người học” là người thiết
kế, định hướng và điều khiển
- Thiết kế: lập kế hoạch, chuẩn bị quá trình dạy học cả về mặt nội dung,
phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức.
- Định hướng: gợi mở cho học sinh các giai đoạn của công việc, biến ý
đồ của thầy thành nhiệm vụ học tập tự giác của học sinh.
- Điều khiển: đảm bảo cho quá trình dạy học đi đúng hướng, đúng mục
tiêu đã định, kể cả việc động viên, trợ giúp và đánh giá học sinh.
 Các biện pháp hoạt động hoá người học
- Khai thác các nét đặc thù môn học tạo ra nhiều hình thức hoạt động đa
dạng phong phú của học sinh trong giờ học.
- Tăng thời gian hoạt động của học sinh trong giờ học. Hoạt động của
giáo viên chú trọng đến việc thiết kế, hướng dẫn, điều khiển vào hoạt động và tư
duy của học sinh khi giải quyết các vấn đề học tập thông qua các hoạt động cá nhâ
n
hay hoạt động nhóm. Giáo viên cần động viên học sinh hoạt động nhiều hơn trong
dạy học, giảm tối đa các hoạt động nhận thức thụ động.
- Tăng mức độ hoạt động trí lực, chủ động của học sinh thông qua việc
lựa chọn nội dung và hình thức sử dụng các câu hỏi, bài tập có sự suy luận, vận
dung kiến thức một cách sáng tạo.
1.3.3.3. Lý thuyết kiến tạo tron
g dạy học [19]
a) Quan niệm kiến tạo trong dạy học
Cơ sở tâm lý học của lý thuyết kiến tạo là quá trình nhận thức của người
học được tiến hành thông qua hai hoạt động: đồng hóa và điều ứng. Trong đó đồng
hóa là quá trình chủ thể nhận thức dùng kiến thức, kỹ năng đã có để xử lí thông tin

người. Nhận thức không phải là khám phá một thế giới độc lập đang tồn tại bên
ngoài ý thức của chủ thể.
- Học là một quá trình mang tính xã hội, trong đó trẻ em tự hòa mình và
o
các hoạt động trí tuệ của những người xung quanh. Trong lớp học mang tính kiến
tạo, học sinh không chỉ tham gia vào việc khám phá, phát minh mà còn tham gia
vào cả quá trình xã hội bao gồm việc giải thích, trao đổi, đàm
phán và đánh giá.
- Việc điều chỉnh lại thế giới quan mỗi người phải tương xứng với những
yêu cầu mà tự nhiên và thực trạng xã hội đặt ra.
- Học sinh tạo được tri thức mới theo chu trình: sự dự báo trước  Kiểm
nghiệm  Sự thất bại  Sự thích nghi  Tri thức mới.
b) Các loại kiến tạo trong dạy học (theo Pa
ul Ernest) [19, tr.45-47]
 Kiến tạo cơ bản
Kiến tạo cơ bản mô tả cách thức học sinh xây dựng kiến thức cho
mình với nét đặc thù là chủ động tạo nên sự thích nghi và tiến hóa trong quá trình tự
tổ chức. Trong đó:
- Sự chủ động của mỗi cá nhân được thể hiện ở tất cả các bước của
chu trình nhận thức. Từ đó sẽ tạo nên các biểu đồ chỉ dẫn những hoạt động và kinh
nghiệm h
iện tại của chủ thể.
- Quá trình thích nghi và tiến hóa của người học với môi trường thông
qua hai hoạt động đồng hóa điều ứng. Đồng thời cũng diễn ra quá trình loại bỏ, kế
thừa, phát triển quan niệm đã có của người học.
- Sự tự tổ chức thể hiện ở chỗ, dạy học phải coi trọng vai trò của chủ
thể, tức là phải coi trọng quá trình họ tự tổ chức hoạt động nhận thức. Tuy nhiên
nếu coi trọng quá mức vai trò của cá nhân sẽ đặt người học trong tình trạng cô lập,
làm mất đi mối tương tác mang tính xã hội trong nhận thức thì sẽ gây ảnh hưởng
không tốt đến cách thức và kết quả nhận thức.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status