Điều trị những tổn thương tuyến nước bọt bằng phẫu thuật - Pdf 19

Điều trị những tổn thương tuyến nước
bọt bằng phẫu thuật

Những thủ thuật ngoại khoa thông thường điều trị những thương tổn liên quan đến
tuyến nước bọt và có thể thực hiện dưới gây tê tại chỗ tại phòng khám nha khoa là
lấy sỏi ống tuyến nước bọt và bóc nang nghẽn.
14.1 Lấy sỏi tuyến nước bọt từ ống tuyến dưới hàm.
Sỏi tuyến nước bọt có thể hiện diện ở ống của những tuyến nước bọt lớn hoặc
trong nhu mô tuyến .Tuyến dưới hàm là vị trí thường gặp nhất (70 – 80% ) so với
tuyến mang tai và tuyến dưới lưỡi. 50% sỏi tuyến dưới hàm nằm ở vị trí phần
trước và giữa ống tuyến, 35% ở vị trí phần sau và 15% ở trong nhu mô tuyến .Sỏi
tuyến nước bọt là nguyên nhân phố biến nhất của viêm tuyến .Nếu tình trạng này
không được điều trị thì nó sẽ trở nên mãn tính và thường xuyên tái phát, có thể dẫn
đến phá hủy cấu trúc tuyến.
Những triệu chứng chính biểu hiện sự tắc nghẽn của ống tuyến là những cơn đau
và sưng nề thoáng qua của tuyến nước bọt tương ứng trong suốt bữa ăn.Những
triệu chứng này là kết quả của sự tăng sản xuất nước bọt trong quá trình nhai
không tiết được vào trong khoang miệng.
Những triệu chứng lâm sàng đầu tiên là những cơn đau cấp tính ở vùng tuyến ,
thường ở dạng nhẹ hơn trong những trường hợp tắc bán phần và trầm trọng hơn
khi tắc hoàn toàn. Nhiều lúc cơn đau có thể lan truyền đến lưỡi, hầu, sàn miệng và
vùng cổ .Triệu chứng sưng tuyến thường đi kèm, phụ thuộc vào thời lượng tắc
nghẽn và dần giảm xuống sau bữa ăn.
Chẩn đoán chủ yếu dựa vào lâm sàng và X-Quang .Trong giữa bữa ăn có sự sưng
nề , đỏ thoáng qua tại vùng niêm mạc được quan sát dọc theo ống tuyến.Sự hiện
diện của sỏi cũng được khẳng định bởi sự sờ nắn bằng 2 tay.Ngón trỏ 1 tay đặt
trong sàn miệng trong khi các ngón của 1 bàn tay khác được đặt ở vùng tuyến dưới
hàm, sờ nắn đồng thời ống tuyến theo chiều sau-trước .Một sự trợ giúp cơ bản cho
chẩn đoán đó là phim khớp cắn.Ở những vị trí khó khăn và nghi ngờ , chụp tuyến
nước bọt cản quang và siêu âm thì cần được cân nhắc .
Kỹ thuật phẫu thuật:

Những thủ thuật ngoại khoa thông thường nhất để bóc nang nhầy mà có thể thực
hiện dưới gây tê tại chỗ tại phòng khám nha khoa bao gồm nang niêm dịch
(mucocele) và nang nhái.Phân biệt hai hiện tượng nghẽn này chỉ dựa vào vị trí.
14.2.1 Nang niêm dịch
“Mucocele” là thuật ngữ lâm sàng được sử dụng để mô tả hiện tượng thoát dịch
nhầy ,cũng tương tự như nang nhầy nghẽn .Hiện tượng thoát dịch nhầy là do tổn
thương những ống tuyến nước bọt nhỏ dẫn đến sự ứ lại của nước bọt ở những mô
xung quanh và được phân loại như là 1 nang lỗi (false cyst) vì thiếu lớp biểu
mô.Tổn thương này thường xuất hiện ở niêm mạc môi dưới do thói quen cắn môi,
nó có thể nằm ở lớp sâu hoặc nông.
Nang nhầy nghẽn phân biệt với hiện tượng thoát dịch nhầy ở chỗ nó là kết quả của
sự bít tắc dòng chảy nước bọt cũng như được bao quanh bởi mô hạt.
Về mặt lâm sàng, tổn thương này không đau và được biểu hiện bởi 1 khối tròn
hoặc oval có bề mặt nhẵn, gồ lên , ấn mềm. .Màu sắc bình thường hoặc có màu
xanh nhạt, giới hạn từ vài milimet đến 2 cm (hình 14.10)
Điều trị bằng phẫu thuật cắt bỏ tổn thương. Kỹ thuật phẫu thuật:
Sau khi gây tê tại chỗ, một đường rạch hình elip được thực hiện ở lớp niêm mạc
bên trên nang (Hình 14.11-14.13). Mặt bên trên của nang được kẹp lấy bằng kẹp
cầm máu cùng với lớp niêm mạc bao phủ, dùng kéo để tách ra khỏi mô xung
quanh (Hình 14.14-14.15)
Quá trình này cần thực hiện cẩn thận bởi vì những nang này rất dễ bị vỡ và teo lại,

của nang , chỉ khâu được lưu lại trong vòng 1 tuần. Vùng tổn thương còn lại được
để lộ hoặc được che phủ bởi gạc tẩm iodoform được cố định bằng chỉ.(hình 14.22)


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status