Báo cáo thực tập “Một số giải pháp nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Bảo Yên tỉnh Lào Cai” - Pdf 19

Báo cáo thực tập
“Một số giải pháp nhằm thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp huyện Bảo Yên tỉnh Lào Cai”
2
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự phát triển và thịnh vượng của mỗi quốc gia đều được lấy kinh tế
làm thước đo tiêu chuẩn với mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội phồn vinh.
Trong cơ cấu kinh tế, nông nghiệp là một ngành quan trọng trong quá trình
phát triển kinh tế không chỉ đối với nước ta mà với nhiều nước trên thế giới.
Muốn phát triển kinh tế thì nông nghiệp là một trong những lĩnh vực cần đặc
biệt quan tâm và “Nhận thức đúng vai trò của nó trong chiến lược phát triển
kinh tế và thực hiện đồng bộ hàng loạt những vấn đề liên quan đến nông
nghiệp”.
(1)
Một trong những vấn đề nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế đó là
sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung,
cơ cấu phát triển kinh tế nông nghiệp nói riêng là vấn đề quan trọng hiện nay
của nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển
trong đó có Việt Nam. Mấu chốt là tìm các giải pháp có hiệu quả khả thi đưa
vào thực tiễn để chuyển dịch cơ cấu đạt kết quả nhanh và có tính bền vững
cao nhằm tăng giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích đất canh tác. Việt
Nam là một nước nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp. Năm 2005
“Trong GDP tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thuỷ sản còn 20,9%”
(2)
, chiếm đến
80% dân số sống, lao động, làm việc trong ngành sản xuất nông nghiệp. Nên
đây là một vấn đề đang được các ngành, các cấp quan tâm, coi đó là một giải
pháp quan trọng, cơ bản để đẩy mạnh phát triển kinh tế nông nghiệp, nông
thôn theo hướng sản xuất hàng hóa nhằm từng bước công nghiệp hoá - hiện

huyện thì chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế nông nghiệp là một vấn đề quan
trọng mang tính cấp thiết. Xuất phát từ những yêu cầu trên nhằm giúp kinh tế
nông nghiệp huyện Bảo Yên tìm ra những giải pháp, bước đi trong những
năm tới đạt hiệu quả cao nhất. Em đã chọn và tiến hành nghiên cứu đề tài :
“Một số giải pháp nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp huyện Bảo Yên tỉnh Lào Cai”.
Đây là một vấn đề có ý nghĩa trong việc nghiên cứu khoa học và giải
quyết những vấn đề thực tiễn cấp bách đang được đặt ra trong phát triển kinh
tế nông nghiệp ở nước ta nói chung và ở huyện Bảo Yên - Lào Cai nói riêng.
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp, phân tích đánh giá về thực trạng cơ cấu và chuyển dịch
cơ cấu nông nghiệp ở huyện Bảo Yên, đánh giá những mặt đã đạt được,
những hạn chế và những vấn đề đặt ra cần giải quyết. Trên cơ sở đó đưa ra
những quan điểm, phương hướng, mục tiêu và các giải pháp nhằm chuyển
dịch cơ cấu và phát triển kinh tế nông nghiệp của huyện Bảo Yên trong
những năm tiếp theo. Nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông
thôn rất đa dạng, nhưng xuất phát từ tình hình cụ thể của huyện Bảo Yên và
nguồn tài liệu để nghiên cứu tham khảo. Vì vậy đề tài chỉ tập trung nghiên
3
4
cứu các nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và sự chuyển đổi
của nội dung này trong 3 năm (2004- 2006) và những giải pháp chuyển dịch
cơ cấu và phát triển kinh tế nông nghiệp của huyện Bảo Yên trong giai đoạn
2007 - 2010. Để hoàn thành các mục tiêu nghiên cứu trên đề tài tập trung vào
các phương pháp nghiên cứu : phương pháp duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử; phân tích hệ thống, thống kê kinh tế; tổng hợp, kế thừa những kết
quả đã nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến chuyên đề ở các cơ quan
trung ương và địa phương.
Kết cấu đề tài :

trọng trong trồng trọt trong nông nghiệp chiếm rất cao, đại bộ phận nông dân
chủ yếu tham gia lao động trồng trọt chỉ có số ít là kết hợp và chăn nuôi.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và tiến bộ khoa học - kỹ thuật
đặc biệt sự phát triển của nông nghiệp hiện đại, cơ cấu KTNN được cải biến
nhanh chóng theo hướng sản xuất hàng hóa, công nghiệp hoá, hiện đại hoá
(CNH, HĐH.)
2.1. Cơ cấu kinh tế theo ngành.
Hiện nay trong nông nghiệp không chỉ bao gồm ngành trồng trọt và
chăn nuôi nó còn gồm cả ngành lâm nghiệp và dịch vụ nông nghiệp. Do vậy
trong cơ cấu ngành còn phải xét tới sự chuyển dịch của ngành lâm nghiệp và
ngành dịch vụ. Cơ cấu ngành của KTNN bao gồm các nhóm ngành trồng
trọt, chăn nuôi, dịch vụ nông nghiệp và lâm nghiệp. Trong mỗi nhóm ngành
lại được chia thành những ngành hẹp hơn. Trong trồng trọt lại chia thành cây
lương thực, cây công nghiệp, cây thực phẩm, cây ăn quả, cây dược liệu…
Trong lĩnh vực chăn nuôi được phân chia thành : đại gia súc, tiểu gia súc, gia
cầm… Kinh nghiệm trong nước và thế giới cho thấy chuyển dịch cơ cấu
KTNN mang tính qui luật: từ trồng trọt mở ra lâm nghiệp, ngư nghiệp, chăn
nuôi, sản xuất hàng hóa. Trong một thời gian khu vực kinh tế nước ta chậm
chuyển biến, nông nghiệp chiếm vị trí chủ yếu, cơ cấu chậm chuyển dịch
nguyên nhân chủ yếu là lực lượng sản xuất kém phát triển, năng suất lao
động thấp, phân công lao động chưa cụ thể sâu sắc nên tình trạng thiếu
lương thực kéo dài. Từ 1990 trở lại đây sản xuất lương thực đạt được thành
tựu to lớn, đưa giống lúa có năng suất và chất lượng cao vào gieo trồng đã
tạo thành sản phẩm hàng hoá để xuất khẩu; do vậy làm cho cơ cấu KTNN
chuyển dịch nhanh chóng theo hướng có hiệu quả. Những nước có trình độ
kém phát triển nông nghiệp chiếm đại bộ phận trong nền kinh tế thì sự phát
triển của lực lượng sản xuất đặc biệt là tiến bộ khoa học kỹ thuật ứng dụng
vào làm cho cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh chóng theo hướng CNH,
HĐH.
2.2. Cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế

chuyên môn hóa và tập trung hóa hình thành những vùng sản xuất hàng hóa
lớn tập trung có hiệu quả cao với các vùng chuyên môn hóa khác, gắn cơ cấu
của từng khu vực với cơ cấu kinh tế của cả nước. Trong từng vùng lãnh thổ
coi trọng chuyên môn hóa kết hợp với phát triển tổng hợp đa dạng. Để hình
thành cơ cấu vùng lãnh thổ hợp lý thì cần bố trí các ngành trên vùng hợp lý,
để khai thác đầy đủ tiềm năng của từng vùng. Đặc biệt cần bố trí các ngành
chuyên môn hóa dựa trên những lợi thế so sánh từng vùng đó là những vùng
có đất đai tốt, khí hậu phù hợp, đường giao thông thuận lợi và các khu công
nghiệp có sẵn.
II. CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ.
1. Khái niệm:
6
7
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là giành một phần tài nguyên của một bộ
phận kinh tế này cho một bộ phận kinh tế khác theo hướng có lợi hơn, đáp
ứng nhu cầu sản phẩm xã hội và tăng thu nhập của người lao động.
1. 1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Lực lượng sản xuất phát triển gắn liền với phân công lao động xã hội,
chi phối sự hình thành và biến đổi của cơ cấu kinh tế. Khi nền kinh tế tự cấp
tự túc thì lực lượng sản xuất trì trệ kém phát triển dẫn đến cơ cấu KTNN
chậm chuyển biến. Chuyển nền kinh tế thuần nông sang sản xuất hàng hóa
thì lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội mới phát triển ở trình độ
cao. Mặt khác sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã
hội là xu thế tất yếu khách quan của sự phát triển xã hội. Vì vậy chuyển dịch
cơ cấu KTNN cũng là một tất yếu khách quan. Trong điều kiện nước ta hiện
nay, điều kiện tự nhiên tương đối thuận lợi, nguồn lao động trẻ dồi dào
nhưng vẫn ở dạng tiềm năng chưa được huy động và khai thác đầy đủ, hợp
lý. Bởi vậy rất cần thiết để chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Mục tiêu của chuyển
dịch cơ cấu phải dựa trên cơ sở tiềm năng sẵn có hình thành cơ cấu mới
nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng đó tạo ra một tỷ suất hàng hóa lớn

lượng đã tích luỹ đến độ nhất định tất yếu dẫn đến sự thay đổi về chất. Đó là
quá trình chuyển hóa dần từ cơ cấu kinh tế cũ thành cơ cấu kinh tế mới phù
hợp và có hiệu quả hơn. Tất nhiên quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp nhanh hay chậm tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó sự tác động của
con người có ý nghĩa quan trọng. Do vậy chuyển dịch cơ cấu KTNN đến
trạng thái phát triển tối ưu đạt được hiệu quả, thông qua các tác động điều
khiển có ý thức, định hướng của con người, trên cơ sở nhận thức và vận
dụng đúng đắn các qui luật khách quan.
2. Vai trò chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đối với sự phát
triển của tỉnh, của nền kinh tế.
2.1 Vai trò chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đối với sự phát
triển của tỉnh Lào Cai
(1)
.
Trong thời gian qua sản xuất nông lâm nghịêp chuyển dich theo hướng
tích cực. Góp phần xoá đói giảm nghèo đạt được nhiều kết quả. Giá trị sản
xuất nông - lâm - ngư nghiệp đạt 1.176 tỷ đồng, tăng bình quân hàng năm
9,51%. Từ năm 2000 đến năm 2005 tỷ trọng ngành trồng trọt giảm từ 72,9%
xuống còn 70,2%; chăn nuôi và dịch vụ tăng từ 27,1% lên 29,9%.
Giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích canh tác tăng từ 8 triệu đồng
lên 14 triệu đồng. Thành tựu vượt trội về nông nghiệp là tăng mạnh về năng
xuất và sản lượng cây lương thực. Việc qui hoạch sản xuất hàng hoá được
quan tâm đã và đang hình thành các vùng chuyên canh lúa, ngô, đạu tương,
rau, quả hàng hoá. Công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, ứng
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất được đẩy mạnh. Trên 85% diện
tích được cấy giống lúa năng xuất cao. Nhiều cây con có năng xuất, chất
lượng và giá trị kinh tế cao được đưa vào sản xuất , thử nghiệm và từng bước
sản xuất đại trà như giống hoa cao cấp, cây ăn quả ôn đới, cây dược liệu.
Chăn nuôi phát triển theo hướng hàng hoá, nhất là chăn nuôi đại gia
súc, bình quân hàng năm đàn trâu tăng 4,5%, đàn bò 5,3%, đàn lợn 6,5%,

Cơ cấu thu nhập khu vực nông thôn có sự thay đổi tích cực, sản xuất
nông nghiệp chiếm 88, 54%, sản xuất tiểu thủ công nghiệp 1,45% và dịch vụ
10%. Hàng năm dành 60% - 70% vốn đầu tư phát triển cho vùng nông thôn
(đạt 2.500 tỷ đồng). Đến năm 2003 có 100% số xã có đường ô tô đến trung
tâm xã. Đến năm 2005 có 75% số xã có điện lưới quốc gia, 62% số hộ dân
được sử dụng điện, 70% số hộ dân được sử dụng nước hợp vệ sinh, 12.584
hộ được hỗ trợ tấm lợp, sắp xếp ổn định dân cư 6.970 hộ, số hộ có nhà xây
kiên cố và bán kiên cố nông thôn tăng 5%. Thu nhập bình quân hộ gia đình
nông thôn tăng từ 6,6 triệu đồng lên 13,5 triệu đồng. Có 18.700 hộ sản xuất
kinh doanh giỏi, 30.600 hộ giầu và khá, tỷ lệ hội đói nghèo còn 41,01%
Mục tiêu trong thời gian tới là chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế nội
ngành nông lâm nghiệp theo hướng nâng cao tỷ trọng chăn nuôi và dịch vụ.
Đặc biệt là chăn nuôi đại gia súc, thuỷ sản và phát triển rừng kinh tế. Đầu tư
khai thác có hiệu quả lợi thế về công nghiệp, du lịch và kinh tế cửa khẩu để
tạo bước đột phá trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế.
(1) Báo cáo chính trị của BCH đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ XIII- nhiệm lỳ 2005 – 2010)
9
10
2.2. Vai trò chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đối với sự
phát triển của nền kinh tế.
“Nông nghiệp là một trong những ngành sản xuất vật chất quan trọng
của nền kinh tế quốc dân. Hoạt động nông nghiệp không những gắn liền với
các yếu tố kinh tế, xã hội mà còn gắn với các yếu tố tự nhiên. Nông nghiệp
theo nghĩa rộng gồm có : trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và thuỷ sản có vị
trí hết sức quan trọng nó đáp ứng vào quá trình tăng trưởng và phát triển
kinh tế xã hội của cả nước và của từng địa phương. Đặc trưng trong nông
nghiệp ruộng đất là tư liệu sản xuất đặc biệt. Đối tượng của sản xuất là
những cây trồng vật nuôi. Trong sản xuất nông nghiệp, sự hoạt động của lao
động và tư liệu sản xuất có tính thời vụ, được tiến hành trên một địa bàn rộng

“Nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất cơ bản giữ vai trò to lớn trong
việc phát triển kinh tế ở hầu hết cả nước, nhất là ở các nước đang phát triển.
Ở những nước này còn nghèo, đại bộ phận sống bằng nghề nông. Tuy nhiên,
ngay cả những nước có nền công nghiệp phát triển cao, mặc dù tỷ trọng GDP
nông nghiệp không lớn, nhưng khối lượng nông sản của các nước này khá
lớn và không ngừng tăng lên, đảm bảo cung cấp đủ cho đời sống con người
những sản phẩm tối cần thiết đó là : lương thực, thực phẩm. Những sản
phẩm này cho dù trình độ khoa học - công nghệ phát triển như hiện nay vẫn
chưa có ngành nào có thể thay thế được. Lương thực, thực phẩm là yếu tố
đầu tiên, có tính chất quyết định sự tồn tại phát triển của con người và phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước”
(1)
. Qua các vấn đề nêu trên đã
chứng minh vai trò quan trọng của nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân,
nó là một ngành không thể thiếu trong cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia và
nhất là đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Vai trò của chuyển dịch cơ cấu KTNN đáp ứng sự phát triển của kinh
tế thị trường, đáp ứng về yêu cầu nông sản phẩm của xã hội, nhu cầu tiêu
dùng của dân cư, là điều kiện để mở rộng thị trường, tạo cơ sở thay đổi bộ
mặt nông thôn nói chung và bộ mặt nông nghiệp nói riêng, đồng thời tạo ra
một nền sản xuất chuyên môn hóa cao, thâm canh tiên tiến và các ngành liên
kết với nhau chặt chẽ hơn.
3. Nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Cơ cấu KTNN là một khái niệm mang tính khách quan, tính lịch sử xã
hội, nó không những vận động mà còn biến đổi và phát triển. Sự chuyển dịch
cơ cấu KTNN là một quá trình do vậy sự hình thành vận động, biến đổi và
Năng
suất
Sinh đẻ
nhiều

qui mô các phân ngành chuyên môn nông lâm ngư nghiệp giữa các vùng có
sự khác nhau dẫn tới sự khác nhau về cơ cấu ngành, thể hiện rõ nét từ sự
phân biệt về cơ cấu các ngành kinh tế trong nông nghiệp giữa vùng Đồng
bằng - Trung du - Miền núi. Ngay giữa các vùng cơ cấu kinh tế các ngành
cũng khác nhau khá rõ do tính đa dạng và phong phú của tự nhiên nước ta và
sự phân bổ nguồn lực không đồng đều. Một số vùng có điều kiện tự nhiên
thuận lợi để phát triển một số ngành sản xuất tạo ra lợi thế so với vùng khác,
đây là cơ sở tự nhiên để hình thành các vùng kinh tế. Ngoài sự tác động ảnh
hưởng nói trên thì điều kiện tự nhiên còn ảnh hưởng tới các cơ cấu, các
thành phần kinh tế và cơ cấu kỹ thuật trong kinh tế nông nghiệp. Thông
thường những vùng nào có điều kiện tự nhiên thuận lợi thì các thành phần
kinh tế của các vùng đó phát triển với qui mô và tốc độ lớn hơn. Sự phát
triển của các thành phần kinh tế tạo điều kiện làm nảy sinh nhu cầu ứng dụng
ngày càng rộng rãi công nghệ, khoa học kỹ thuật tiên tiến vào hoạt động sản
xuất kinh doanh và dịch vụ, làm cho ứng dụng của Khoa học- Công nghệ -
Kỹ thuật tiến bộ, hiện đại ngày càng được nâng cao trong cơ cấu kỹ thuật.
3.2. Nhân tố kinh tế - xã hội
Nhân tố kinh tế - xã hội ảnh hưởng tới cơ cấu KTNN bao gồm thị
trường, hệ thống các chính sách vĩ mô của Nhà nước, vốn, cơ sở hạ tầng
nông thôn, sự phát triển các khu công nghiệp và đô thị, kinh nghiệm và tập
quán truyền thống sản xuất của dân cư, dân số, lao động… Trong nền kinh tế
hàng hóa nhân tố thị trường có ảnh hưởng quyết định tới sự phát triển kinh tế
nói chung và biến đổi của cơ cấu kinh tế nói riêng. Người sản xuất hàng hóa
chỉ sản xuất và đem ra thị trường trao đổi những sản phẩm mà họ thấy chúng
1). Giáo trình Kinh tế nông nghiệp. Trường ĐH Kinh tế quốc dân. NXH thống kê HN-2004, tr 5
12
13
đem lại lợi nhuận thoả đáng và người sản xuất tự xác định khả năng tham gia
cụ thể của mình vào thị trường những loại sản phẩm hàng hóa có lợi nhất, do
đó trên thị trường sẽ xuất hiện các loại hàng hóa dịch vụ với qui mô và cơ

kinh nghiệm tập quán truyền thống của dân cư ở các vùng cũng là nhân tố
ảnh hưởng tới việc hình thành và phát triển chuyển dịch cơ cấu KTNN.
3.3 Nhân tố về tổ chức kỹ thuật
Nhóm nhân tố này bao gồm các hình thức tổ chức sản xuất; sự phát
triển của khoa học kỹ thuật và việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất .
13
14
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là phạm trù khách quan nhưng lại là sản phẩm
hoạt động của con người. Sự tồn tại, vận động, biến đổi cơ cấu kinh tế nông
nghiệp được quyết định bởi sự tồn tại và hoạt động của các chủ thể kinh tế
trong nông nghiệp lá cơ sở của sự hình thành và phát triển của các ngành
kinh tế, các vùng kinh tế và các thành phần kinh tế.
Các chủ thể kinh tế trong nông nghiệp tồn tại và hoạt động qua các
hình thức tổ chức tổ chức sản xuất với các mô hình tổ chức tương ứng; Do
vậy các hình thức tổ chức trong nông nghiệp với các quy mô tương ứng là
một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới sự biến đổi cơ cấu kinh tế
nông nghiệp.
Từ những năm 1990 đến nay trong nông nghiệp nước ta kinh tế hộ
được thừa nhận trở thành đơn vị kinh tế tự chủ, kinh tế tư nhân được tạo điều
kiện phát triển, kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể được cải biến theo nội
dung mới, sự thay đổi về các mô hình sản xuất nêu trên đã tạo ra những điều
kiện cho nông nghiệp, nông thôn phát triển mạnh mẽ tạo ra những thay đổi
đáng kể trong cơ cấu KTNN; tỷ trọng ngành trồng trọt giảm xuống, tăng tỷ
trọng ngành chăn nuôi. Trong trồng trọt tỷ trọng cây lương thực giảm, cây
công nghiệp và cây ăn quả tăng lên, hình thành vùng chuyên canh tập trung
cây công nghiệp dài ngày.
Ngày nay, khoa học kỹ thuật trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, sự
phát triển của khoa học kỹ thuật và ứng dụng chúng vào sản xuất có vai trò
ngày càng to lớn, góp phần hoàn thiện các phương pháp sản xuất nhằm khai
thác, sử dụng hợp lý hiệu quả các nguồn lực xã hội và khu vực nông thôn.

nhiêu giá trị sản lượng).
- Giá trị sản lượng/1 lao động (1 lao động tạo ra bao nhiêu giá trị sản
lượng).
- Giá trị hàng hóa/1 đơn vị diện tích
- Giá trị hàng hóa/1 lao động
- Lợi nhuận
- Thu nhập
Các chỉ tiêu trên có thể áp dụng để phản ánh cơ cấu kinh tế, hiệu quả
cơ cấu KTNN trong cả nước, từng vùng lãnh thổ và các thành phần kinh tế,
tuỳ thuộc vào các phạm vi nghiên cứu mà sử dụng các chỉ tiêu, phương pháp
thích hợp.
4.2. Nhóm chỉ tiêu phản ánh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và hiệu
quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Chính là xem xét sự thay đổi các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu kinh tế mà
cụ thể là xem xét sự thay đổi của cơ cấu đầu vào từ đó xem xét sự thay đổi
cơ cấu đầu ra. Thực tế chính là việc sử dụng các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu
kinh tế nhưng đã được bố trí sắp xếp lại từ đó đem so sánh với các chỉ tiêu
phản ánh cơ cấu kinh tế trước đây để làm rõ quá trình chuyển dịch. Như vậy
sự thay đổi các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu hay sự chuyển dịch có thể hợp lý
15
16
hoặc có thể không hợp lý mà biểu hiện là xem xét tới sự thay đổi cơ cấu đầu
ra.
Phản ánh hiệu quả của chuyển dịch cơ cấu kinh tế (CCKT) là dựa trên
các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của CCKT nhưng có sự so sánh giữa các năm
để thấy sự biến đổi của chỉ tiêu này; sự biến đổi của hiệu quả CCKT chính là
hiệu quả của quá trình chuyển dịch, tốt hay xấu ta phải xem xét tới từng chỉ
tiêu tiêu cụ thể như năng suất đất đai tăng hay giảm; hiệu quả sử dụng vốn
tốt hay xấu; năng suất lao động tăng hay giảm; giá trị sản lượng sản phẩm
hàng hóa/1 đơn vị diện tích tăng hay không…

lợi xã hội được quan tâm phát triển với nhiều cơ sở dịch vụ nâng cao, đáp
ứng từng bước nhu cầu phát triển kinh tế.
III. Những kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
nông thôn.
1. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn
ở tỉnh Gia lai.
Gia Lai có diện tích tự nhiên: 15.495km
2
, dân số 858.240 người.
Trong đó địa bàn nông thôn chiếm 97% về diện tích và 78% về dân số, gần
65% dân số là nông thôn thuộc dân tộc ít người. Trình độ dân trí thấp, đời
sống còn gặp nhiều khó khăn. Gia Lai có tiềm năng rất đa dạng nhất là về
đất, rừng có khả năng phát triển lớn tập trung về nông – lâm nghiệp và chế
biến nông lâm sản và thực phẩm. Đất đai và khí hậu phù hợp với sự phát
triển của nhiều loại cây trồng như: Cao su, Cà phê, chè, điều, lạc, mía và
chăn nuôi đại gia súc.
Trước năm 1990 Gia Lai sản xuất nông nghiệp vẫn chủ yếu và trong
tình trạng tự cung, tự cấp. Còn sản xuất nông nghiệp chỉ chú trụng vào khâu
khai thác, các cơ sở vật chất ở nông thôn yếu kém, giáo đục, y tế, văn hoá
kém phát triển.
Từ năm 1991 đến nay thì bộ mặt nông thôn ngày nay được đổi thay
thể hiện ở các mặt như sau:
Về nông nghiệp: Mức tăng trưởng bình quân năm là 6,18%, tỷ trọng
nông nghiệp chiếm 48% GDP. Tổng sản lượng lương thực quy thóc 172.000
tấn năm 2005 lên 192.000 tấn năm 1997. Từng bước hình thành vùng cây
công nghiệp tập trung mang tính sản xuất hàng hoá lớn phù hợp với hai vùng
khí hậu Đông và Tây trường sơn.
Cây cao su từ 15.570 ha với sản lượng mủ khô 1.074 tấn năm 1991
tăng lên 21.700 ha với sản lượng mủ khô là 4.840 tấn.
Cây Cà phê từ 6.522 ha với sản lượng 3.640 tấn năm 1991 tăng lên

thì chậm, nhưng với Quảng Ngãi là bước phát triển tích cực bởi cùng với kết
quả đó là sự đổi mới cơ chế quản lý trong nền kinh tế.
Về chuyển dịch mùa vụ: Trước đây sản xuất lương thực là vấn đề
trung tâm nên các tỉnh miền trung có xu hướng mở rộng diện tích 3 vụ lúa
trên đất trũng, thất bát lớn bởi vụ đông xuân gieo mạ sớm khi lúa trổ bị
sương muối, rét và các đợt gió mùa đông bắc làm thiẹt hại mùa màng, còn vụ
mùa cấy chậm nên bị bão lụt thất thu. Vì vậy tỉnh đã tập trung nghiên cứu
thay đổi cơ cấu mùa vụ và cây trồng để tránh thiên tai và đã đạt được một số
kết qủa:
+ Sản lượng lương thưc tăng từ 32 vạn tấn/ năm lên 36 vạn tấn/ năm.
+Sản lượng mía tăng từ 41 vạn tấn/ năm lên 55 vạn tấn/ năm
+ Sản xuất lúa 3 vụ lãi được 3,5 triệu đồng/ha/năm.
+ Chuyển đổi cơ cấu trồng 2 vụ lúa cộng 1 vụ đậu xanh lãi 5,6 triệu
đồng/ha/năm.
+ Vùng sản xuất 2 vụ lúa cộng vụ lạc lãi 4,2 triệu đồng/ha/năm
* Những biện pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Quảng Ngãi:
18
19
- Thâm canh tăng năng suất cây trồng vật nuôi kết hợp với việc áp
dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật váo sản xuất.
- Đa dạnh hoá sản phẩm mở rộng ngành nghề, tạo ra vùng sản xuất
hàng hoá tập trung.
- Phát triển nông nghiệp phải gắn với lâm nghiệp, ngư nghiệp, công
nghiệp chế biên, dịch vụ và xây dựng cơ sở hạ tầng.
- Mở rộng quy mô ứng dụng các công thức luân canh trên nhiều vùng,
nhiều chất đất để rút được những kết luận chính xác phù hợp với thực tiễn
địa phương.
- Cải tạo vườn tạp thành vườn kinh tế trồng cây ăn quả có giá trị cao,
như vải thiều, chôm chôm, nhãn
- Chăn nuôi phát triển theo hướng thương phẩm.

lưới giao thông có trục đường quốc lộ 70 và tuyến đường sắt chạy từ cửa
khẩu quốc tế Lào Cai về Hà Nội. Quốc lộ 279 chạy từ huyện Than Uyên tỉnh
Lai Châu sang huyện Quang Bình - Hà Giang. Có sông Hồng và sông Chảy
chạy qua địa bàn huyện. Độ cao trung bình từ 200 - 450
m
, cá biệt có chỗ độ
cao 900 m so với mặt nước biển. Độ dốc từ 16
0
– 25
0
chiếm 32%; Độ dốc từ
25
0
– 35
0
chiếm 41% tổng diện tích tự nhiên.
Trên cơ sở tổng hợp, phân tích đánh giá tác động của các điều kiện tự
nhiên, kinh tế xã hội huyện Bảo Yên đến sản xuất nông nghiệp có thể rút ra
một số tác động mạnh mẽ đến thực trạng phát triển sản xuất nông nghiệp của
huyện. Những yếu tố chính về điều kiện tự nhiên, chi phối nhiều đến sản
xuất nông nghiệp của huyện gồm yêu tố đất đai, khí hậu, nguồn nước.
1.1. Về đất đai
Tổng hợp các tài liệu nghiên cứu và khảo sát, quy hoạch đất đai cấp
huyện năm 2001, quy hoạch đất đai cấp xã năm 2004, huyện Bảo Yên có các
loại đất sau :
- Đất nông nghiệp 46.357,7 ha chiếu 56,2% diện tự nhiên. Trong đó
sản xuất nông nghiệp 10.899,6 ha; đất lâm nghiệp 35.238,6 ha; đất nuôi
trồng thuỷ sản 219,44 ha.
- Đất phi nông nghiệp : 4.449,2 ha, chiếm 5,4% diện tích tự nhiên.
Trong đó đất ở 479,5 ha; đất chuyên dùng 1.060,7 ha; Đất nghĩa trang, nghĩa

gen. Loại đất này khá dầy do qúa trình bồi tích, đất có hàm lượng dinh
dưỡng cao, tơi xốp tuy nhiên lẫn khá nhiều cuội, sỏi, cuội tảng. Loại đất này
được phân bố dọc sông Hồng, sông Chảy địa hình phân bố dạng đồi thấp,liền
dải, lượn sóng.
+ Đất vàng nhạt trên đá cát( Fq): Đất này được hình thành trên đá
giầu thạch anh, hoạc có tỷ lệ si- líc cao, đất có màu vàng nhạt, tầng đất
không dầy( 50-60 cm), thành phần cơ giói nhẹ, đất chua( PHKCl<4). Đất Fp
ở Bảo Yên chủ yếu phân bố dọc theo các triền núi có độ cao trên 400m khu
vực sông Chảy.
+ Đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa : (F1): Loại đất này được hình
thành tại chỗ do quá trình canh tác luá nước nâu đời, do chế độ canh tác lúa
nước làm biến đổi tính chất về cả mặt lý, hóa, sinh học. Trên địa bàn huyện
Bảo Yên đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa phân bố chủ yếu ở các xã: Điện
Quan, Tân Tiến, Nghĩa Đô, Vĩnh Yên, Xuân Hoà.
+ Đất nâu vàng trên phù xa cổ (Fe): Chiếm tỷ lệ thấp nằm dọc sông
Hồng, đất nâu vàng được hình thành do quá trình bồi tích từ lâu đời hoặc do
quá trình biến đổi của dòng chảy, tầng đất dầy có màu nâu đậm, thành phần
cơ giới trung bình, hàm lượng dinh dưỡng cao.
* Nhóm đất đen( Rse): Có 718 ha chiếm 0,87% tổng diện tích tự nhiên
toàn huyện, phân bố chủ yếu ỏ xã điệm Quan, nằm trên các đồi, đỉnh bằng
hoặc chân sườn thấp . Đất đen được hình thành trên sản phẩm phong hoá của
21
22
đá Séc-pen-ti-nít, do đó hàm lượng Ca, Mg trong đất khá cao. Đất có màu
đen hoạc đen xám , ít chua, tỷ lệ sét trong đất cao do đó đất cứng , độ ẩm
cây héo cao về mùa khô.
* Đất phù xa: 1.332 ha chiếm 1,62% diện tích tự nhiên toàn huyện;
nhóm đất này bao gồm : Phù sa sông Hồng, phù sa sông Chảy và phù sa các
suối khác.
* Đất phù sa sông Hồng (Ph): Có 230 ha phân bố dọc 2 bên sông

23
trình khai thác phải chú ý các biện pháp chống sói mòn đất như các mô hình
ruộng bậc thang, canh tác theo phương thức nông lâm kết hợp và bền vững.
1.2. Về khí hâu
Bảo Yên nằm trong vùng thung lũng sông Hồng và sông Chảy, độ cao
trung bình so vơí mực nước biển không lớn (~ 400 m ) do đó khí hậu mang
tính chất nhiệt đới, nóng ẩm mưa nhiều.
- Một năm có 4 mùa, tuy nhiên chỉ có hai mùa rõ rệt : Mùa nóng từ
tháng 5 đến tháng 10, mùa nóng nhất là tháng 6,7; Mùa lạnh từ tháng 11 đến
tháng 4 năm sau, lạnh nhất vào tháng 1. Nhiệt độ trung bình tháng cao nhất ~
29
o C
, tháng thấp nhất ~ 15
o
c .
* Nắng: Bảo Yên là vùng có cường độ chiếu sáng cao so với các
huyện khác trong tỉnh. Kết quả quan trắc do trạm khí tượng Bảo Yên cho
thấy số giờ trung bình cả năm 1344 giờ , năm cao nhất lên đến 1600 giờ.
Số giờ nắng trung bình theo tháng có sự chênh lệch lớn giữa các mùa
( nóng, lạnh) trong năm, tháng 6 tháng 7 thường có từ 160 –235 giờ. Tháng 1
thường dao động từ 30 đến 100 giờ.
* Mưa: Lượng mưa trên địa bàn khá phong phú, mùa mưa, mùa khô
trùng với mùa nóng , mùa lạnh. Lượng mưa phân bố không đều qua các
tháng trong năm tháng 6,7 tổng lượng mưa trung bình 335 mm, có những
năm đến 550mm, tháng 2 thường dưới 40 mm. Tổng lượng mưa dao động
trong năm từ 1450 mm đến 1994 mm.
* Độ ẩm không khí: Độ ẩm không khí tương đối, bình quân hàng năm
dao động từ 84% đến 86% tháng cao nhất trong năm 89%, thấp nhất 81%.
* Gió: Gió mùa ảnh hưởng yếu, thường đến chậm hơn vùng đồng
bằng Bắc Bộ, hướng gió chủ yếu trong mùa đông, mùa hè là đông và tây.

3
/s) mực nước thấp ( 74,25m) ảnh
hưởng tới mực nước ngầm trong toàn vùng.
Sông Hồng là nguồn cung cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt của địa
bàn dọc hai bên sông. Nước sông Hồng có hàm lượng phù sa lớn( Mùa lũ
lượng phù sa 6000-8000g/m
3
, nước mùa cạn 50g/m
3
nước). Do đó các vùng
đất ven sông được phù sa bồi đắp có độ phì nhiêu màu mỡ, rất thuận lợi cho
việc sản xuất nông nghiệp.
- Sông Chảy: Sông Chảy bắt nguồn từ Vân Nam( Trung Quốc) chảy
qua địa phận các huyện: Si Ma Cai, Mường Khương, Bắc Hà, Bảo Yên.
Sông Chảy chảy qua địa phận huyện Bảo Yên với tổng chiều dài 37 km theo
hướng Tây Bắc- Đông Nam. Đoạn sông Chảy chảy qua huyện lòng sông sâu,
hẹp, nhiều thác ghềnh do đó ít có tác dụng trong sản xuất và đời sống dân
sinh . Sông chảy có lưu lượng nước thất thường( Mùa lũ 1670m
3
/s, mùa kiệt
17,6m
3
/s). Lượng phù sa trong nước không đáng kể do đó khả năng bồi đắp
phù sa thấp, chỉ tạo thành một số thung lũng kiểu hẻm vực. Tuy nhiêm trong
tiến trình phát triển kinh tế-xã hội sông Chảy có khả năng trong khai thác vật
liệu xây dựng cũng như xây dựng các tuyến du lịch sinh thái bằng đường
thuỷ. Ngoài 2 sông chính trên địa bàn còn có 11 con ngòi và hệ thống khe
suối nhỏ đều khắp trên lãnh thổ. Mạng lưới ngòi, khe, lạch là những yếu tố
quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và đời sống của đồng bào các dân tộc
vùng cao. Đặc biệt ngòi Nghĩa Đô có tác động rất lớn trong quá trình hình

T
Chỉ tiêu
Đơn vị
tính
Năm 2004
Năm
2005
Năm
2006
So sánh
Tăng
trưởng
2006/2004
1 Dân số người 74.239 75.370 76.463 103
2
Tổng sản phẩm XH
(GDP) tr.đồng 307.935 378.760 438.000 142,23
3 Tốc độ tăng trưởng GDP % 10,6 12,3 12,43 117,26
4 Cơ cấu GDP % 100 100 100 100
- Nông lâm nghiệp % 60,25 59,65 58 96,26
- Công nghiệp - XDCB % 15,84 16,05 17 107,32
- Thương mại - dịch vụ % 23,91 24,3 25 104,55
(1) Trích từ Báo cáo Đại hội Đảng bộ huyện Bảo Yên khoá XII (nhiệm kỳ 2000 – 2010)
25


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status