NGHIÊN cứu đặc điểm cấu TRÚC tái SINH tự NHIÊN của một số TRẠNG THÁI THẢM THỰC vật và đề XUẤT BIỆN PHÁP kỹ THUẬT NHẰM PHỤC hồi RỪNG - Pdf 20

- i -
MỤC LỤC
MỤC LỤC i
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 2
3. Mục tiêu đề tài 2
3.1. Mục tiêu tổng quát 2
3.2. Mục tiêu cụ thể 3
4. Đối tượng nghiên cứu 3
5. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 3
6. Ý nghĩa của đề tài 3
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 4
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 4
1.1.1.Trên thế giới 4
1.1.2. Ở Việt Nam 8
1.1.3. Nhận xét và đánh giá chung 13
1.2. Tổng quan khu vực nghiên cứu 15
1.2.1. Điều kiện tự nhiên 15
1.2.2. Điều kiện về kinh tế - xã hội 18
Chương 2 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 22
2.1. Nội dung nghiên cứu 22
2.1.1. Nghiên cứu hiện trạng phân bố và các đặc điểm chủ yếu của một
số trạng thái rừng tại xã Liên Minh và Tràng Xá tại huyện Võ Nhai, tỉnh
Thái Nguyên 22
2.1.2. Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc tầng cây gỗ của đối tượng nghiên
cứu 22
2.1.3. Nghiên cứu đặc điểm tái sinh tự nhiên và nhân tố ảnh hưởng tới tái
sinh của đối tượng nghiên cứu 22
2.1.4. Đề xuất và bước đầu áp dụng các biện pháp kỹ thuật phục hồi rừng
cho từng đối tượng rừng 22

Nội dung
IIb Trạng thái rừng IIb (rừng phục hồi)
TSTN Tái sinh tự nhiên.
OTC Ô tiêu chuẩn
D
1.3
Đường kính thân cây gỗ cao 1,3 m
H
vn
Chiều cao vút ngọn
D
t
Đường kính tán
ODB Ô dạng bản
QLBVR Quản lý bảo vệ rừng
Tht Thẩu tấu
Thn Thành ngạnh
Hđ Hu đay
Lx Lim xẹt
Ck Cò ke
Kh Kháo
Mn Mắc niễng
B Bứa
Cht Chẹo tía
Bđ Bồ đề
Nn Núc nác
- iii -
Vt Vạng trứng
S Sui
Mt Màng tang

Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên 40
Bảng 3.6. Tổ thành cây tái sinh trạng thái rừng IIa tại huyện
Võ Nhai 41
Bảng 3.7. Tổ thành cây tái sinh trạng thái rừng IIb tại huyện
Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên 42
Bảng 3.8. Kết quả nghiên cứu về triển vọng cây tái sinh 43
Bảng 3.9. Chất lượng, nguồn gốc cây tái sinh tại 2 xã nghiên
cứu 45
Bảng 3.10. Phân bố số cây theo cấp chiều cao 47
Bảng 3.11. Chỉ số đa dạng sinh học cây tái sinh rừng phục hồi
tại Võ Nhai 49
Bảng 3.12. Mật độ của cây bụi, thảm tươi tại huyện Võ Nhai,
tỉnh Thái Nguyên 51
Bảng 3.13. Độ nhiều (hay độ dầy rậm) thảm tươi tại huyện Võ
Nhai, tỉnh Thái Nguyên 51
Bảng 3.14. Cây bụi, thảm tươi trạng thái rừng IIa tại huyện Võ
Nhai 52
Bảng 3.15. Chất lượng tái sinh rừng phục hồi IIa tại huyện Võ
Nhai 53
Bảng 3.16. Ảnh hưởng của cây bụi, thảm tươi trạng thái rừng
IIb tại huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên 55
Bảng 3.17. Ảnh hưởng của độ tàn che đến sự phân bố tái sinh
trạng thái rừng IIb tại huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên 56
Bảng 3.18. Ảnh hưởng của độ dốc tới chất lượng cây tái sinh
trạng thái rừng IIb tại huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên 56
- v -
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 2.1. Sơ đồ các bước tiến hành nghiên cứu của đề tài. 24
Hình 2.2. Hình dạng, kích thước OTC và sơ đồ bố trí ODB
26

nghiêm

trọng,

những

diện

tích
đất

trống

đồi

núi trọc

tăng



nguyên

nhân

gây

ra

hiện

đều

bị

tác

động,

sự

tác

động

theo

hai hướng

chính

đó,



chặt

chọn
(chặt

cây


biến


các

vùng



đồng

bào

dân

tộc

thiểu

số

sinh

sống (lấy

gỗ

về



thác

trồng

cây
công

nghiệp,

phá

rừng

tự

nhiên

trồng

rừng công

nghi
ệp…).

Trong

hai

cách

vỡ,

rừng

nghèo
kiệt

về

trữ

lượng



chất

lượng,

nhưng vẫn

còn

khả

năng

phục

hồi.

phục

hồi.
Vai trò của rừng là rất to lớn, thế nhưng trong những năm vừa qua diện tích
rừng tự nhiên của chúng ta ngày càng giảm sút cả về số lượng và chất lượng. Theo
thống kê của Liên Hợp Quốc, hàng năm trên thế giới có 11 triệu ha rừng bị phá huỷ,
riêng khu vực Châu Á Thái Bình Dương hàng năm có 1,8 triệu ha rừng bị phá huỷ,
tương đương mỗi ngày mất đi 5000 ha rừng nhiệt đới. Ở Việt Nam, trong vòng 50
năm qua, diện tích rừng bị suy giảm nghiêm trọng. Năm 1943 độ che phủ của rừng
- 2 -
là 43%, đến năm 1993 chỉ còn 26%. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến mất rừng là do
chiến tranh, khai thác bừa bãi, đốt nương làm rẫy [3].
Huyện Võ Nhai là thuộc
huyện vùng cao của
tỉnh Thái Nguyên có diện tích
tự
nhiên là 839,23 km
2
; trong đó, đất lâm nghiệp chiếm trên 626,89 km
2
, đất nông
nghiệp 112,28 km
2
, đất phi nông nghiệp 203,28 km
2
và đất chưa sử dụng 163,9km
2
.
Nơi đây rừng đã bị tác động nghiêm trọng của con người làm cho diên tích rừng và
chất lượng rừng bị suy giảm. Những năm gần đây rừng và đất rừng đã được giao

tái sinh tự nhiên, cụ thể tập trung vào các đối tượng Trạng thái Ic; Trạng thái rừng
IIa và trạng thái rừng IIb.
5. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Địa điểm: Huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên
- Thời gian: Từ tháng 5 năm 2012 đến tháng 8 năm 2013
6. Ý nghĩa của đề tài
Nghiên cứu các qui luật tái sinh tự nhiên và bổ sung thêm tư liệu về tái sinh
rừng, phục hồi rừng để bảo vệ nguồn gen duy trì tính đa dạng sinh học và cân bằng
sinh thái trong vùng là hết sức cần thiết, do đó kết quả của nghiên cứu này sẽ góp
phần làm sáng tỏ đặc điểm tái sinh và khả năng phục hồi tự nhiên thảm thực vật tại
khu vực nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu là tư liệu quan trọng để tham khảo trong quá trình phục
hồi rừng tại địa điểm nghiên cứu là khuyến nghị giúp cho người dân địa phương có
những giải pháp phát triển rừng phục hồi một cách tốt nhất.
Thông qua nghiên cứu giúp cho tác giả có được phương pháp tổng hợp tài
liệu, hệ thống hóa những kiến thức đã được học.
- 4 -
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1.Trên thế giới
Tái sinh rừng, phục hồi rừng là một trong những nội dung quan trong nhất của
ngành lâm nghiệp. Lịch sử nghiên cứu tái sinh rừng trên thế giới đã trải qua hàng
trăm năm nhưng với rừng nhiệt đới vấn đề này được tiến hành chủ yếu từ những
năm 30 của thế kỷ trước trở lại đây. Nghiên cứu về tái sinh rừng là những nghiên
cứu rất quan trọng làm cơ sở cho các biện pháp kỹ thuật lâm sinh xây dựng và phát
triển rừng. Tái sinh rừng là một quá trình sinh học mang tính đặc thù của hệ sinh
thái, nó đảm bảo cho nguồn tài nguyên có khả năng tái sản xuất mở rộng nếu con
người nắm bắt được quy luật tái sinh và điều khiển nó phục vụ cho kinh doanh
rừng. Vì vậy, tái sinh rừng trở thành vấn đề then chốt trong việc xác định các

- Nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến tái sinh. Các nhân tố ảnh hưởng đến
tái sinh được phân tích và chia thành hai nhóm:
Nhóm nhân tố sinh thái ảnh hưởng đến tái sinh và phục hồi rừng không có sự
can thiệp của con người (Baur G. N, 1962; Anden. S (1981)[2]
Theo Aubréville, trong các nhóm yếu tố sinh thái phát sinh quần thể thực vật,
nhóm yếu tố khí hậu - thủy văn là nhóm yếu tố chủ đạo, quyết định hình thái và cấu
trúc của các kiểu thảm thực vật. Nhóm khí hậu - thủy văn gồm các yếu tố quan
trọng nhất là nhiệt độ, ánh sáng, lượng mưa, độ ẩm, chế độ gió,…
Bechse, nhà lâm học người Đức cho rằng “ánh sáng là chiếc đòn bẩy mà nhà
lâm học dùng để điều khiển sự sống của rừng theo hướng có lợi về kinh tế.
Độ khép tán của quần thụ ảnh hưởng trực tiếp đến mật độ và sức sống của cây
con. Andel.S (1981) chứng minh độ đầy tối ưu cho sự phát triển bình thường của
cây gỗ là 0,6 - 0,7. V.G.Karpov (1969) còn khẳng định “ độ khép tán của quần thụ
ảnh hưởng trực tiếp đến mật độ và sức sống của cây con”. Ngoài những nhân tố
sinh thái thì trong tái sinh rừng các nhân tố như: Thảm tươi, cây bụi, động vật ăn hạt
- 6 -
cũng có ảnh hưởng rõ rệt đến tái sinh tự nhiên (Xannikov (1976), Vipper (1973),
Mishra và Sharma (1994).
Khi nghiên cứu phân tích ảnh hưởng của các nhân tố sinh thái đến tái sinh tự
nhiên. Trong đó nhân tố ánh sáng (thông qua độ tàn che của rừng), độ ẩm của đất,
kết cấu quần thụ, cây bụi, thảm tươi được đề cập thường xuyên. Baur G.N cho rằng,
trong rừng nhiệt đới sự thiếu hụt ánh sáng ảnh hưởng đến phát triển của cây con còn
đối với sự nảy mầm, ảnh hưởng này thường không rõ ràng [2].
∗ Nhóm nhân tố sinh thái ảnh hưởng đến tái sinh và phục hồi rừng có sự can
thiệp của con người. Các nhà lâm học như: Gorxenhin (1972, 1976); Belop (1982)
đã xây dựng thành công nhiều phương thức tái sinh và phục hồi rừng nghèo kiệt;
đáng chú ý là một số công trình nghiên cứu của Maslacop E.L (1981) về "phục hồi
rừng trên các khu khai thác", Melekhop I.C (1966) về "ảnh hưởng của cháy rừng tới
quá trình tái sinh phục hồi rừng", Pabedinxkion (1966) về "phương pháp nghiên cứu
quá trình phục hồi rừng". Myiawaki (1993), Yu cùng các cộng sự (1994), Goosem

sinh rừng nhiệt đới được thảo luận nhiều nhất là hiệu quả của các phương thức xử lý
lâm sinh liên quan đến tái sinh của các loài cây mục đích ở các kiểu rừng. Từ kết
quả nghiên cứu kiểu tái sinh các nhà lâm sinh học đã xây dựng thành công nhiều
phương thức chặt tái sinh như: Công trình của Bernard (1954, 1959), Wyatt Smith
(1961, 1963) với phương thức kinh doanh rừng đều tuổi ở Mã Lai; Nicholson
(1958) ở Bắc Borneo; Taylor (1954), Jones (1960) phương thức chặt dần tái sinh
dưới tán ở Nijêria và Gana; Barnarji (1959) với phương thức chặt dần nâng cao vòm
lá ở Andamann; Donis và Maudouz (1951, 1954) với phương thức đồng nhất hóa
tầng trên ở Java.
Các phương thức lâm sinh cho phục hồi và phát triển rừng tự nhiên có hai
dạng chính: (i) Duy trì cấu trúc rừng tự nhiên không đều tuổi bằng cách lợi dụng lớp
thảm thực vật tự nhiên hiện có và sự thuận lợi về điều kiện tự nhiên để thực hiện tái
sinh tự nhiên, xúc tiến tái sinh tự nhiên hoặc trồng bổ sung. Ngoài ra còn có thể sử
dụng phương thức chặt chọn từng cây hay từng đám, phương thức cải thiện quần
thể và chặt nuôi dưỡng rừng tự nhiên để dẫn dắt rừng có cấu trúc gần với cấu trúc
của rừng tự nhiên nguyên sinh. (ii)- Tác động rừng theo hướng đều tuổi, có một
hoặc một số loài cây bằng phương thức chủ yếu là cải biến tổ thành rừng tự nhiên,
- 8 -
tạo lập rừng đều tuổi bằng tái sinh tự nhiên đều tuổi, như các phương thức chặt dần
tái sinh dưới tán rừng nhiệt đới; phương thức cải tạo rừng bằng chặt trắng trồng lại;
phương thức trồng rừng kết hợp với nông nghiệp (Taungya).
1.1.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, tái sinh rừng đã đươc quan tâm nghiên cứu từ những thập kỷ 60
của thế kỷ trước. Kết quả nghiên cứu có thể tóm tắt như sau:
- Nghiên cứu về đặc điểm tái sinh rừng: Các kết quả nghiên cứu được
Nguyễn Vạn Thường (1991) tổng kết về tình hình tái sinh tự nhiên của một số khu
rừng ở miền Bắc Việt Nam; hiện tượng tái sinh dưới tán rừng của một số loài cây
gỗ đã tiếp diễn liên tục, không mang tính chu kỳ, sự phân bố số cây tái sinh không
đều tuổi, số cây mạ có chiều cao < 20cm chiếm ưu thế rõ rệt so với lớp cây ở cấp
kích thước khác nhau. Những loại cây gỗ mềm, ưa sáng mọc nhanh có khuynh

từ hạt và chồi sẵn có, kể cả trong trường hợp tái sinh nhân tạo.
- Nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến tái sinh: Theo Thái Văn Trừng
(1978) đã xây dựng quan niệm “Sinh thái phát sinh quần thể ” trong thảm thực vật
rừng nhiệt đới và vận dụng để xây dựng biểu phân loại thảm thực vật rừng Việt
Nam. Theo tác giả một công trình nghiên cứu về thảm thực vật mà không đề cập
đến hoàn cảnh thì đó là một công trình hình thức, không có lợi ích thực tiễn. Trong
các nhân tố sinh thái thì ánh sáng là nhân tố quan trọng khống chế và điều khiển quá
trình tái sinh tự nhiên cả ở rừng nguyên sinh và rừng thứ sinh [20].
Nếu các điều kiện khác của môi trường như đất rừng, nhiệt độ, độ ẩm dưới tán
rừng chưa thay đổi thì tổ hợp các loài cây tái sinh không có những biến đổi lớn và
cũng không diễn thế một cách tuần hoàn trong không gian và theo thời gian mà diễn
thế theo những phương thức tái sinh có qui luật nhân quả giữa sinh vật và môi
trường.
Một số tác giả trong nước đã nghiên cứu về mối quan hệ giữa địa hình và khả
năng tái sinh tự nhiên của thực vật: Ngô Quang Đê, Lê Văn Toán, Phạm Xuân Hoàn
(1994) nghiên cứu mật độ cá thể và số lượng loài cây phục hồi sau nương rẫy bỏ hóa
- 10 -
tại Con Cuông - Nghệ An; Lâm Phúc Cố (1996) nghiên cứu ở Púng Luông - Yên
Bái; Phùng Tửu Bôi - Trần Xuân Thiệp (1997) nghiên cứu ở vùng Bắc Trung Bộ.
Mặt khác, theo Thái Văn Trừng [20] một kiểu thảm thực vật có xuất hiện hay
không trước hết phụ thuộc vào khu hệ thực vật ở đó và điều kiện khí hậu thổ
nhưỡng thích hợp. Việc tái sinh phục hồi lại rừng trên đất chưa có rừng ngoài việc
bị chi phối bởi khu hệ thực vật thì nó còn chịu ảnh hưởng bởi khoảng cách từ nơi đó
đến các khu rừng lân cận. Thực vật có khả năng tự phát tán để gieo giống hoặc gieo
giống nhờ gió, nhờ nước, nhờ động vật. Tuy vậy, phạm vi phát tán để gieo giống
của bất kỳ cách thức nào cũng không phải là vô hạn, nên khoảng cách càng xa thì
khả năng tái sinh của thực vật càng kém vì càng xa thì mật độ hạt giống đưa đến
càng thấp. Phạm Ngọc Thường (2001) [18] đã nghiên cứu mối liên quan giữa
khoảng cách từ nguồn giống tự nhiên đến khu vực tái sinh trên đất sau canh tác
nương rẫy và kết luận: “khoảng cách từ nơi tái sinh đến nguồn cung cấp giống càng

cây tái sinh theo cấp chiều cao có dạng một đỉnh, từ giai đoạn II (3-6 năm), đến giai
đoạn V (12-15 năm) được mô tả bởi phân bố Weibull. Phân bố số cây theo mặt phẳng
ngang dưới 7 năm là phân bố cụm, từ 7-15 năm là phân bố ngẫu nhiên và có xu
hướng tiến dần đến phân bố đều. Mật độ tái sinh giảm dần theo thời gian phục hồi.
Từ kết quả trên tác giả cho biết nếu sau nương rẫy thảm thực vật tái sinh không bị
phá hoại thì rừng thứ sinh được phục hồi thông qua con đường tái sinh tự nhiên là
thuận lợi. Tuy nhiên, do tổ thành loài đơn giản nên trong điều kiện cho phép cần xúc
tiến tái sinh tự nhiên bằng biện pháp tra dặm hạt giống, phát dây leo bụi dậm, kết hợp
trồng bổ sung cây có giá trị kinh tế để nâng cao năng suất chất lượng rừng [19].
- Nghiên cứu về điều tra, đánh giá tái sinh tự nhiên: Từ năm 1962 - 1967
Cục điều tra quy hoạch rừng (nay là Viện Điều tra quy hoạch rừng) đã điều tra tái
sinh tự nhiên trên một số vùng thuộc tỉnh Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An, Yên Bái
và Quảng Ninh với sự tư vấn của chuyên gia Hà Cự Trung - Trung Quốc. Phương
pháp tiến hành là điều tra khu tiêu chuẩn điển hình của các trạng thái rừng, trên cơ
sở sử dụng ô điều tra 2.000 m
2
diện tích đo đếm tái sinh 100 - 125 m
2
kết hợp với
- 12 -
điều tra theo tuyến. Dựa vào các tài liệu đã thu thập ngoài rừng, các tác giả tiến
hành phân tích, tính toán những chỉ tiêu cây đứng và cây tái sinh, phân chia các loại
hình thực vật rừng và dựa trên cơ sở đó nhận xét thực trạng rừng, đánh giá tình hình
tái sinh tự nhiên và đề xuất biện pháp kinh doanh [23].
Trong thời gian từ năm 1962 đến năm 1969, Viện Điều tra - Quy hoạch rừng đã
điều tra tái sinh tự nhiên theo các "loại hình thực vật ưu thế" rừng thứ sinh ở Yên Bái
(1965), Hà Tĩnh (1966), Quảng Bình (1969) và Lạng Sơn (1969). Đáng chú ý là kết
quả điều tra tái sinh tự nhiên ở vùng sông Hiếu (1962-1964) bằng phương pháp đo
đếm điển hình. Từ kết quả điều tra tái sinh, dựa vào mật độ cây tái sinh, Vũ Đình Huề
(1969) đã phân chia khả năng tái sinh rừng thành 5 cấp, rất tốt, tốt, trung bình, xấu và

Trong một công trình nghiên cứu về cấu trúc, tăng trưởng trữ lượng và tái sinh tự
nhiên rừng thường xanh lá rộng hỗn loài ở ba vùng kinh tế (sông Hiếu, Yên Bái và
Lạng Sơn), Nguyễn Duy Chuyên (1988) đã khái quát đặc điểm phân bố của nhiều loài
cây có giá trị kinh doanh và biểu diễn bằng các hàm lý thuyết. Từ đó làm cơ sở định
hướng các giải pháp lâm sinh cho các vùng sản xuất nguyên liệu. Tiếp theo, sự ra đời
của thuật ngữ phục hồi rừng bằng “khoanh nuôi xúc tiến tái sinh” những năm 1990 được
coi như một bước tiến vượt bậc về mặt khoa học trong phục hồi rừng khi hàng loạt công
trình nghiên cứu về lĩnh vực này được triển khai và tập trung theo hai hướng chủ yếu.
Tập trung nghiên cứu triển khai bao gồm việc phân loại đối tượng, đề xuất các
biện pháp cũng như các quy trình kỹ thuật nhằm phục hồi rừng bằng khoanh nuôi; điển
hình trong số đó là hai đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước thuộc Chương trình lâm nghiệp
tổng hợp, mã số 04.01, giai đoạn 1986-1990 và Chương trình khôi phục và phát triển
rừng, giai đoạn 1991-1995. Một số nghiên cứu điển hình khác của Trung tâm Khoa học
sản xuất lâm nghiệp Tây Bắc (1992), Trần Đình Đại (1990), Trần Đình Lý (1995),
Viện điều tra quy hoạch rừng (1998), Phạm Ngọc Thường (2001-2003), v.v
Kết quả nghiên cứu của các đề tài trên không chỉ là tiền đề cho các hoạt động
khoanh nuôi phục hồi rừng mà còn đặt nền móng cho sự ra đời của các quy phạm về
phục hồi rừng đã được Nhà nước ban hành trong những năm 1990, bao gồm quy
phạm "Các giải pháp kỹ thuật lâm sinh áp dụng cho rừng sản xuất gỗ và tre nứa" và
"Phục hồi rừng bằng khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên kết hợp trồng bổ sung".
1.1.3. Nhận xét và đánh giá chung
- 14 -
Điểm qua các công trình nghiên cứu ở các nước trên thế giới cho thấy vì còn
thiếu những nghiên cứu cụ thể về tái sinh cho từng trạng thái thực vật khác nhau, ở
vị trí địa lý khác nhau mà những biện pháp kỹ thuật lâm sinh thường không được áp
dụng hoặc được áp dụng một cách hình thức và không đạt được hiệu quả như mong
muốn. Bên cạnh đó, các yếu tố về kinh tế - xã hội nhạy cảm nhất với các giải pháp
phục hồi rừng thường liên quan đến chính sách về quyền sở hữu và sử dụng rừng,
chia sẻ lợi ích từ rừng, thuế tài nguyên, sự tham gia của cộng đồng trong quản lý
rừng, vì vậy, trong một số trường hợp, người ta đã coi trọng những giải pháp kinh tế

1.2. Tổng quan khu vực nghiên cứu
1.2.1. Điều kiện tự nhiên
1.2.1.1. Vị trí địa lý
Huyện Võ Nhai là huyện vùng cao của tỉnh Thái Nguyên, nằm ở phía Đông
Bắc của tỉnh Thái Nguyên có vị trí địa lý 105
o
17

– 106
o
17

kinh độ đông; 21
o
36


21
o
56

vĩ độ bắc. Ranh giới của huyện Võ Nhai: Phía Bắc giáp huyện Chợ Mới và Na
Rì tỉnh Bắc Kạn; Phía Nam giáp huyện Yên Thế tỉnh Bắc Giang; Phía Tây giáp huyện
Đồng Hỷ và huyện Phú Lương; Phía Đông giáp huyện Bình Gia, Bắc Sơn, Hữu Lũng
tỉnh Lạng Sơn. Huyện có 14 xã và 1 thị trấn (11 xã vùng cao, 4 xã, thi trấn miền núi).
1.2.1.2. Địa hình
Địa hình, địa thế của huyện Võ Nhai khá phức tạp chủ yếu là đồi núi hình
thành 3 vùng rõ rệt: Vùng núi cao gồm 6 xã: Nghinh Tường, Sảng Mộc, Thượng
Nung, Cúc Đường, Thần Sa, Vũ Chấn có đất rừng đa dạng với tập đoàn cây phong
phú tạo nên cảnh đẹp tự nhiên. Nơi đây có khối núi đá vôi đồ sộ ở xã Thượng Nung

thấp ≤ 8
o
đất bồi tụ ven sông suối và dốc tụ ven chân đồi núi. Loại đất này có tầng
dày, thành phần cơ giới từ thịt nặng hoặc đất cát pha.
Tóm lại, khu vực nghiên cứu do địa hình chia cắt mạnh, độ dốc bình quân lớn
nên dễ bị xói mòn, rửa trôi đất mặt.
Đất đai là nguồn tài nguyên đặc biệt, là tư liệu sản sản xuất và không thể thay thế
được trong sản xuất nông nghiệp. Huyện Võ Nhai người dân sinh sống chủ yếu bằng
nghề sản xuất nông lâm nghiệp nên diện tích đất và chất đất có ý nghĩa rất quan trọng, nó
cho biết việc bố trí những cây trồng, vật nuôi nào phù hợp và đem lại hiệu qủa kinh tế
cao nhất. Để đánh giá được hình hình sử dụng đất của huyện Võ Nhai trong vùng
nghiên cứu qua bảng 1.1: Tình hình sử dụng đất đai của huyện Võ Nhai năm 2005-2012:
1.2.1.4. Khí hậu thủy văn
* Khí hậu
- 17 -
Khí hậu khu vực nghiên cứu mang nét chung của khí hậu vùng Đông Bắc Việt
Nam thuộc miền nhiệt đới gió mùa, mùa hè nóng ẩm, mưa nhiều, bắt đầu từ tháng
4 đến tháng 10, nhiệt độ cao, nắng nóng gay gắt, lượng mưa lớn, cường độ mưa
mạnh thường gây lũ lụt lớn vào tháng 7 hàng năm.
Mùa đông lạnh bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, thường có các đợt
gió mùa Đông Bắc hanh khô, ít mưa.
Chế độ nhiệt: Chế độ gió mùa gây ra sự phân hoá theo mùa rõ rệt trong chế độ nhiệt
của huyên Võ Nhai. Theo số liệu thì nhiệt độ trung bình năm 23,7
0
C. Tháng có nhiệt độ
cao nhất là 29,4
0
C, tháng có nhiệt độ thấp nhất là 14,2
0
C.

11 22,5 48,8 81,0 66,8 75,2
12 18,0 29,4 80,0 50,9 33,9
Bình quân năm 23,7 153,16 81,2 78,45 98,9
(Nguồn: TT quan trắc khí tượng thủy văn tỉnh Thái Nguyên)
Thủy văn: Nguồn nước trên địa bàn huyện Võ Nhai rất phong phú nhưng phân
bố không đồng đều, ngoài nguồn nước mặt từ sông, suối còn có các mạch nước
ngầm từ các hang động trong núi đá vôi.
Võ Nhai có hai con sông nhánh thuộc hệ thống Sông Cầu và Sông Thương
được phân bố ở phía Bắc và phía Nam huyện.
- Sông Nghinh Tường bắt nguồn từ dãy núi vòng cung Bắc Sơn - Lạng Sơn
chảy qua các xã Nghinh Tường, Sảng Mộc, Thượng Nung, Thần Sa rồi đổ ra Sông
Cầu khoảng 40% chiều dài dòng chảy là vùng núi đá vôi, thung lũng thường hẹp và
sâu, vách đá dựng đứng.
- Sông Rong bắt nguồn từ xã Phú Thượng chảy qua Thị trấn Đình Cả, xã Tràng Xá,
Dân Tiến, Bình Long sang địa phận tỉnh Bắc Giang và đổ về Sông Thương.
1.2.2. Điều kiện về kinh tế - xã hội
Huyện Võ Nhai có tổng diện tích tự nhiên là 83.923,14 ha. Dân số là 65.583
người chủ yếu sống bằng nghề nông nghiệp và lâm nghiệp, có 08 dân tộc anh em
chung sống là: Kinh, Tày, Nùng, Dao, Mông, Sán Chí, Cao Lan, Hoa, dân trí giữa
các vùng không đồng đều, tập quán canh tác giữa các dân tộc cũng khác nhau.
Trong đó dân tộc kinh chiếm 34,17%, dân tộc tày chiếm 29,8%, dân tộc Nùng
chiếm 14,5%, còn lại các dân tộc khác chiếm 8,7%. Mỗi một dân tộc có tập quán
sinh hoạt riêng nhưng đều có điểm chung nổi bật là vẫn giữ được nét văn hóa truyền
thống đặc trưng của dân tộc mình sinh sống hòa thuận. một số dân tộc cư trú sinh
sống ở vùng cao, vùng sâu thiếu đất canh tác nông nghiệp, tập quán canh tác chủ
yếu là phát nương làm rẫy.
Do điều kiện địa lý trung tâm huyện cách trung tâm của tỉnh 45km về phía
bắc, có quốc lộ 1B chạy qua địa bàn huyện , đã tạo điều kiện tốt cho sự phát triển.
Hiện nay 100% đơn vị xã, thị trấn của huyện đều có đường ô tô đi đến trung tâm xã.
Tuy vậy, cơ sở hạ tầng của các xã nói chung còn nghèo, đặc biệt là hệ thống thuỷ

Năm 2012 là 4.181 lao động, lao động nông nghiệp là 3.931 lao động chiếm
94,02%, lao động phi nông nghiệp là 250 lao động chiếm 5,97%.
* Về giao thông:Liên Minh là địa phương còn gặp nhiều khó khăn trong công
tác phát triển giao thông như: tuyến đường xóm Nác xã Liên Minh đi Hợp Tiến -
Đồng Hỷ, đường liên thôn tuyến đường xóm Thâm + xóm Nho + xóm Khuôn Đã, tu
sửa cầu treo Đồng Danh đi Kẹ, nâng cấp đập Khuôn Nang. Các tuyến đường đất,
đá, chưa được bê tông hóa.
* Về thủy lợi: Hệ thống thủy lợi của xã cũng còn nhiều hạn chế, kênh mương
được xây dựng kiên cố 540 m, chủ yếu nguồn nước tưới còn phụ thuộc vào tưới tiêu
nước tự nhiên. Là một xã vùng cao của huyện Võ Nhai, xã Liên Minh mặc dù có
tiềm năng đất đai khá lớn nhưng một phần diện tích của địa phương còn phải chịu
tình trạng thiếu nước vào mùa khô. Cuộc sống của người dân sống gần rừng vẫn
trong tình trạng nghèo đói và phụ thuộc rất lớn vào rừng. Điều này gây khó khăn
không nhỏ trong công tác quản lý bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng ở địa phương.
- Do chưa khai thác, phát huy hết lợi thế của địa phương nên phát triển kinh tế
xã hội chưa tương xứng với tiềm năng, phát triển mạnh kinh tế đặc biệt là kinh tế
lâm nghiệp, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống người dân trong
huyện nói chung và trong xã nói riêng đặc biệt là người dân nông thôn miền núi.
- Điều kiện kinh tế - xã hội trong thời gian qua đã có những bước phát triển,
ổn định, hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển đồng bộ, đặc biệt ở các vùng nông thôn,
miền núi. Với điều kiện giao thông thuận tiện, có tiềm năng lớn về đất đai, lao
động, trong những năm qua đã thu hút được một lực lượng lao động lớn vào sản
xuất nông - lâm nghiệp, đặc biệt là phát triển rừng.
b) Khái quát xã Tràng Xá
Xã có 20 xóm, với tổng diện tích tự nhiên là 4.753,56 ha, nằm ở vùng núi của
huyện Võ Nhai, được xác định là vùng có tiềm năng thế mạnh để phát triển sản xuất
Nông - Lâm nghiệp kết hợp, chăn nuôi đại gia xúc.
Địa hình núi cao bị chia cắt mạnh bởi hệ thống núi đá, phần lớn là núi đá vôi
(chiếm 60%) độ dốc lớn (đa phần từ 25% trở lên) và các dòng chảy tự nhiên tạo


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status