nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng ngộ độc chì ở trẻ em điều trị tại trung tâm chống độc bệnh viện bạch mai - Pdf 22

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngộ độc chì là một trong những bệnh lý ngộ độc nguy hiểm và xảy ra ở
nhiều nơi trên toàn thế giới, cả những nước phát triển và đang phát triển.
Nguyên nhân chính là do ô nhiễm môi trường và các tai nạn sinh hoạt. Khi cơ
thể sinh học bị phơi nhiễm chì, chất độc này sẽ ảnh hưởng đến hầu hết các cơ
quan như thần kinh, máu, thận, tiêu hóa, xương, miễn dịch, …tùy thuộc vào
mức độ chì máu và lứa tuổi.
Trẻ em bị ngộ độc chì có thể bị tổn thương nặng nề như co giật, hôn
mê, viêm não, suy thận… thậm chí tử vong. Theo các tài liệu khoa học, ở trẻ
em có nồng độ chì máu lớn hơn 70 μg/dl thường gây hội chứng não cấp ở trẻ
nhỏ, trong khi đó hội chứng não cấp dễ gây tử vong và di chứng thần kinh,
tâm thần nặng với tỷ lệ tử vong là 65% khi chưa có thuốc gắp chì và giảm
xuống dưới 5% khi có thuốc kháng độc đặc hiệu có tác dụng gắp chì và loại
bỏ ra khỏi cơ thể. Khoảng 25 đến 30% trẻ sẽ bị di chứng vĩnh viễn gây chậm
phát triển trí tuệ, rối loạn chức năng tâm thần, ảnh hưởng tới hành vi.[10] [18]
Ngộ độc chì ở bệnh nhi là một dạng bệnh lý không dễ chẩn đoán xác
định nếu không nghĩ đến bệnh này. Nhiều trường hợp bệnh nhi bị ngộ độc chì
có nồng độ chì máu ở mức khá cao nhưng biểu hiện lâm sàng thường kín đáo
hoặc không có triệu chứng. Không những vậy, khi có triệu chứng nặng như co
giật, hôn mê, thiếu máu… lại thường chẩn đoán nhầm với các bệnh như viêm
não, viêm màng não, động kinh, thiếu máu chưa rõ nguyên nhân… Ngoài ra,
chì còn có nhiều ảnh hưởng có hại lâu dài đến sức khỏe kể cả khi phơi nhiễm
ở nồng độ thấp như gây mất tập trung, giảm sự chú ý, giảm khả năng học tập,
thay đổi hành vi, tăng huyết áp, suy thận, độc cho hệ thống miễn dịch và cơ
quan sinh sản [37]. Vì vậy, cần làm xét nghiệm chì sàng lọc cho các đối tượng
ở những vùng có yếu tố nguy cơ để chẩn đoán và điều trị sớm.
2
Trên thế giới, ngộ độc chì trẻ em thường do tình trạng ô nhiễm môi
trường sống như đất, không khí, nước… nhưng ở Việt Nam và Trung Quốc
lại thường do từ thuốc đông y, đây là một tình trạng đáng báo động đòi hỏi

Người ta sử dụng chì trong rất nhiều ngành nghề, ví dụ như trong sản
xuất ắc quy, tạo nên chất nhuộm trắng trong sơn, là thành phần màu trong
tráng men đặc biệt là tạo màu đỏ và vàng [3], dùng làm các tấm ngăn để
phòng chống phóng xạ hạt nhân, và thường được sử dụng trong nhựa
PVC [22], sản lượng khai thác quặng chì khoảng 80,000 tấn/ năm.
Bình thường không có chì trong cơ thể con người và không có chức
năng sinh lý, nồng độ lý tưởng trong máu là 0 μg/dl . Khi tiếp xúc ở một
mức độ nhất định, chì là chất độc đối với động vật cũng như con người. Nó
gây tổn thương cho hệ thần kinh và gây ra rối loạn hoạt động của tế bào
4
não. Tiếp xúc ở mức cao cũng gây ra rối loạn qua trình sinh tạo máu ở
động vật. Nhiễm độc chì đã được ghi nhận từ thời La Mã cổ đại, Hy Lạp cổ
đại, và Trung Quốc cổ đại [9].
Chì hấp thu vào cơ thể con người qua 3 con đường : hô hấp, tiêu hóa,
da niêm mạc, trong đó 2 con đường chính là hô hấp và tiêu hóa. [22].
Hấp thụ chì đường hô hấp phụ thuộc vào kích thước, tính hòa tan,
khối lượng của hạt chì, có khoảng 30 đến 40 % chì được hấp thu vào máu.
Chì hấp thu qua đường hô hấp do hít phải bụi, khói, hơi có chì, trẻ em tiếp
xúc với các chất độc trong khí thở nhiều hơn so với người lớn (diện tích
tiếp xúc ở đường hô hấp và thể tích khí hít thở cho mỗi đơn vị cân nặng của
trẻ lớn hơn), chiều cao trẻ thấp hơn nên hít thở không khí ở gần mặt đất
hơn nơi có nồng độ chì cao hơn. Tốc độ lắng đọng chì ở phổi ở trẻ em cao
gấp 2,7 lần so với người lớn. Phần lớn (gần 100%) hơi chì hoặc khói chì
được hấp thu trực tiếp thông qua phổi.
Trẻ em nhiễm chì qua đường tiêu hóa do ăn, uống, do bàn tay (không vệ
sinh tay trước khi ăn uống, đưa tay lên miệng) hoặc ngậm, mút các đồ vật có chì.
Trẻ em hấp thu chì qua đường tiêu hóa nhiều hơn người lớn, có khoảng 10 đến
15% số lượng chì có trong thức ăn được hấp thu vào máu ở người lớn qua dạ
dày ruột, trong khi đó hấp thu chì ở trẻ em có thể lên tới 40%.
Ngoài ra sự hấp thu của chì còn phụ thuộc vào thời gian vận chuyển

trong xương và răng chiếm hơn 90% tổng số lượng chì trong cơ thể ở người
lớn, ở trẻ em số lượng khoảng 75%. Trong các mô khoáng chì phân bố không
đều, và tích tụ nhiều nhất vào vùng đang có hiện tượng canxi hóa mạnh xảy
ra. Xương được xem như một ngăn đôi, với một ngăn tương đối nông bất ổn
định (bè xương, xương xốp) có thời gian bán thải là 90 ngày và một ngăn sâu
ổn định hơn (vỏ xương) có thời gian bán thải là 10 đến 30 năm .[10] Chì trong
ngăn nông không ổn định dễ dàng trao đổi giữa xương và máu, còn trong
ngăn sâu ổn định thì thời gian tích lũy có thể kéo dài trong nhiều thập kỷ.
6
Trong thời điểm căng thẳng sinh lý, cơ thể có thể huy động chì trong xương
vào máu làm tăng nồng độ chì máu.
Chì được đào thải chủ yếu qua thận (khoảng 65%) và tiêu hóa (khoảng
35%), ngoài ra còn đào thải qua mồ hôi, tóc và móng tay nhưng không đáng
kể. Trẻ em giữ lại chì trong cơ thể nhiều hơn so với người lớn, trẻ giữ lại tới
33% số lượng chì trong khi ở người lớn 1 đến 4%. Nói chung chì đảo thải khá
chậm, ước tính thời gian bán thải là 10 năm [9]. Số lượng chì sẽ được tích lũy
trong cơ thể, đây là nguyên nhân gây ngộ độc chì kéo dài và việc điều trị mất
tốn thời gian.
1.1.2. Cơ chế gây ngộ độc của chì
- Trên huyết học:
Chì có nhiều ảnh hưởng khác nhau lên huyết học bao gồm:
+ Ức chế các enzym tham gia trong quá trình tổng hợp nhân Hem
của hemoglobin: ALA synthetase, ALA dehydratase, Ferrochelatase
+ Tăng thải qua đường niệu porphyrins, coproporphyrins, σ-
aminolevulinic acid (ALA), và zinc- protoporphyrin.
+ Ức chế tổng hợp erythropoietin do chì làm tổn thương đến thận.
+ Ức chế enzym Na-K ATPase và pyrimidine-5’-nucleotidase gây
ảnh hưởng đến chuyển hóa năng lượng của hồng cầu → thay đổi tính chất
màng hồng cầu → Thời gian trung bình của hồng cầu giảm.
+ Ức chế pyrimidine-5’-nucleotide làm rối loạn chuyển hóa trong

máu não, và ức chế hệ cholinergic (điều tiết glutamate liên quan đến màng
synap thần kinh).
+ Chì ảnh hưởng nhiều đến chuyển hóa trong hệ thần kinh, bao gồm các
hệ glutamatergic, dopaminergic, và cholinnergic [9]. Tất cả các hệ thống này
đóng vai trò quan trọng trong bề mặt khớp, chuyển hóa tế bào não liên quan
đến chức năng nhận thức và trí nhớ.
+ Trong trường hợp nặng có thể gây phù não và tăng áp lực nội sọ.
+ Chì ảnh hưởng lên thần kinh cảm giác ít hơn thần kinh vận động
+ Nghiên cứu trên động vật: có tổn thương tế bao Schwann, thoái hóa
myelin và sợi trục.
- Trên tiêu hóa:
+ Ảnh hưởng của chì lên tiêu hóa phụ thuộc vào nồng độ chì máu,
9
+ Cơ chế là ảnh hưởng đến cơ trơn đường tiêu hóa, nếu nặng có thể
gây ra cơn đau bụng chì do co thắt cơ trơn và co cứng thành bụng.
+ Hủy hoại tế bào gan do rối loạn trong quá trình khử độc của gan
(làm tổn thương tế bào cytocrom P450) và sinh tổng hợp protein của tế bào gan.
- Trên hệ tiết niệu:
+ Khi chì được đào thải qua thận, chì gắn với các protein vận
chuyển trên bề mặt của tế bào ống thận tạo phức hợp chì-protein và dễ dàng
đi vào tế bào ống thận, gây rối loạn chuyển hóa tế bào (hô hấp tế bào và năng
lượng ), đặc trưng trong hội chứng Fanconilike gồm protein niệu, đường niệu
và phosphate niệu.
+ Hoại tử tế bào ống thận cấp khi ngộ độc chì cấp do nồng độ lớn
chì được đào thải gây tổn thương trực tiếp tế bào ống thận.
+ Hạn hấp thu canxi ở ống thận do ức chế enzym hydroxylase, là
enzym xúc tác cho 25-hydroxy vitamin D thành 1,25- hydroxy vitamin D →
làm hạn chế hấp thu và chuyển hóa vitamin D.
+ Giảm đào thải axit uric qua đường niệu → tăng lắng đọng tinh thể
urat tại các khớp → triệu chứng của bệnh gout : sưng đau và biến dạng khớp

quan đến môi trường đã trở nên phổ biến trở lại, đặc biệt là phát minh ra
sơn có chứa chì được sử dụng trong thời gian rất dài. Trong thế kỷ 20, tình
trạng ngộ độc chì nổi bật rõ rệt do phát minh ra xăng có pha chì, đã đào
thải ra môi trường sống một số lượng lớn chì, bên cạnh đó là tình trạng sử
dụng các vật dụng bảo quản thực phẩm và đồ uống lon có tráng chì. Ngộ
độc chì chủ yếu từ đường tiêu hóa (thức ăn hoặc nước uống có nhiễm chì);
nhưng cũng có thể xảy ra sau khi vô tình nuốt phải các loại đất hoặc bụi
nhiễm chì hoặc sơn gốc chì [12].
Ngoài các nguồn tiếp xúc chì từ môi trường đã nêu trên, còn có nguồn
đang phát triển mạnh mẽ ở cả nước phát triển và đang phát triển là thuốc dân
gian và các đồ mỹ phẩm. Một số thực hành y học dân gian ở Đông Tây Ban
12
Nha, Ấn Độ, Châu Á và Trung Quốc cho phép sử dụng kim loại nặng để điều
trị bệnh, một số thuốc đó có chứa hàm lượng chì rất cao (hơn 90%) ví dụ:
Azarcon, Alarcon, Coral, Pay-loo-ah, và Greta… các thuốc này có thể là dạng
viên bao phim, dạng bột màu vàng hoặc màu cam.
1.1.4. Tình hình ngộ độc chì trẻ em
1.1.4.1. Tình hình ngộ độc chì trẻ em trên thế giới
Ngộ độc chì được biết đến từ rất sớm nhưng ở trẻ em, là đối tượng chịu
ảnh hưởng của chì nhiều nhất thì lại được quan tâm rất muộn. Trẻ em là đối
tượng chịu ảnh hưởng của ngộ độc chì do hậu quả ô nhiễm môi trường (từ
xăng sơn pha chì, nguồn nước, đồ chơi, …), đặc biệt trẻ em dưới 6 tuổi do hệ
thần kinh và chức năng của thận đào thải chì chưa ổn định.
Trong suốt thế kỷ 20, tình trạng ngộ độc chì tăng nhanh do sử dụng chì
làm chất tạo màu trong sơn nhà đặc biệt là ở trẻ em [13] [14], việc loại bỏ chì
trong xăng và sơn đã làm nồng độ chì máu trung bình ở trẻ em giảm từ 16
μg/dl xuống dưới 3 μg/dl. Hầu hết sự thay đổi này là kết quả của sự tuân thủ
của người tiêu dùng Mỹ với quy tắc môi trường đã làm giảm đáng kể hoặc
loại hẳn việc sử dụng chì trong các sản phẩm khác pin như gasoline, sơn, chì
hàn, và hệ thống nước. Chì vẫn có thể được tìm thấy với lượng có thể gây hại

Hô hấp
Da niêm mạc
Chì tích
tụ trong
cơ thể
Hậu quả:
- Thiếu máu
- ↓ giao tiếp XH
- Suy thận
- ↓ khả năng học
tập
- Bệnh tim mạch
- RL tâm thần
Mỹ phẩm
Thuốc đông y
14
Chì đã được tìm thấy trong một số loại thuốc truyền thống (y học cổ
truyền) được sử dụng bởi Đông Ấn Độ, Ấn Độ, Trung Đông, Tây Á, và các
nền văn hóa Tây Ban Nha. Y học cổ truyền có thể chứa thảo dược, khoáng
sản, kim loại, sản phẩm động vật. Chì và các kim loại nặng khác được đưa
vào một số loại thuốc dân tộc mục đích trên vì các kim loại này được cho là
hữu ích trong điều trị một số bệnh. Đôi khi chì vô tình được vào y học dân
gian trong quá trình mài, màu, hoặc các phương pháp khác.
Theo Bose A và cộng sự (1983) xác định 3 trường hợp trẻ ngộ độc chì
có liên quan đến việc dùng thuốc Azarcon để điều trị các bệnh về tiêu hóa,
đây là loại bột màu vàng có chứa 86 đến 95% là chì tetroxode (Pb3O4). [28]
Theo Lin GZ (2012) đã mô tả 2 trường hợp trẻ ở trong một gia đình 5
tuổi và 6 tháng tuổi bị ngộ độc khi dùng thuốc dân tộc của Trung Quốc để
điều trị bệnh tưa lưỡi, thuốc đã được định lượng hàm lượng chì là 214,000
mg/kg. Tiếp theo tác giả đã nghiên cứu 16 mẫu thuốc hồng đơn phát hiện hàm

có thể ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe cho người sử dụng mà lâu nay được
coi là an toàn.
Trong dân gian, người Việt vẫn thường sử dụng thuốc cam (các vị
thuốc đông y được tán nhỏ thành bột hoặc trộn với hồ rồi vê thành những viên
tròn) của các nhà thuốc đông y gia truyền để chữa một số bệnh của trẻ em như
tưa lưỡi, loét miệng, tiêu chảy…
Từ đầu năm 2011, ở Việt Nam bên cạnh tình tình bệnh tay chân miệng
diễn biến phức tạp và gây nhiều biến chứng, nổi lên là tình trạng ngộ độc chì
ở trẻ em do dùng thuốc cam, nguyên nhân chủ yếu là các cháu bé sử dụng
thuốc cam không rõ nguồn gốc và không được kiểm nghiệm chất lượng với
mục đích điều trị các bệnh tưa lưỡi, biếng ăn, hôi miệng, tiêu chảy,…gây xôn
xao dư luận, tâm lý lo lắng cho người dân và ngành y tế.
16
Tại trung tâm chống độc bệnh viện Bạch mai đã tiếp nhận, thăm khám
rất nhiều bệnh nhi bị ngộ độc chì, trong đó có hàng trăm trẻ phải nhập viện
theo dõi và điều trị. Hậu quả gây ngộ độc chì ở trẻ em rất đa dạng và tổn
thương nhiều cơ quan, tổn thương thần kinh do chì như hôn mê, co giật, run
tay chân, thất điều, rối loạn vận động, liệt dây thần kinh; trên hệ thống máu
gây thiếu máu nhiều mức độ từ nặng đến nhẹ, viêm gan, viêm thận, rối loạn
tiêu hóa, chậm phát triển tinh thần vận động, giảm trí nhớ, giảm sự tập trung
chú ý và học tập…bệnh diễn biến phức tạp, nặng nề, chẩn đoán khó và muộn
nếu không nghĩ tới là ngộ độc chì, điều trị dai dẳng, tốn kém [20], trong khi
đó nhiều cơ sở điều trị đã chẩn đoán nhầm với viêm não, viêm màng não,
động kinh, suy gan thận, thiếu máu chưa rõ nguyên nhân
Theo báo cáo của viện hóa học quốc gia, khi kiểm nghiệm 500 mẫu
thuốc cam, có 98/100 mẫu có chứa hàm lượng chì cao từ 2- 90% quy ra
oxyt chì.
Cũng theo tác giả Ngô Tiến Đông và cộng sự (2011) nghiên cứu 15 trẻ
em ngộ độc chì điều trị tại khoa hồi sức cấp cứu và khoa thần kinh bệnh viện
Nhi trung ương : nguồn gốc tiếp xúc ngộ độc chì là thuốc cam trôi nổi trên thị

18
1.2.2. Cận lâm sàng
- Xét nghiệm độc chất: nồng độ chì máu tăng tùy theo mức độ :
+ Mức độ nặng : BLL > 70 µg /dL
Tử vong
Viêm não
Viêm thận
Thiếu máu
Đau bụng chì
Giảm tổng hợp Hemoglobin
Tăng chuyển hóa vitamin D
Tăng nguy cơ tăng huyết áp ở người trưởng thành
Tăng dẫn truyền thần kinh
Ức chế tổng hợp hemoglobin
Giảm hấp thu canxi
Giảm chuyển hóa vitamin D
Gây độc cho sự phát triển thần kinh
Giảm IQ
Giảm sức nghe
Chậm lớn
Suy yếu tế bào thần kinh
19
+ Mức độ vừa : 45 < BLL < 70 µg /dL
+ Mức độ nhẹ : BLL > 45 µg /dL
- Huyết học: Số lượng HC, Hb, Hct giảm so với lứa tuổi tùy theo mức
độ thiếu máu từ nhẹ đến nặng
+ Thiếu máu nhẹ : Hb giảm nhưng vẫn > 100 g/l
+ Thiếu máu vừa : 70 < Hb < 100 g/l
+ Thiếu máu nặng: Hb < 70 g/l
Có thể thấy hình ảnh hồng cầu hạt ưa kiềm trên huyết đồ khi bệnh nhân

- Nhẹ:
+ Triệu chứng kín đáo hoặc không có triệu chứng
+ Xét nghiệm: Nồng độ chì máu < 45µg /dL
21
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm và thời gian thực hiện
- Trung tâm chống độc Bệnh viện Bạch Mai Hà Nội
- Thời gian từ tháng đến tháng 3/2011 đến 9/2013
2.2. Đối tượng nghiên cứu
2.2.1. Tiêu chuẩn lựa chọn
- Tuổi < 16 năm
- Được chẩn đoán xác định là ngộ độc chì theo tiêu chuẩn sau: [22], [23], [24]
+ Có tiếp xúc với các nguồn có chì, hoặc có triệu chứng gợi ý
+ Xét nghiệm chì máu ≥ 10 μg/dL
2.2.2. Tiêu chuẩn loại trừ
Các trẻ bị các bệnh khác như: viêm não, viêm màng não, bại não do
nguyên nhân khác…
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu
Hồi cứu phân tích mô tả loạt ca bệnh
2.3.2. Cỡ mẫu
Cỡ mẫu thuận tiện
2.3.3. Các chỉ tiêu nghiên cứu
2.3.3.1. Một số đặc điểm chung nhóm nghiên cứu:
- Tuổi, nhóm tuổi, giới, tiền sử bệnh tật
- Địa phương (thành thị, nông thôn, miền núi)
- Nguồn tiếp xúc (nước, không khí, đất, thuốc )
- Lý do vào viện (có triệu chứng, tình cờ)
- Đường vào (hô hấp, tiêu hóa, da niêm mạc)

2.3.4. Các tiêu chuẩn áp dụng
- Xét nghiệm độc chất: định lượng chì máu và chì niệu bằng máy quang phổ
hấp thụ nguyên tử (AAS 3300- Atomic absorption spectrometry)
Nguyên lý dựa vào nguyên tử tự do hấp thụ ánh sáng ở bước sóng đặc
trưng, và lượng ánh sáng hấp thụ tương quan tuyến tính với nồng độ của chất
phân tích trong mẫu xét nghiệm.
Được thực hiện tại phòng xét nghiệm của viện hóa học quốc gia.
Cách thức tiến hành:
+ Máu: sát trùng sạch tại vị trí lấy máu, lấy 3ml máu tĩnh mạch vào ống
sinh hóa ( không dùng chất chống đông)
Tuổi < 16
Chẩn đoán NĐ chì
- Thăm khám
- Phỏng vấn
Lâm sàng
Máu
Phân loại nhóm tuổi
Cận lâm sàng
Nước tiểu
Hình ảnh
Các cơ quan:
- Huyết học
- Thần kinh
- Thận
- Tiêu hóa
- Tâm thần vận động
- Pb máu
- CTM
- Huyết đồ
- SHM

25
Các chỉ số hồng cầu sinh lý bình thường theo tuổi
Tuổi
Hb
(g/l)
Hct
(%)
HC
(10
12
/l)
MCV
(fl)
MCH
(pg)
MCHC
(g/l)
Mới sinh 135-165 42-51 3.9-4.7 98-108 31-34 30-33
1-3 ngày 145-185 45-56 4.0-5.3 95-108 31-34 29-33
1 tuần 135-175 42-54 3.9-5.1 88-107 28-34 28-33
2 tuần 125-165 39-51 3.6-4.9 86-105 28-34 28-33
1 tháng 100-140 31-43 3.0-4.2 84-104 28-34 29-33
2 tháng 90-115 28-35 2.7-3.8 77-96 26-30 29-33
3-6 tháng 95-115 29-35 3.1-3.8 74-91 25-30 30-33
0.5-2 tuổi 105-135 33-36 3.7-4.5 70-78 23-27 30-33
2-6 tuổi 115-125 34-37 3.9-4.6 75-81 24-27 31-34
2-12 tuổi 115-135 35-40 4.0-4.6 77-86 25-29 31-34
12-16 tuổi 120-145 36-43 4.1-4.9 78-90 25-30 31-34
- Tiêu chuẩn chẩn đoán thiếu máu :
+ Lâm sàng: da xanh niêm mạc nhợt, móng tay khô có khía,tóc dễ rụng, trẻ


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status