Tìm hiểu tiềm năng thực hiện chương trình REDD, tại vùng đệm Khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa Phượng Hoàng, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên - Pdf 22

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
KHOA KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG VÀ TRÁI ĐẤT
TẠ THỊ MAI PHƯƠNG
TÌM HIỂU TIỀM NĂNG THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH
REDD, TẠI VÙNG ĐỆM KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN
THẦN SA- PHƯỢNG HOÀNG, HUYỆN VÕ NHAI,
TỈNH THÁI NGUYÊN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Thái Nguyên, 2013
2
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
KHOA KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG VÀ TRÁI ĐẤT
TÌM HIỂU TIỀM NĂNG THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH
REDD, TẠI VÙNG ĐỆM KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN
THẦN SA- PHƯỢNG HOÀNG, HUYỆN VÕ NHAI,
TỈNH THÁI NGUYÊN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Quản lý môi trường
Sinh viên thực hiện: Tạ Thị Mai Phương
Lớp: K7C Khóa: 7
Người hướng dẫn khoa học: Ths. Vi Thùy Linh
Thái Nguyên, 2013
3
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn Huyện ủy, UBND huyện Võ Nhai- tỉnh Thái
Nguyên, Hạt kiểm lâm huyện Võ Nhai, Ban quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên
Thần Sa- Phượng Hoàng, cán bộ và nhân dân các xã Cúc Đường, Vũ Chấn,
Nghinh Tường, Sảng Mộc đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình
điều tra thực địa.
Đặc biệt, tôi xin trân trọng cảm ơn thạc sĩ Vi Thùy Linh – người trực
tiếp hướng dẫn nghiên cứu và các chuyên gia trong lĩnh vực đã cung cấp tài

CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 28
3.1. Cơ sở lí luận trong việc xây dựng và thực thi REDD tại Việt Nam 28
3.1.1. Những căn cứ chung để xây dựng và thực thi REDD ở Việt Nam 28
3.1.2. Tiêu chí chung khi lựa chọn địa bàn tham gia REDD 30
3.2. Đối chiếu những đặc điểm của khu vực nghiên cứu với việc đáp ứng là địa bàn tham gia, thực thi
REDD 32
3.2.1. Đáp ứng nhóm tiêu chí 1 32
3.2.2. Đáp ứng nhóm tiêu chí 2 33
3.2.3. Đáp ứng nhóm tiêu chí 3 35
3.3. Phân tích tiềm năng thực hiện REDD tại khu vực nghiên cứu 36
3.3.1. Điểm mạnh để thực hiện chương trình REDD tại khu vực nghiên cứu 36
5
3.3.2. Điểm yếu và nguyên nhân 38
3.4. Một số giải pháp định hướng nhằm thúc đẩy tiến trình tham gia REDD cho khu vực nghiên cứu. 40
1. Kết luận 43
2. Kiến nghị 43
TÀI LIỆU THAM KHẢO 44
A/ Tài liệu tham khảo trong nước 44
B/ Tài liệu tham khảo nước ngoài 44
6
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CIFOR Tổ chức Nghiên cứu lâm nghiệp thế giới
CEDAR Trung tâm nghiên cứu và phát triển vùng cao
CIEM Viện nghiên cứu quản lý Trung ương
FAO Tổ chức Nông lương của Liên hợp quốc
FCPF Quỹ đối tác lâm nghiệp các bon
GTZ Tổ chức Hợp tác kỹ thuật Đức
ICRAF Tổ chức Nghiên cứu nông lâm thế giới
IFAD Quỹ Phát triển nông nghiệp của Liên hợp quốc
IIED Viện Quốc tế về môi trường và phát triển

8
DANH MỤC CÁC HÌNH TRONG LUẬN VĂN
Trang
Hình 1.1.1: Các giá trị kinh tế của rừng 5
Hình 1.3.1: Bản đồ KBT thiên nhiên Thần Sa- Phượng Hoàng 17
Hình 1.3.3 Hiện trạng tài nguyên rừng của KBT (năm 2012) 22
Hình 3.2.2: Người dân trồng ngô tại xóm Khe Cái, xã Vũ Chấn 34
Hình 3.2.3: Đường đi vào xóm Na Hấu, xã Nghinh Tường 35
Hình 3.3.1: Phỏng vấn ông Triệu Sinh Phương (65 tuổi, nghề
nghiệp: làm ruộng + buôn bán) tại xóm Hạ Lương,
xã Nghinh Tường
37
Hình 3.3.2: Đốt nương làm rẫy tại xóm Khuổi Mèo, xã Sảng Mộc 38
9
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Rừng có vai rất quan trọng đối với sự sống trên hành tinh của chúng ta
và là nguồn tài nguyên thiên nhiên có thể tái tạo được. Rừng có nhiều chức
năng quan trọng như: phòng hộ đầu nguồn, phòng hộ ven biển, giúp điều hòa
khí hậu, điều tiết nguồn nước, hạn chế xói mòn, rửa trôi, hạn chế thiên tai, góp
phần bảo tồn đa dạng sinh học Hiện nay, nguồn tài nguyên này đang bị suy
giảm một cách nghiêm trọng dẫn tới khí hậu toàn cầu bị thay đổi theo chiều
hướng tiêu cực, các hiện tượng băng tan ở hai cực, hiệu ứng nhà kính, thiên tai,
thảm họa môi trường có nguy cơ và tần xuất xảy ra ngày một lớn hơn.
“Giảm phát thải khí nhà kính thông qua việc hạn chế mất rừng và suy
thoái rừng” được dịch từ nguyên văn tiếng Anh “Reducing Emission from
Deforestation and Forest Degradation”, viết tắt là REDD. Đây là một sáng
kiến toàn cầu được coi như giải pháp thiết thực nhất đối với thực trạng suy
thoái rừng đã được đưa ra tại Hội nghị các nước thành viên lần thứ 13 (COP
13) của Công ước khung Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu (UNFCCC) và

+ Tìm hiểu những căn cứ chung để xây dựng và thực thi REDD ở Việt Nam.
+ Tìm hiểu tiêu chí chung khi lựa chọn địa bàn tham gia REDD
- Đánh giá tiềm năng thực thi chương trình REDD của khu vực nghiên cứu.
- Đề xuất một số ý kiến cá nhân làm tăng cường tiềm năng thực hiện
REDD tại khu vực nghiên cứu.
3
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
1.1. Những khái niệm chung
1.1.1. Khái niệm giá trị của rừng.
Theo quan điểm của Nghị định thư Kyoto, “rừng là hệ sinh thái có diện
tích tối thiểu 0,05-1,00 ha; tỷ lệ che phủ tầng tán tối thiểu 10-30%; chiều cao
cây cối tối thiểu 2-5m” [14, tr.2]. Trong định nghĩa này hệ sinh thái được hiểu
là một tập hợp quần thể năng động có một chức năng chung của các loài thực
vật, động vật và cộng đồng các chất vi sinh vật cùng môi trường xung quanh
chúng.
Trên thực tế, mỗi quốc gia cũng có định nghĩa riêng về rừng. Điều quan
trọng là làm sao để định nghĩa của mỗi nước nhất quán theo thời gian và
không mâu thuẫn với định nghĩa của Nghị định thư Kyoto.
Luật Bảo vệ và phát triển rừng của Việt Nam 2004 đã đưa ra định nghĩa
“rừng là một hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng, động vật rừng, vi
sinh vật rừng, đất rừng và các yếu tố môi trường khác, trong đó có cây gỗ, tre,
nứa hoặc hệ thực vật đặc trưng là thành phần chính, có độ che phủ của tán
rừng từ 0,1 (10%) trở lên” [5].
Khác với trước đây, ngày nay lợi ích kinh tế của rừng đã vượt xa giá trị
của các sản phẩm hữu hình do rừng tạo ra để phục vụ cho nhu cầu đời sống,
sản xuất và buôn bán của con người. Tổng giá trị kinh tế của rừng được phân
thành giá trị sử dụng và giá trị phi sử dụng.
4
Hình 1.1.1: Các giá trị kinh tế của rừng
Giá trị sử dụng là những lợi ích thu được từ việc sử dụng nguồn tài

nước, phòng hộ đầu nguồn, phòng hộ ven biển, phòng chống thiên tai, đa
dạng sinh học, hấp thụ và lưu giữ các bon, du lịch, nơi cư trú và sinh sản của
các loài sinh vật, gỗ và lâm sản khác” [2, tr.2].
Đối với khái niệm “dịch vụ môi trường”: hiện nay trên thế giới chưa có
một định nghĩa chuẩn nào về dịch vụ môi trường. Tuy vậy, để hiểu một cách
gần gũi, dịch vụ môi trường là lợi ích mà tự nhiên có thể mang lại cho các hộ
gia đình, cộng đồng và nền kinh tế.
Theo định nghĩa và phân loại của UNFCCC, các dịch vụ môi trường
được chia thành 4 nhóm: nhóm cung cấp, nhóm điều tiết, nhóm văn hóa và
nhóm hỗ trợ.
Dịch vụ môi trường rừng là bộ phận quan trọng bậc nhất của dịch vụ
môi trường [3]. Môi trường rừng là môi trường do kết quả tác động của rừng
tạo ra cho xã hội và tự nhiên. Nó là loại môi trường có tầm quan trọng không
thể thay thế trong hệ sinh thái chung.
6
Điều 3, Nghị định 99/2010/NĐ-CP ngày 24/9/2010 cũng đã nêu rõ:
“Dịch vụ môi trường rừng là việc cung ứng các giá trị sử dụng của môi
trường rừng để đáp ứng các nhu cầu của xã hội và đời sống của nhân dân” [2,
tr.2].
Dịch vụ môi trường thuộc loại dịch vụ tổng hợp bao gồm nhiều loại
dịch vụ cụ thể. Theo điều 4, Nghị định 99/2010/NĐ-CP, các loại dịch vụ môi
trường rừng gồm:
i) Bảo vệ đất, hạn chế xói mòn và bồi lắng lòng hồ, lòng sông, lòng
suối; ii) Điều tiết và duy trì nguồn nước cho sản xuất và đời sống xã hội, iii)
Hấp thụ và lưu giữ các bon của rừng, giảm phát thải khí gây hiệu rứng nhà
kính bằng các biện pháp ngăn chặn suy thoái rừng, giảm diện tích rừng và
phát triển bền vững; iv) Bảo vệ cảnh quan tự nhiên và bảo tồn đa dạng sinh
học của các hệ sinh thái rừng phục vụ cho dịch vụ du lịch; Dịch vụ cung ứng
bãi đẻ, nguồn thức ăn và con giống tự nhiên, sử dụng nguồn nước từ rừng cho
nuôi trồng thủy sản [2, tr.2-3]

nhu cầu phát triển kinh tế, sự gia tăng dân số, sự thiếu hiểu biết về chu kỳ và
chức năng của các hệ sinh thái và cả sự thiếu trách nhiệm của một số doanh
nghiệp và cá nhân khi chỉ nghĩ tới việc tối đa hóa lợi nhuận trước mắt mà
quên đi lợi ích lâu dài về bảo vệ môi trường.
Cho đến nay, định nghĩa về PFES được đông đảo các nhà khoa học trên
thế giới chấp thuận là định nghĩa của Wunder Seven. Theo tác giả này, “ Chi
trả dịch vụ môi trường rừng (PFES) là quá trình giao dịch tự nguyện được thực
hiện bởi ít nhất một người mua và một người bán dịch vụ môi trường rừng, khi
và chỉ khi người bán đảm bảo cung cấp dịch vụ môi trường rừng đó một cách
hợp lý” [15, tr.3].
Để có thể hiểu một cách đơn giản, PFES là việc chi trả của những
người hưởng lợi dịch vụ môi trường rừng cho người cung ứng dịch vụ.
Theo Simpson và Sedjo (1996) [9], Land-Mils và Porras (2002) [8],
PFES là một cách tiếp cận mới để khuyến khích chủ rừng, những người quản
lý rừng cung cấp dịch vụ môi trường rừng tốt hơn. PFES giúp đền bù cho
8
những người cung cấp dịch vụ môi trường rừng hoặc khuyến khích những
người chưa quan tâm tham gia bảo vệ và phát triển rừng.
Nghị định 99/2010/NĐ-CP cũng đã đưa ra cách hiểu về PFES: “Là
quan hệ cung ứng và chi trả giữa bên sử dụng dịch vụ môi trường trả tiền cho
bên cung ứng dịch vụ” [2, tr.2].
Như vậy, PFES là một quan hệ tài chính mới cho một loại hình dịch vụ
công cộng là dịch vụ môi trường rừng. Việc chi trả này bao gồm các yếu tố cơ
bản như đối tượng phải chi trả, đối tượng được chi trả, loại dịch vụ chi trả,
hình thức và nguyên tắc chi trả…
Để có thể thực hiện PFES, trước hết cần đánh giá được giá trị của dịch
vụ này. Thứ nhất, có rất nhiều người không hiểu được giá trị của sinh thái
rừng, đặc biệt là những người còn đang chịu cảnh đói khổ, nguồn sống chỉ
biết phụ thuộc vào rừng. Ngoài ra, còn có những người dân có cuộc sống khá
hơn nhưng vì muốn tối đa hóa lợi nhuận nên chỉ nghĩ tới lợi ích trước mắt mà

giảm phát thải trong ngành giao thông (15-20 USD/tấn CO
2
tương đương)
[10; 11; 15]. Như vậy, có thể thấy, REDD là cơ chế có tiềm năng lớn và rất
hiệu quả trong giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu.
Trước khi thực hiện REDD, Nghị định thư Kyoto đã đưa ra các nỗ lực
giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu nhờ việc giảm sử dụng nhiên liệu hóa
thạch ở các nước công nghiệp. Trong khi đó, phát triển rừng, chống mất rừng
và suy thoái rừng cũng là một phương pháp có thể thực hiện. Tuy nhiên, biện
pháp này tỏ ra chưa thực sự hiệu quả, cần phải có cách tiếp cận mới phù hợp
hơn, đó chính là REDD.
REDD là một sáng kiến được đưa ra tại Hội nghị các bên tham gia
UNFCCC lần thứ 13 (COP13) tại Ba Li- Indonesia để huy động nguồn lực tài
chính chi trả cho người cung cấp các dịch vụ giảm phát thải khí nhà kính
thông qua các hoạt động quản lý, bảo vệ rừng bền vững, hạn chế mất rừng và
suy thoái rừng. REDD có thể được thực hiện trên toàn thế giới nhưng trước
hết là áp dụng ở khu vực các nước đang phát triển như Bolivia, Campuchia,
Cộng hòa dân chủ Công-gô, Indonesia, Panama, Pupua New Guinea,
Paraguay, Philipin, Salomon, Tanzania, Zambia và Việt Nam.
REDD đã và đang tiếp tục được thảo luận, đàm phán rất sôi nổi trong
khuôn khổ UNFCCC. Khái niệm về REDD cũng chưa được hoàn thiện, nó
10
luôn được bổ sung, phát triển theo tiến trình các cuộc đàm phán. Khái niệm
REDD mới được đưa ra và áp dụng chưa lâu đã phải bổ sung thêm, xuất hiện
REDD+. Như vậy, REDD là hình thức phát triển mới của PFES với một cơ
chế chi trả mới, theo đó có sự khác biệt và ưu thế nhất định so với các hình
thức chi trả theo PFES truyền thống.
Sự khác biệt, đồng thời là ưu thế cơ bản của REDD bao gồm:
i) Chủ thể đứng ra tổ chức, đàm phán, thực hiện phải có sự tham gia
của quốc gia (Chính phủ trung ương) nhưng vẫn không phủ nhận tính tự chủ

Bên cạnh các nghiên cứu và kết quả đàm phán cơ bản trong khuôn khổ
UNFCCC, nhiều tổ chức quốc tế và cá nhân khác cũng đã tiến hành nghiên
cứu về REDD.
Davis và cộng sự (2009), trong báo cáo đánh giá về Ý tưởng kế hoạch
sẵn sàng của FCPF (R-PIN) đã kết luận rằng, các nước Châu Á- Thái Bình
Dương chưa quan tâm đúng mức với việc thực hiện REDD, trong đó có việc
chi trả cho những người tham gia, do đó hầu hết các đề xuất về REDD đều
thiếu sự rõ ràng và cụ thể. Thực tế, hiện tại ở vùng Châu Á- Thái Bình Dương
có rất ít mô hình về chi trả phù hợp với REDD. Mặc dù vậy, nỗ lực của các
nước Châu Á- Thái Bình Dương là đáng ghi nhận. Ví dụ, Bộ Lâm nghiệp
Indonesia năm 2009 đã ban hành một Quyết định xác định rõ tỉ lệ nguồn lực
chia sẻ giữa trung ương, địa phương và những bên tham gia trong các dự án
chi trả dịch vụ hấp thụ các bon của thị trường tự nguyện [6]. Đây không phải
là đề xuất chi trả cho dịch vụ REDD, nhưng có thể tham khảo cách tính tỷ lệ
chia sẻ lợi ích căn cứ vào loại hình sở hữu rừng. Theo đó, trong trường hợp
rừng thuộc sở hữu của cộng đồng, tới 70% nguồn thu được trả cho cộng đồng.
Trong khi đó, đối với nhiều loại rừng khác, như rừng sản xuất và rừng phòng
hộ thuộc sở hữu quốc gia, chỉ có 20% nguồn thu được chuyển tới cộng đồng
[6]. Tuy nhiên, tổ chức Climate Update cho rằng, hệ thống chia sẻ lợi ích của
Indonesia thiếu minh bạch và không hợp lý. Rõ ràng là cơ chế chi trả cho dịch
vụ REDD cần phải chỉ rõ các đối tượng hưởng lợi, phương thức tham gia và
nguyên tắc chi trả.
12
Về phương thức chi trả cho dịch vụ REDD, Indonesia đã quy định các
chi trả cho cộng đồng cần thông qua một quỹ ủy thác do chính quyền địa
phương quản lý. Tuy nhiên, các quy định trên lại chưa công nhận quyền đầy
đủ và rõ ràng của cộng đồng, mặc dù đã cho phép cộng đồng tham gia, nếu
năng lực về tổ chức, tài chính và kỹ thuật. Kết quả là việc chi trả trên thực tế
vẫn chưa minh bạch và công bằng.
Indonesia đã bước đầu nghiên cứu cách thức chi trả cho dịch vụ REDD

pháp MODIS (tên Tiếng Anh: Moderate Resolution Imaging
Spectroradiometer) là một công cụ sử dụng ảnh viễn thám với độ phân giải
thấp (500m) để điều tra đánh giá tài nguyên trên mặt đất, có hai hệ thống vệ
tinh Tera (EOS AM) và Aqua (EOS PM) và một số giả thiết khác để xác định
mức phát thải do việc thay đổi cách thức sử dụng đất gây ra trong giai đoạn
2000-2005. SNV đã đưa ra kết quả là có khoảng 58 triệu tấn các bon phát thải
(87 triệu tấn hấp thụ và 145 triệu tấn phát thải) [3]. Tuy nhiên, số liệu do SNV
đưa ra chưa hoàn toàn thật chính xác do MODIS không phải là phương pháp
có độ chính xác cao và thời gian nghiên cứu ngắn, chỉ trong vòng 5 năm.
Một nghiên cứu của GTZ thông qua Dự án Khu dự trữ sinh quyển Kiên
Giang mang tên “REDD- nguồn tài chính cho quản lý đa dạng sinh học” đã và
đang được tiến hành ở Kiên Giang đối với rừng ngập mặn ven biển. Nghiên
cứu đã sử dụng công cụ ảnh vệ tinh đã có của từng thời kỳ, đó là Landsat (có
độ phân giải 15m) giai đoạn 2000-2005 và SPOT 5 (có độ phân giải 2,5-
10,0m) giai đoạn 2005-2009 để tính toán sự thay đổi diện tích rừng ngập mặn
ven biển trong từng giai đoạn. Lượng sinh khối và lượng các bon rừng ngập
mặn được thu thập từ ảnh vệ tinh và ảnh chụp tại hiện trường phục vụ việc lập
sơ đồ hiện trạng rừng, mật độ cây để đưa ra số liệu được hiệu chỉnh chính xác.
Kết quả nghiên cứu về lượng các bon thay đổi là cơ sở cho việc chi trả cho các
chương trình REDD sau này.
Tổ chức Nghiên cứu nông lâm thế giới (ICRAF) đã tiến hành dự án hợp
tác khu vực “Đền đáp, sử dụng và chia sẻ đầu tư trong Chi trả dịch vụ môi
trường rừng” (RUPES II) với sự hỗ trợ của IFAD tại một số quốc gia Châu Á,
trong đó có Việt Nam. Song song với ICRAF, Tổ chức Lâm nghiệp thế giới
14
(CIFOR) đã tiến hành nghiên cứu các biện pháp thực hiện REDD để phục hồi
rừng và đã đưa ra các thông điệp chính cho quá trình xây dựng và thực hiện
REDD ở Việt Nam nói riêng và ở các nước nói chung, đó là: phục hồi rừng có
thể là một cách làm hiệu quả về mặt kinh tế để cùng lúc đạt được nhiều mục tiêu
về môi trường, kinh tế và xã hội; để phát huy tất cả các lợi ích của REDD, cách

giá bởi các chuyên gia trong và ngoài tổ chức. Tháng 12 năm 2011, “Bối cảnh
tham gia REDD+ ở Việt Nam” là báo cáo chuyên đề gần đây nhất do các
chuyên gia làm việc tại Tổ chức Nghiên cứu lâm nghiệp thế giới (CIFOR),
Trung tâm nghiên cứu và phát triển vùng cao (CEDAR) và Viện nghiên cứu
quản lý Trung ương (CIEM) cùng thực hiện [4]. Những đóng góp thiết thực
nhất của báo cáo này là:
- Thảo luận cơ hội và thách thức về chính trị, kinh tế và xã hội có khả
năng ảnh hưởng tới việc xây dựng và triển khai REDD+ tại Việt Nam.
- Đưa ra những nguyên nhân và tác động có ảnh hưởng khác nhau giữa
các vùng và biến đổi theo thời gian; do vậy sẽ không thể có được một mô hình
chung thích hợp cho tất cả các vùng tại Việt Nam.
- Nhìn nhận lại các bài học từ vệc thực hiện một số các chính sách và
chương trình phát triển kinh tế và lâm nghiệp, đồng thời đề xuất làm thế nào để
cơ chế REDD+ trong tương lai có thể giải quyết các thách thức bao gồm thiếu
kinh phí cho việc bảo vệ rừng, năng lực quản lý hạn chế tại địa phương, liên
kết theo ngành dọc và ngang còn yếu kém, sự tham gia hạn chế của người
nghèo, các nhóm phụ nữ và cộng đồng bản địa, hiệu suất kinh tế thấp, chiếm
hữu đất và quyền lợi cũng như vấn nạn tham nhũng.
16
1.3. Khái quát về khu vực nghiên cứu
1.3.1. Điều kiện tự nhiên:
Hình 1.3.1: Bản đồ KBT thiên nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng
 Vị trí địa lý
Khu BTTN Thần Sa - Phượng Hoàng trụ sở chính đặt tại Xã Cúc Đường
thuộc địa giới hành chính huyện Võ Nhai, cách thành phố Thái Nguyên
khoảng 40km về phía Bắc. Phạm vi quy hoạch KBT nằm trong địa giới hành
chính của 7 xã và 01 thị trấn của huyện Võ Nhai gồm: Thị trấn Đình Cả, xã
Phú Thượng, xã Sảng Mộc, xã Thần Sa, xã Thượng Nung, xã Nghinh Tường,
xã Vũ Chấn và xã Cúc Đường. Tổng diện tích KBT là 17,639 ha trong đó đất
có rừng: 17,212 ha gồm: đất chưa có rừng 427 ha [1].

2. Bản Chấu
3. Nà Ca
4. Nà Lay
5. Khuổi Mèo
 Địa hình, địa thế
KBT thiên nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng thuộc vùng núi cao nằm phía
đông nam của tỉnh Thái Nguyên, địa hình chia cắt hiểm trở, núi đá chiếm gần
18

Trích đoạn Đáp ứng nhóm tiêu chí 2 Điểm mạnh để thực hiện chương trình REDD tại khu vực nghiên cứu Điểm yếu và nguyên nhân Một số giải pháp định hướng nhằm thúc đẩy tiến trình tham gia REDD cho khu vực nghiên cứu
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status