nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và tái sinh tự nhiên dưới tán rừng trồng tại hai xã an bá và hữu sản, sơn động, bắc giang - Pdf 22

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
o O o ĐỖ THỊ KIM OANH

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM CẤ U TRÚ C VÀ TÁI SINH
TỰ NHIÊN DƢỚ I TÁ N RƢ̀ NG TRỒ NG TẠI HAI XÃ
AN BÁ VÀ HỮU SẢN, SƠN ĐỘNG, BẮC GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐỖ HỮU THƯ
Thái Nguyên - năm 2012

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng có vai trò hết sức quan trọng đối với nhân loại. Rừng giữ cho đất
khỏi xói mòn, điều hoà dòng chẩy giữa mùa mưa và mùa khô, rừng nuôi
dưỡng các loài chim thú và các loài động vật khác, rừng còn là nơi lưu trữ
nguồn gen và bảo vệ sự đa dạng sinh học. Rừng còn có vai trò điều hoà khí
hậu, làm cho khí quyển trong lành nhờ sự cân bằng lượng ôxi và cácbônic v.v.
Bởi vậy mất rừng sẽ dẫn đến hiểm hoạ về nhiều mặt.
Hiện nay chúng ta đều nhận thấy rất rõ Việt Nam là một trong năm
quốc gia trên thế giới chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu mà một
trong những nguyên nhân sâu xa là do diện tích rừng trên thế giới nói chung

quyết công ăn việc làm chính đáng cho các cộng động dân cư thuộc vùng sâu
vùng xa, các dân tộc miền núi đang sống dựa vào rừng.
Sơn Động là một huyện vùng cao của tỉnh Bắc Giang có phía Nam và
Đông Nam giáp với tỉnh Quảng Ninh, phía Tây và Tây Bắc giáp với tỉnh Lạng
Sơn, Phía Tây giáp với huyện Lục Ngạn, phía Tây Nam Giáp với huyện Lục
Nam. Đây Sơn Động là một trong những huyện của tỉnh Bắc Giang có diện
tích rừng thuộc vào diện lớn trong đó khu rừng nguyên sinh của huyện Sơn
Động tập trung chủ yếu thuộc xã An Lạc có diện tích 7153 ha trong đó có
5092 ha là rừng tự nhiên. Khu rừng có 236 loài thực vật và cây lấy gỗ,255
loài dược liệu quý hiếm, trong rừng còn có 37 loài thú, 73 loài chim, 18 loài
bò sát đặc biệt có 7 loài thuộc loài động vật quý hiếm, đây là cánh rừng
nguyên sinh tiêu biểu của khu vực đông bắc Việt Nam. Ngoài diện tích rừng
nguyên sinh nói trên ở Sơn Động còn có một số lượng diện tích rừng trồng và
khu đất trống đồi núi trọc được tập trung chủ yếu ở hai xã là An Bá và Hữu
Sản cần phải tiếp tục trồng rừng để phủ xanh. Trên thực tế cho thấy các quần
xã rừng trồng đặc biệt là rừng thuần loà i, rừng được trồng trên hệ thống đồi
núi trọc khó đáp ứng yêu cầu về phòng hộ,bảo vệ nâng cao sự đa dạng sinh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
học về nguồn gen, chúng dễ bị sâu bệnh và thoái hoá trong một thời gian ngắn.
Vì vậy một trong những giải pháp khắc phục những mặt hạn chế của rừng
trồng là kết hợp giữa trồng rừng với xúc tiến tái sinh tự nhiên dưới tán rừng
trồng. Tuy nhiên việc nghiên cứu về vấn đề này còn nhiều hạn chế và chưa
được làm rõ kể cả về thực tiễn lẫn cơ sở lý luận.
Việc tìm hiểu những đặc điểm quá trình tái sinh dưới tán rừng trồng là
cơ sở cung cấp những kiến thức thực tế cũng như cơ sở khoa học cho việc lựa
chọn khoanh nuôi, phục hồi thích hợp cho từng đối tượng, điều kiện địa lý,
chất đất tại khu vực Sơn Động cũng như các khu vực khác. Xuất phát từ

rẫy v.v. Vai trò lịch sử của thế hệ cây con này là kế tục cây gỗ già cỗi. Vì vậy
tái sinh hệ sinh thái rừng, hiểu theo nghĩa hẹp là quá trình phục hồ i lại thành
phần cơ bản của hệ sinh thái rừng, chủ yếu là tầng cây gỗ. Sự xuấ t hiệ n lớ p
cây con là nhân tố mớ i là m phong phú thêm số lượ ng và thà nh phầ n loà i trong
quầ n lạ c sinh vậ t (thự c vậ t, độ ng vậ t, vi sinh vậ t ), đó ng gó p và o việ c hì nh
thành tiểu hoàn cảnh rừng và làm thay đổi cả quá trình trao đổi vật chất và
năng lượ ng diễ n ra trong hệ sinh thá i . Do đó ti sinh rừng c thể đưc hiểu
theo nghĩ a rộ ng là sự tá i sinh củ a mộ t hệ sinh thá i rừ ng . Tái sinh hệ sinh thái
rừng thúc đẩy việc hình thành cân bằng sinh học, đảm bảo cho hệ sinh thái
rừng tồn tại liên tục và do đó bảo đảm cho việc sử dụng hệ sinh thái rừng
thường xuyên ở đây cần khẳng định tái sinh hệ sinh thái rừng không chỉ là
một hiện tượng sinh học mà còn là một hiện tượng địa lí. Xét về bản chất sinh
học tái sinh hệ sinh thái rừng diễn ra dưới ba hình thức: Tái sinh hạt, tái sinh
chồi và tái sinh thân ngầm (các loài tre nứa). Mỗi hình thức tái sinh trên có
quy luật riêng và trải qua nhiều giai đoạn khác.
Đứng trên quan điểm triết học , tái sinh rừng là một quá trình phủ định
biệ n chứ ng : Rừ ng non thay thế rừ ng già trên cơ sở đượ c thừ a hưở ng hoà n

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
cảnh thuận lợi do thế hệ rừ ng ban đầ u tạ o nên . Đứng trên quan điểm chính trị
kinh tế họ c , tái sinh rừng là một quá trình tái sản xuất mở rộng tài nguyên
rừ ng. Đương nhiên điề u kiệ n nà y chỉ có thể trở thà nh hiệ n thự c khi ta nắ m
chắ c các biện pháp k thuật lâm sinh chính xác, nhằ m điề u hò a và đị nh hướ ng
các quá trình tái sinh nhằm phục vụ mục tiêu kinh doanh đã đề ra. Như vậ y tá i
sinh rừ ng không cò n chỉ là tự nhiên, k thuật mà còn là vấn đề kinh tế xã hội.
( Sinh thá i rừ ng – Hoàng Kim Ngũ, Phúng Ngọc Lan,1998) [41]
Theo Nguyễn Xuân Lâm (2000) [31] Tái sinh rừng là sự xuất hiện một
thế hệ cây con của những loài cây gỗ ở dưới tán rừng hoặc trên đất rừng (sau

Richards P.W(1933-1934), Baur.G.N (1962), Odum (1971)…tiến hành. Các
nghiên cứu này thường nêu lên quan điểm, khái niệm và mô tả định tính về tổ
thành, dạng sống và tầng phiến của rừng.
Công trình nghiên cứu của tác giả Catinot (1965) [6], Plaudy.J đã biểu
diễn cấu trúc hình thái rừng bằng các phẫu đồ rừng, nghiên cứu các nhân tố
cấu trúc sinh thái thông qua việc mô tả phân loại theo các khái niệm dạng
sống, tầng phiến…
Tác giả Odum E.P (1971) đã hoàn chỉnh học thuyết về hệ sinh thái trên
cơ sở thuật ngữ hệ sinh thái (ecosystem) của Tansley A.P (1935). Khái niệm
hệ sinh thái được làm sáng tỏ là cơ sở để nghiên cứu các nhân tố cấu trúc trên
quan điểm sinh thái học.
1.2.1.2. Mô tả về hình thái cấu trúc rừng
Hiện tượng thành tầng là sự sắp xếp không gian phân bố của các thành
phần sinh vật rừng trên cả mặt bằng và theo chiều đứng. Phương pháp vẽ biểu
đồ mặt cắt đứng của rừng do Davit và P.W. Richardr (1933-1934) đề xướng
và sử dụng lần đầu tiên ở Guyan đến nay vẫn là phương pháp có hiệu quả để
nghiên cứu cấu trúc tầng của rừng. Tuy nhiên phương pháp này có nhược
điểm là chỉ minh họa được cách sắp xếp theo hướng thẳng đứng của các loài

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
cây gỗ trong một diện tích có hạn. Cusen (1951) đã khắc phục bằng cách vẽ
một số giải kề bên nhau và đưa lại một hình tượng về không gian ba chiều.
Phương pháp biểu đồ trắc diện do Davit và Richards (1933 -1934) đề
xuất trong khi phân loại và mô tả rừng nhiệt đới phức tạp về thành phần loài
và cấu trúc thảm thực vật theo chiều nằm ngang và chiều thẳng đứng.
Richards P.W (1952) đã phân biệt tổ thành thực vật của rừng mưa
thành hai loại là rừng mưa hỗn hợp có tổ thành loài cây phức tạp và rừng mưa
đơn ưu có tổ thành loài cây đơn giản.Trong những lập địa đặc biệt thì rừng

gian và thời gian của rừng được các tác giả tập trung nghiên cứu nhiều nhất.
Có thể kể đến một số tác giả tiêu biểu như : Rollet B (1971), Brung (1970),
Loeth et al (1976) Rất nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu cấu trúc không
gian và thời gian của rừng theo hướng định lượng và dùng các mô hình toán
để mô phỏng các qui luật cấu trúc (dẫn theo Trần Văn Con, 2001) [12]. Rollet.
B (1971) đã mô tả mối quan hệ giữa chiều cao và đường kính bằng các hàm
hồi qui, phân bố đường kính bằng các dạng phân bố xác suất. Nhiều tác giả
còn sử dụng hàm Weibull để mô hình hóa cấu trúc đường kính loài theo mô
hình của Schumarcher và Coil (Belly, 1973). Bên cạnh đó các hàm Meyer,
Hyperbol, hàm mũ, Pearson, Poisson, … cũng được nhiều tác giả sử dụng để
mô hình hóa cấu trúc rừng.
Khác với xu hướng phân loại rừng theo cấu trúc và ngoại mạo chủ yếu
mô tả rừng ở trạng thái tĩnh. Trên cơ sở nghiên cứu rừng ở trạng thái động,
Melekhov đã nhấn mạnh sự biến đổi của rừng theo thời gian, đặc biệt là sự
biến đổi của tổ thành loài cây trong lâm phần qua các giai đoạn khác nhau
trong quá trình phát sinh và phát triển của rừng.
Tóm lại, trên thế giới, các công trình nghiên cứu về đặc điểm cấu trúc
rừng nói chung và rừng nhiệt đới nói riêng rất phong phú, đa dạng, có nhiều
công trình nghiên cứu công phu và đã đem lại hiệu quả cao trong kinh doanh
rừng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
1.2.2. Những nghiên cứu về cấu trúc rừng ở Việt Nam
1.2.2.1. Về phân loại rừng
Dựa trên quan điểm sinh thái phát sinh quần thể, tác giả Thái Văn
Trừng (1978) [54] đã phân chia thảm thực vật rừng Việt Nam thành 14 kiểu.
Đây là công trình tổng quát đáp ứng được yêu cầu về quy luật sinh thái.
Với tác giả Vũ Đình Phương (1985-1988) [43,44,45,46,47].đã đưa ra

thực nghiệm số cây theo cỡ đường kính cho rừng tự nhiên.
Tác giả Nguyễn Hải Tuất (1982) [67] đã sử dụng hàm phân bố giảm,
phân bố khoảng cách để biểu diễn cấu trúc của rừng thứ sinh, đồng thời cũng
áp dụng quá trình Poisson vào nghiên cứu cấu trúc quần thể rừng.
Tác giả Lê Minh Trung (1991) đã sử dụng hàm Poisson mô phỏng cấu
trúc tán lá cây, hàm Weibull mô phỏng cấu trúc chiều cao và đường kính.
Đồng thời cũng tiến hành khảo nghiệm hàm Hyperbol và Meyer cho các cấu
trúc này.
Nhìn chung các nghiên cứu định lượng cấu trúc đã được nhiều nhà lâm
sinh học trong nước quan tâm ở các mức độ khác nhau nhưng đều nhằm một
mục đích là xây dựng các cơ sở khoa học cho các giải pháp lâm sinh hợp lí.
Các nghiên cứu không dừng lại ở mức độ mô tả chung chung mà đã đi sâu
vào phân tích các quy luật kết cấu và theo xu hướng chung của thế giới. Đó là
khái quát hóa, mô phỏng các quy luật bằng toán học, đồng thời các giải pháp
lâm sinh được xây dựng trên cơ sở các chỉ tiêu định lượng.
1.2.2.3. Nghiên cứu cấu trúc và xây dựng mô hình cấu trúc mẫu
Nghiên cứu cấu trúc rừng định lượng các nhân tố cấu trúc và xây dựng
các mô hình mẫu chuẩn phục vụ khai thác, nuôi dưỡng rừng là mục tiêu quan
trọng nhằm vạch ra phương hướng và phương pháp điều chế rừng. Nguyễn
Văn Trương (1973-1986) đã nghiên cứu về phương pháp thống kê cây đứng,
cấu trúc 3 chiều rừng gỗ hỗn loại và đề xuất các mô hình cấu trúc mẫu định
lượng bằng toán học phục vụ công tác khai thác, nuôi dưỡng. Theo tác giả đây
là những mô hình hoàn thiện nhất đã có trong thiên nhiên và trên cơ sở khắc
phục những tồn tại lớn mà sự ngẫu nhiên của thiên nhiên mang lại.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
Để xây dựng mô hình cấu trúc cho các loài, kiểu rừng ứng với từng
điều kiện hoàn cảnh, Nguyễn Hồng Quân (1975, 1981, 1982) [50,51,52] đã sử

đã chọn lọc thông qua tài liệu quan sát và được coi là ổn định, có năng suất
cao nhất. Tính ổn định của các cấu trúc này thường được tính toán theo lí
thuyết trước khi đi vào khảo nghiệm. Cấu trúc mẫu được quan tâm nhiều nhất
là cấu trúc N-D
1.3
, nó cũng là cơ sở cho việc khai thác và nuôi dưỡng thông
qua việc điều chỉnh cấu trúc này.
1.3. Nghiên cứu về tái sinh
1.3.1. Trên thế giới
1.3.1.1. Những nghiên cứu về tái sinh rừng tự nhiên
Hiện nay vấn đề tái sinh rừng trên thế giới được nhiều nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu từ lâu. Nhưng đối với rừng nhiệt đới thì được nghiên
cứu vào khoảng những năm 30 của thế kỷ XX trở lại đây.
Vấn đề tái sinh rừng nhiệt đới được thảo luận nhiều nhất là hiệu quả
của các phương thức xử lý lâm sinh đến tái sinh rừng các loài cây có mục đích
trong các kiểu rừng. Các tác giả bàn đến như Taylor (1854), Kennedy (1935),
Lancaster (1953). Từ đó các nhà lâm sinh học đã xây dựng thành công nhiều
phương thức chặt tái sinh. Công trình của Bernand (1954,1959), Wyatt smith
(1961,1963) [74] với phương thức rừng đều tuổi ở Mã lai , Taylor (1954),
Jones (1960) với phương thức chặt dần tái sinh dưới tán ở Nijeria và Gana.
Nội dung chi tiết, các bước và hiệu quả của từng phương thức đối với tái sinh
đã được Baur (1961) tổng kết trong tác phẩm: Cơ sở sinh thái học của kinh
doanh rừng mưa.
Khi nghiên cứu tái sinh rừng nhiệt đới ở Châu phi, A.obrevin (1938) đã
nhận thấy cây con của các loài cây ưu thế trong rừng mưa là rất hiếm. Ông đã
khái quát hóa các hiện tượng tái sinh ở rừng nhiệt đới Châu phi để đúc kết lên
lí luận bức khảm tái sinh, nhưng phần lí giải các hiện tượng đó còn hạn chế.
Vì vậy lí luận của ông còn ít sức thuyết phục, chưa giúp ích cho thực tiễn sản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


14
Sự phân bố cây theo đường kính là cấu trúc cơ bản của lâm phần và
cũng được nhiều nhà lâm học quan tâm nghiên cứu. Đầu tiên phải kể đến
công trình nghiên cứu của Meyer (1952). Ông mô tả phân bố số cây theo
đường kính bằng phương trình toán học mà dạng của nó là một đường cong
giảm liên tục. Phương trình này được gọi là phương trình Meyer hay còn
được gọi là hàm Meyer. Tiếp đó nhiều tác giả đã dù ng phương pháp giải tích
để tìm phương trình đường cong phân bố N/D của lâm phần thuần loà i đều
tuổi. M.Prodan và A.Ipalatscase (1964), Bill và K.Aremken (1964) đã tiếp cận
phân bố này bằng phương trình Logarit. Đặc biệt một số tác giả hay dùng các
hàm khác nhau. Loetsch (1973) dung hàm Beta để nắn các phân bố thực
nghiệm.J.LF Batista và H.T.Z Docouto (1992) trong khi nghiên cứu 19 ô tiêu
chuẩn với 60 loài của rừng nhiệt đới ở Maranhoo- Brazil đã dùng hàm
Weibull mô phỏng sự phân bố N/D (dẫn theo Nguyễn Thanh Bình, năm 2003)
[4].
Để xác định mật độ cây tái sinh người ta đã sử dụng nhiều phương
pháp khác nhau như: Ô dạng bản theo hệ thống do Lowdermilk (1927) đề
xuất với diện tích (1 đến 4m
2
), ô có kích thước lớn (10 đến 100m
2
), điều tra
theo dải hẹp ô có kích thước từ (10 đến 100m
2
). Phổ biến nhất là ô bố trí theo
hệ thống trong các diện tích nghiên cứu từ 0,25 đến 1,0 ha (Povar nix bun,
1934; Yuskevich,1938) để giảm sai số trong khi thống kê, Barnard (1950) đã
đề nghị một phương pháp “ điều tra chuẩn đoán” mà theo ông kích thước ô đó
đếm được có thể thay đổi tùy theo thời gian phát triển của cây tái sinh ở các

Bạch Dương cho sản lượng cao trên một phạm vi lớn với mục đích cung cấp
nguồn nguyên liệu cho ngành công nghiệp giấy. Nhiều nước trên thế giới đã
phát động trồng rừng với nhiều mục đích khác nhau như cung cấp nguyên liệu
cho các ngành công nghiệp, thủ công m nghệ, trồng rừng nhằm mục đích
bảo vệ môi trường như rừng phòng hộ đầu nguồn, rừng phòng chống cát bay,
rừng phòng hộ chắn sóng ven biển… Các nước nhiệt đới và á nhiệt đới rừng
trồng đã được hình thành ngay cả trên đất trước là đồi trọc do nhu cầu của
ngành công nghiệp giấy sợi và tính cấp bách phải bảo vệ môi trường.
Với vai trò to lớn mà rừng đã đem lại cho nhân loại và hiện nay khi
nguồn nguyên liệu ngày càng khan hiếm, môi trường bị suy thoái thì vai trò

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
của rừng ngày càng không thể phủ nhận, các nước trên thế giới càng phải chú
trọng tăng diện tích rừng đặc biệ t là rừ ng tự nhiên . Điề u đá ng nó i là tạ i dướ i
tán rừng trồng có thể xuất hiệ n cá c lớ p cây gỗ tá i sinh tự nhiên có triể n vọ ng
phát triển thành rừng. Điề u nà y đò i hỏ i phả i có nhữ ng nghiên cứ u kị p thờ i và
đưa ra nhữ ng giả i phá p hợ p lý nhằ m chuyể n dầ n diệ n tí ch rừ ng trồ ng thành
rừ ng gầ n giố ng vớ i tự nhiên để tăng tí nh đa dạ ng sinh họ c , tăng khả năng
phòng hộ của rừng . Chính vì vậy việc trồng rừng và tái sinh rừng ngày càng
được nhiều nước quan tâm và phát triển mạnh mẽ nhằm đáp ứng nhu cầu cuộc
sống. Tuy nhiên hiện nay vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh vấn
đề rừng trồng.
Wads worth (1960) khi nói về vai trò của rừng trong kinh doanh, ông
đã khẳng định trồng rừng thâm canh sẽ là nguồn cung cấp gỗ duy nhất có kinh
tế ở các miền nhiệt đới (Baur, 1976) [1].
RCatinot (1965) [6] cho rằng ở vùng nhiệt đới ẩm Châu phi sau khi
khai thác có thể thay thế một quần thể rừng tự nhiên bằng rừng trồng mà vẫn
mang lại hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên để mang lại hiệu quả kinh tế cao tác giả

1.3.2. Ở Việt Nam
1.3.2.1. Những nghiên cứu về tái sinh tự nhiên
Ở nước ta vấn đề nghiên cứu tái sinh tự nhiên rừng nhiệt đới đã được
nghiên cứu từ đầu những năm 30 của thế kỷ XX và nhữ ng năm gầ n đây việ c
đi và o nghiên cứ u rừ ng tự nhiên ở Việ t Nam ngày một nhiều , bở i đằ ng sau
nhữ ng hệ sinh thá i rừ ng cò n rấ t nhiề u điề u bí ẩ n. Điề u đó đã thu hú t rấ t nhiề u
tác giả quan tâm tới . Từ những năm 1962 – 1967, việc điều tra và quy hoạch
rừng đã được thực hiện chuyên đề “Tái sinh rừng tự nhiên” tại một số khu
rừng trọng điểm thuộc các tỉnh Yên Bái (Văn Đàn), Quảng Ninh (Tiên Yên,
Ba Chẽ, Yên Hưng), Nghệ An (Quỳ Châu, Nghĩa Đàn), Hà Tĩnh (Hương Sơn,
Hương Khê), Quảng Bình (Long Đại).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
Nghiên cứ u quy luậ t phá t sinh, tái sinh tự nhiên và diễn thế thứ sinh của
các xã hợp thực vật rừng nhiệt đới Thái Văn Trừng (1963, 1970, 1978) [66]
đã nhậ n đị nh:
Sự phát sinh cá c loạ i hì nh quầ n thể có thà nh phầ n loà i cây khá c nhau đượ c
nghiên cứ u đ ầy đủ trước kia cho nên lúc đó chúng tôi cho rằng trong thiên
nhiên nhiệ t đớ i khôn g có quầ n hợ p và chỉ có nhữ ng loà i ưu thế do đó chú ng
tôi có đề nghị lấ y nhữ ng kiể u thả m thự c vậ t là m đơn vị cơ bả n củ a thả m thự c
vậ t. Như trên đã trì nh bà y trong thiên nhiên nhiệ t đớ i có thể có nhữ ng dạ ng
quầ n hợ p thực vậ t ở nhữ ng môi trườ ng khắ c nghiệ t, còn đại bộ phận là những
ưu hợ p thự c vậ t có mộ t ưu thế tương đố i của cá thể các loài cây trong tầng ưu
thế sinh thá i (hay lậ p quầ n) của quần thể và có lẽ phổ biến hơn là những phứ c
hợ p mà độ ưu thế chưa phân hó a rõ rệ t.
Nhữ ng vấ n đề cầ n đặ t ra để nghiên cứ u là tá c nhân nà o đã tá c độ ng
trong quá trì nh phá t sinh nhữ ng xã hợ p thự c vậ t nguyên sinh , và quá trình tái
sinh tự nhiên sẽ diễ n ra như thế nà o và chỉ tiêu về chế độ khắ c nghiệ t củ a môi

tái sinh rất thưa và yếu dưới tán rừng, của những loài cây đang chiếm ưu thế ở
tầ ng trên. Theo nhữ ng số liệ u điề u tra và thố ng kê củ a Aubreville A ở Coote
d

Ivoire (Bờ biể n ngà ở châu phi ) hay củ a David T .A.W và Richards P .W ở
Moraballi (Guyana) về tì nh hì nh đạ i biể u cá c cấ p thể tí ch củ a cá c loà i tro ng
các ô tiêu chuẩn thì các loài cây ưu thế của các tầng trên có rất ít đại biểu
trong cá c tầ ng dướ i tá n rừ ng , thậ m chí nhiề u khi không có đạ i biể u , như vậ y
khi cá c loà i cây ưu thế nà y chế t đi , thì thành phần của xã hợp có biến đổi
không? Mộ t số hợ p khá c giữ a cá thể cá c loà i cây ưu thế có thể thay thế cho xã
hợ p hiệ n nay không? Loài cây tái sinh được nhiều nhất , có phải là loài chiếm
ưu thế hiệ n nay không? Thế thì điều tra tình hình tái sinh cây con củ a cá c loà i
mà không nắm được quy luật tái sinh của quần thể , không biế t tậ p tí nh củ a
từ ng loà i cây đố i vớ i á nh sá ng, độ ẩ m, nhiệ t độ dướ i rừ ng thì là m sao mà phá n
đoá n nổ i hướ ng diễ n thế củ a quầ n thể , thành phần của các xã hợp , ưu hợ p sẽ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20
phát sinh? Có loài cây hiện nay, cây mạ mọ c rấ t nhiề u nhưng vì sao lạ i không
thấ y cây con, cây nhỡ ở tầ ng trên, có loài thì không thấy cây mạ, cây con, cây
nhỡ tá i sinh dướ i rừ ng , nhưng nế u đó là mộ t loà i ưa sá ng và chặ t rừ ng đú ng
vào năm sai hạt , đú ng và o mù a quả chí n , hạt già thì có thể bảo đảm được tái
sinh tự nhiên củ a cá c loà i cây ấ y hay không?
Nguyễn Trọng Đạo (1969)[18] đã đưa ra các biện pháp k thuật xúc
tiến tái sinh tự nhiên dựa vào tiêu chuẩn phân loại rừng, theo ông rừng loại
một thì không tu bổ và xúc tiến tái sinh.
Đồng S Hiền (1974) đã dùng hàm Meyer và hệ đường cong Poisson
để nắm phân bố thực nghiệm số cây theo cỡ kính cho rừng tự nhiên làm cơ sở
cho việc lập biểu đồ thể tích và biểu độ thân cây rừng Việt Nam. Khi nghiên

Kim Ngũ (1984), Phùng Ngọc Lan (1984), Nguyễn Ngọc Lung (1985),
Nguyễn Duy Chuyên (1995).v.v
Vũ Đình Phương (1987) [46] đã khẳng định giữa đường kính tán và
đường kính ngang ngực của cây rừng tự nhiên Việt Nam tồn tại mối quan hệ
mật thiết theo dạng đường thẳng. Tác giả đã thiết lập phương trình cho một số
loài cây lá rộng như: Vạng, Lim xanh, Chò Chỉ trong lâm phần hỗn giao khác
tuổi để phục vụ công tác điều chế rừng.
Phạm Đình Tam (1987) [55], nghiên cứu tình hình tái sinh dưới các lỗ
trống ở rừng thứ sinh vùng Hương Sơn (Hà Tĩnh) đã có nhận xét: Số lượng
cây tái sinh xuất hiện khá nhiều dưới các lỗ trống khác nhau, lỗ trống càng
lớn cây tái sinh càng nhiều và hơn hẳn những nơi kín tán.
Nguyễn Ngọc Lung và cộng sự (1993) [35] cho rằng nghiên cứu quá trình tái
sinh tự nhiên cho phép nắm vững các điều kiện cần và đủ để sự can thiệp của
con người đi đúng hướng. Quá trình đó tùy thuộc vào mức độ tác động của
con người mà ta thường gọi là xúc tiến tái sinh tự nhiên với mức cao nhất là
tái sinh nhân tạo.
Lê Mộng Chân (1994) [7] khi điều tra tổ thành loài cây ở vùng núi cao
vườn quốc gia Ba Vì, ông cho rằng tình hình tái sinh tốt là 4100-7440 cây/ha.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

22
Cây có triển vọng chiếm trên 60%, thành phần cây tái sinh phấn lớn là những
cây chịu bóng.
Khi nghiên cứu vai trò của cây tái sinh rừng ở các vùng Tây Bắc, vùng
Đông Bắc, vùng Bắc Trung Bộ, vùng trung tâm, Trần Xuân Thiệp (1996) [60]
đã nhận định rằng vùng Đông bắc có năng lực tái sinh khá tốt với số lượng
8000 – 12000 cây/1ha, tỉ lệ cây có triển vọng cao đáp ứng được cho việc phục
hồi rừng.
Thống kê các công trình nghiên cứu về rừng tự nhiên ở Việt Nam cho

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

23
của Loschau) theo ba cấp: tốt, trung bình, xấu. Về phân bố theo cấp chiều cao
đều có sự tương đồng ở các trạng thái rừng, phân bố giảm theo hàm Meyer từ
cấp 1 đến 5 (< 3m), cấp 6 có chiều cao cộng dồn của cây có đường kính
<10cm nên không thể hiện rõ quy luật này.
Qua tham khảo các tài liệu có liên quan cho thấy, việc nghiên cứu phân
bố N/D trong thời gian gần đây không chỉ dùng ở mục đích phục vụ công tác
điều tra như xác định tổng diện tích ngang, trữ lượng, mà chủ yếu là xây dựng
cơ sở khoa học cho giải pháp lâm sinh trong nuôi dượng rừng. Bảo Huy
(1993), Đào Công Khanh (1996) [25], Lê Sáu (1995) [54], đã nghiên cứu
phân bố N/H để tìm tầng tích tụ tán cây.
Các tác giả đều đi đến nhận xét chung là, phân bố N/D có dạng một
đỉnh chính và nhiều đỉnh phụ hình răng cưa và mô tả thích hợp bằng hàm
Weibull.
Lê Ngọc Công (2004) [14] trong nghiên cứu phục hồi rừng bằng
khoanh nuôi trên một số thảm thực vật ở Thái Nguyên cho thấy rằng trong
diễn thế phục hồi rừng giai đoạn 1- 6 năm mật độ cây gỗ thay đổi rõ rệt ở tuổi
1 từ 9-10 loài, ở tuổi 3 từ 19 đến 21 loài, ở tuổi 15 từ 15 đến 16 loài và tiến tớ i
ổn định.
1.3.2.2. Những nghiên cứu về phục hồi bằng rừng trồng ( phục hồi nhân
tạo)
Theo Phùng Ngọc Lan (1991) [29] khi nghiên cứu về đặc điểm của
rừng trồng thuần loài đã nêu rõ nhược điểm của rừng trồng thuần loài (Mỡ,
Bồ Đề Thông, Bạch Đàn ) thường xuất hiện dịch bệnh, tác dụng cải tạo đất
của rừng Thông, rừng Bạch Đàn diễn ra rất chậm. Vì vậy theo tác giả cần phải
phát triển các mô hình trồng rừng hỗn loài và mô hình nông lâm kết hợp.
Lâm Phúc Cố (1994) [15] khi nghiên cứu phục hồi lại rừng đầu nguồn
sông Đà tại Mù Căng Chải cũng đưa ra ý kiến: Ở những nơi đất khó có khả


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status