nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ và một số yếu tố gây bệnh của vi khuẩn salmonella spp trong hội chứng tiêu chảy ở lợn dưới 3 tháng tuổi tại tỉnh thái nguyên và biện pháp phòng trị - Pdf 23

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
––––––––––––––––––
TRỊNH TUẤN ANH

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ VÀ MỘT SỐ
YẾU TỐ GÂY BỆNH CỦA VI KHUẨN SALMONELLA SPP
TRONG HỘI CHỨNG TIÊU CHẢY Ở LỢN DƯỚI 3 THÁNG TUỔI
TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

CHUYÊN NGÀNH: THÚ Y
MÃ SỐ: 60.62.50 Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN SỬU
PGS.TS. CÙ HỮU PHÚ
THÁI NGUYÊN, 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kì công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã
được chỉ rõ nguồn gốc.

Thái nguyên, ngày 05 tháng 5 năm 2010
Tác giả luận văn
Trịnh Tuấn Anh


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
1. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay đất nước ta đang trên đường công nghiệp hóa và hiện đại hóa,
cùng với sự phát triển của nhiều ngành nghề trong nền kinh tế quốc dân,
ngành chăn nuôi nước ta cũng từng bước được phát triển và áp dụng những
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đã có những thay đổi tốt cả về số
lượng và chất lượng sản phẩm chăn nuôi. Nói đến ngành chăn nuôi phải nói
đến ngành chăn nuôi lợn, bởi tầm quan trọng và ý nghĩa thiết thực của các sản
phẩm đa dạng từ ngành chăn nuôi lợn đến đời sống nhân dân, hàng năm cung
cấp một một lượng lớn thịt, mỡ cho con người, ngoài ra nó còn cung cấp một
khối lượng lớn phân bón cho ngành trồng trọt và một số sản phẩm phụ cho
ngành công nghiệp chế biến. Chính vì vậy Đảng và Nhà nước ta đang hết sức
quan tâm đầu tư đến việc phát triển ngành chăn nuôi lợn.
Thái Nguyên là một tỉnh miền núi phía bắc Việt Nam có nghề chăn
nuôi lợn khá phát triển. Chăn nuôi lợn đã góp phần quan trọng để xãa đói,
giảm nghèo cho bà con các dân tộc trong tỉnh. Nhiều hộ gia đình đã vươn lên
làm giàu từ nghề chăn nuôi lợn. Nhiều trang trại, nhiều hộ gia đình đã đẩy
mạnh chăn nuôi lợn nái, lợn thịt hướng nạc với quy mô 50 - 100 con/trại.
Chăn nuôi lợn đã bắt đầu chuyển đổi theo hướng sản xuất hàng hóa và xuất
khẩu. Tuy nhiên người chăn nuôi lợn còn gặp nhiều khó khăn, trong đó có
vấn đề dịch bệnh. Trong nhiều năm qua, hội chứng tiêu chảy thường gặp ở
lợn gây thiệt hại đáng kể cho người chăn nuôi. Hội chứng tiêu chảy không
những xẩy ra ở lợn con theo mẹ mà còn thấy khá phổ biến ở lợn từ sơ sinh
đến 3 tháng tuổi. Theo nhiều tác giả, hội chứng tiêu chảy do rất nhiều nguyên


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Tình hình nghiên cứu vi khuẩn Salmonella spp và bệnh do chúng gây ra
2.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Vi khuẩn Salmonella lần đầu tiên được D.E Salmon cùng T. Smith
phát hiện vào năm 1885, đó chính là Salmonella choleraesuis. Năm 1990
Lignieres đặt tên cho vi khuẩn là Salmonella để tôn vinh Salmon chính là
người đầu tiên phát hiện ra vi khuẩn này. Theo Sam và cộng sự thì mãi đến
năm 1934 bệnh mới chính thức được công nhận do các công trình nghiên cứu
của White và Kauffmann về cấu trúc kháng nguyên của Salmonella
(Manninger, 1975).
Đến năm 1997 con số serotyp Salmonella được xác định lên đến 3.000.
Năm 1998 lại bổ sung thêm 6 serotyp khác. Như vậy, giống Salmonella luôn
luôn thu hút được sự chú ý của các nhà chuyên môn trong lĩnh vực vi sinh vật
và y học.
Các chủng vi khuẩn Salmonella phân lập từ thịt lợn chết do mắc bệnh
phó thương hàn thường gặp ở miền Tây của nước Mỹ là S. choleraesuis var
kunzendorf, Salmonella typhinurium và Salmonella typhisuis (Barnes D.M. và
Sorensen K.D., 1974). Trong một vài trường hợp ở lợn còn tìm thấy S. dublin
và S. entertidis; hai loài S. entertidis và S. dublin cũng gặp ở lợn con đang bú
sữa . Những thông báo gần đây cho thấy: ngoài động vật và những sản phẩm
động vật mà chủ yếu là thịt lợn, người ta còn thấy Salmonella choleraesuis
trong cơ thể người bị bệnh (Cherubin C.E., 1980). Từ việc tìm thấy vi khuẩn
Salmonella trong động vật ốm, sản phẩm động vật trong nước và trong bột
thịt… các tác giả đã có những đề xuất về các giải pháp tổng hợp cần thiết

bệnh. Một vài loài như S. typhi, S. paratyphi A, S. paratyphi B, S. paratyphi C

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
chỉ ký sinh ở người. Những loài khác hay gặp hơn như: S. choleraesuis, S.
enteritidis chủ yếu ký sinh ở động vật nhưng cũng có khả năng gây bệnh cho
người. Nguyễn Văn Lãm (1968) [24] đã tiến hành nghiên cứu chế vacxin phó
thương hàn lợn con từ chủng Salmonella chuẩn của Trung Quốc.
21 năm sau, Nguyễn Thị Nội và cs. (1989) [28] tiến hành điều tra tình
hình nhiễm vi khuẩn đường ruột tại một số cơ sở chăn nuôi lợn miền Bắc vẫn
tìm thấy 37,5% lợn nhiễm Salmonella, nhóm tác giả này đã nghiên cứu và chế
tạo thành công vacxin đa giá Salsco phòng bệnh ỉa chảy cho lợn con. Vacxin
đã được áp dụng để phòng bệnh có hiệu quả ở nhiều trại chăn nuôi lợn, tỷ lệ
lợn bị tiêu chảy giảm từ 30-50%, tỷ lệ lợn chết do tiêu chảy giảm xuống còn
10-20%. Những năm gần đây các công trình nghiên cứu về các loài vi khuẩn
Salmonella ở lợn vẫn thu hút được sự chú ý của các tác giả trong nước.
Lê Văn Tạo và cs. (1989) đã phân lập, xác định serotyp của vi khuẩn
Salmonella gây bệnh ở lợn cho biết: 50% các chủng phân lập được thuộc
Salmonella choleraesuis; 12,5% Salmonella enteritidis; 6,25% Salmonella
typhimurium và số còn lại thuộc các serotyp khác. Trần Xuân Hạnh (1995)
[15] đã phân lập và giám định vi khuẩn Salmonella ở lợn tại Thành phố Hồ
Chí Minh cho biết kết quả: Salmonella typhisuis ở lợn bệnh là 16,9%; ở lợn
bình thường 6-16 tuần tuổi là 4,2%; Salmonella paratyphi ở lợn 6-16 tuần
tuổi là 2,8%. Đặc biệt vi khuẩn Salmonella choleraesuis chiếm 38,7% ở lợn
bệnh và 2,8% ở lợn bình thường.
Theo Phùng Quốc Chướng (1995) [6] ở Tây Nguyên, mùa khô lợn mắc
bệnh do vi khuẩn Salmonella gây ra là 20,03%, vụ đông là 28,66%. Tạ Thị

enterica subsp. arizonae, S. enterica subsp. diarizinae, S. enterica subsp.
houtenae, S. enterica subsp. indica. Trong đó phân loài S. enterica subsp.
enterica gồm phần lớn các chủng Salmonella là những tác nhân gây bệnh cho
người và động vật (Quinn, 1994 [67]).
2.2.1 Đặc điểm hình thái

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
Theo Bergeys Manual (1994) [49], vi khuẩn Salmonella là những trực
khuẩn ngắn, hai đầu tròn, có kích thước 0,4-0,6 x 1,0-3,0 m, bắt màu Gram
âm, không hình thành nha bào và giáp mô. Đa số loài Salmonella có lông
(flagella) từ 7-12 chiếc xung quanh thân (trừ S. gallinarum-pullorum).
Lông giúp cho vi khuẩn có khả năng di động. Lông có hình tròn, dài,
xuất phát từ màng cytoplasma. Do có cấu trúc từ các sợi protein hình xoắn
nên có thể co giãn và di động nên lông của chúng rất khó nhuộm. Nếu nhuộm
bằng phương pháp Haschem (1972) thì có thể nhìn thấy chúng dưới kính hiển
vi điện tử (Lê Văn Tạo, 1993 [38]). Lông có tính kháng nguyên và do các gen
mã hóa tổng hợp protein riêng quy định.
Ngoài ra, trên bề mặt màng ngoài của vi khuẩn Salmonella đều có các
cấu trúc sợi nhỏ hơn, còn gọi là Fimbriae hay Pili. Chúng có kích thước
chừng 0,01- 0,03 x 1,0 m. Số lượng fimbriae trên 1 vi khuẩn có khoảng 250-
400 cái vươn thẳng ra xung quanh bề mặt tế bào. Fimbriae có cấu trúc là
protein và có tính kháng nguyên đặc trưng. Theo Jones và cs (1981) [59]:
Fimbriae tạo cho vi khuẩn khả năng bám dính (adhesion) lên các tế bào biểu
mô ruột và xâm nhập vào lớp niêm mạc.
2.2.2 Tính chất nuôi cấy
Salmonella là vi khuẩn hiếu khí tuỳ tiện, dễ nuôi cấy. Nhiệt độ nuôi cấy

TM
Salmonella, sau 24 giờ nuôi cấy, vi
khuẩn hình thành khuẩn lạc trơn, tròn, bóng láng (dạng S) và có màu tím hồng.
Trong môi trường thạch TSI (Triple Sugar Iron), vi khuẩn Salmonella
do sản sinh alkaline nên phần thạch nghiêng có màu đỏ (pH=7,3), đáy ống
nghiệm màu vàng (pH=6,8) do vi khuẩn chỉ lên men đường Glucose. Phần
giữa ống nghiệm có màu đen do vi khuẩn sản sinh ra khí H
2
S. Nếu để lâu (quá
24 giờ), màu đen môi trường thường làm át phản ứng tạo axit ở phần đáy ống
nghiệm (không nhìn thấy màu vàng). Vi khuẩn sinh hơi làm nứt thạch, có khi
đẩy thạch khỏi đáy ống nghiệm (Quinn và cs, 2002 [67]).
Trong môi trường LIM (Lysine Indole Motility), vi khuẩn không làm
chuyển màu môi trường, môi trường có màu tím nhạt.
Môi trường Malonate, vi khuẩn không phát triển nên không làm thay
đổi màu môi trường.
2.2.3 Đặc tính sinh hoá
Theo Quinn và cs (2002) [67], giống vi khuẩn Salmonella được chia
thành 7 phân nhóm, mỗi phân nhóm có khả năng lên men một số loại đường
nhất định và không đổi. Phần lớn phân loài S. enterica subsp. enterica gây

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
bệnh cho động vật máu nóng. Chúng lên men và sinh hơi: Glucoza, Mannit,
Mantoza, Galactoza, Dulcitol, Arabonoza, Sorbitol. Cũng ở nhóm này, hầu
như các chủng vi khuẩn Salmonella đều không lên men Lactoza và Saccaroza.
Đa số các vi khuẩn thuộc giống Salmonella không làm tan chảy

ngày, trong thịt ướp muối từ 6-8 tháng (Nguyễn Vĩnh Phước và cs, 1970, [33]).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
2.2.5 Đặc điểm dịch tễ học của vi khuẩn Salmonella spp
Vi khuẩn Salmonella gây bệnh cho người và vật nuôi, phân bố ở khắp
nơi trên thế giới, vì vậy các nghiên cứu về cách truyền lây của vi khuẩn này
được nhiều nhà khoa học nghiên cứu. Một đặc điểm dịch tễ quan trọng của
Salmonella là trạng thái mang trùng và thải trùng của gia súc.
Theo Archie Hunter (2002) [20], một nguồn bệnh đặc biệt quan trọng là
gia súc mang vi khuẩn Salmonella spp nhưng không biểu hiện lâm sàng.
Những con này có thể thải mầm bệnh ra ngoài môi trường trong vài tháng.
Tác giả cũng cho biết cách lây lan như sau: Gia súc nhiễm bệnh thải vi khuẩn
Salmonella vào trong phân và bệnh xảy ra do tiếp xúc trực tiếp hay ô nhiễm
phân vào thức ăn, nước uống hay chuồng trại gia súc.
Theo Gray và cs (1995) [58] , lợn nhiễm S. choleraesuis thường biểu
hiện các dấu hiệu lâm sàng từ 36-48 giờ sau khi nhiễm trùng và có 10
3
- 10
6

đơn vị vi khuẩn trong 1 gram phân vào giai đoạn bệnh cao nhất. Cũng theo
tác giả thì phần lớn những lợn nhiễm tự nhiên sau khi khỏi bệnh, có thể loại
thải hoàn toàn vi khuẩn vào giữa 9-12 tuần sau khi nhiễm trùng. Điều này cho
thấy rằng tình trạng mang trùng lâu dài này có thể dẫn tới sự nhiễm khuẩn
môi trường và sự tái nhiễm tiếp theo của những động vật mới đưa vào trại.
Nhiều nhà khoa học khi nghiên cứu về đường nhiễm Salmonella đều

Kháng nguyên O nằm ở thành tế bào vi khuẩn, có cấu trúc LipoPolySaccharide
(LPS) là thành phần chính cấu tạo nên lớp màng ngoài của thành tế bào vi
khuẩn Gram âm. Kháng nguyên O chịu nhiệt (Heat-stable) và kháng cồn, bị
biến tính khi sử lý bằng formaldehyde. Kháng nguyên O gồm 2 nhóm chính:
- Polysaccharide không có nhóm hydro, không mang tính đặc trưng của
kháng nguyên và chỉ tạo sự khác biệt về hình thái khuẩn lạc từ dạng S
(Smooth) sang dạng R (Rough) và dẫn đến giảm độc lực của vi khuẩn
(Selbitz, 1995 [70]).
- Polysaccharide nằm ở ngoài có nhóm hydro quyết định tính kháng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
nguyên và đặc trưng cho từng serotyp.
Kháng nguyên O được xem như là một nội độc tố (Endotoxin) mà nó
được cấu tạo bởi nhóm hỗn hợp Glyco- polypeptide có thể tìm thấy ở màng
ngoài của vỏ bọc vi khuẩn.
Theo CIRAD (2006) [51], kháng nguyên O của vi khuẩn Salmonella có
67 loại chính, được chia thành hơn 50 nhóm, số còn lại đóng vai trò phụ.
* Kháng nguyên lông H (H- Antigen)
- Kháng nguyên H (H-Antigen) là protein nằm trong thành phần lông
của vi khuẩn, là loại kháng nguyên không chịu nhiệt (Heat labile), rất kém
bền vững so với kháng nguyên O, bị phá hủy ở nhiệt độ 60
o
C sau 1 giờ, dễ
phá hủy bởi cồn và axit yếu (Nguyễn Như Thanh và cs, 2001 [41]).
- Kháng nguyên H gồm có 2 pha:
Pha 1: có tính đặc hiệu, gồm 28 loại kháng nguyên được biểu thị bằng

2.2.7.1 Các yếu tố không phải là độc tố
a) Kháng nguyên O
Chất lượng thành phần hóa học, cấu trúc kháng nguyên O đều ảnh
hưởng tới độc lực của vi khuẩn Salmonella. Cụ thể là: S. typhimurium nếu
thay thành phần kháng nguyên từ công thức 1, 4, 12 sang 1, 9, 12 thì vi khuẩn
từ dạng có độc lực chuyển sang dạng không có độc lực (Valtonen, 1977 [74]).
Kháng nguyên O là yếu tố độc lực giúp vi khuẩn chống lại khả năng
phòng vệ của vật chủ, giúp vi khuẩn phát triển trong tế bào tổ chức, chống lại
sự thực bào của đại thực bào (Morris và cs, 1976 [62]).
Kháng nguyên O khích thích các cơ quan đáp ứng miễn dịch hình thành
kháng thể đặc hiệu ngưng kết với kháng nguyên tương ứng. Cơ chế phòng vệ
này giúp cơ thể vật chủ chống lại quá trình tái xâm nhập của vi khuẩn.
Đến nay, người ta đã xác định được trên 3000 serotyp kháng nguyên O
của Salmonella, thành phần kháng nguyên của vi khuẩn S. choleraesuis gồm:
O
6
, O
7
; S. typhimurium gồm: O
1
, O
4
, O
5
, O
12
; S. enteritidis gồm: O
1
, O
9

Bước 3: Là quá trình tương tác giữa yếu tố bám dính của vi khuẩn với
các điểm tiếp nhận trên bề mặt tế bào. Yếu tố bám dính của vi khuẩn được sắp
xếp trên các fimbriae.
Theo Lê Văn Tạo (1993) [38], trên mỗi tế bào vi khuẩn Salmonella có
từ 250- 400 fimbriae, chúng giúp vi khuẩn bám dính vào tế bào nhung mao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
ruột non để gây bệnh.
Đỗ Trung Cứ và cs (2003) [9] đã công bố: S. typhimurium phân lập từ
lợn mắc bệnh Phó thương hàn có khả năng bám dính lên bề mặt tế bào Vero
với tỷ lệ cao (từ 70,76% - 93,48%). Kết quả này tương đương với khả năng
bám dính của chủng S. typhimurium chuẩn.
e) Yếu tố xâm nhập
Theo Finlay và cs (1988) [56], khả năng xâm nhập vào tế bào có nhân
hoặc lớp niêm mạc của đường ruột là đặc tính của một số chủng Salmonella
có độc lực. Các biến chủng Salmonella không có khả năng xâm nhập vào tế
bào thường là các chủng không có độc lực.
Sau khi tiếp cận tế bào vật chủ, vi khuẩn Salmonella tác động làm tăng
hàm lượng Ca
++
nội bào, hoạt hóa Actin Depolimeriring Enzyme, làm thay đổi
cấu trúc, hình dạng các sợi actin, biến đổi màng tế bào, dẫn đến hình thành giả
túc bao vây tế bào vi khuẩn dưới dạng các không bào chứa vi khuẩn. Sau đó
Salmonella được xâm nhập vào trong tế bào, tồn tại, tiếp tục nhân lên với số
lượng lớn, phá vỡ tế bào vật chủ, sản sinh độc tố đường ruột (Enterotoxin),
làm xuất hiện quá trình tiêu chảy của vật chủ (Frost và cs, 1997 [57]).

2.2.7.2. Các yếu tố là độc tố
Nếu như các yếu tố gây bệnh không phải là độc tố là những tác nhân
gián tiếp, quan trọng trong quá trình sinh bệnh của vi khuẩn Salmonella, thì
các yếu tố gây bệnh là độc tố lại là tác nhân trực tiếp quyết định quá trình sinh
bệnh. Các yếu tố gây bệnh là độc tố của Salmonella bao gồm: nội độc tố
(Endotoxin), ngoại độc tố đường ruột (Enterotoxin) và độc tố tế bào
(Cytotoxin) (Finlay và Falkov, 1988 [56])
a, Độc tố đường ruột (Enterotoxin)
Độc tố đường ruột của vi khuẩn Salmonella có hai thành phần chính:
Độc tố thẩm xuất nhanh RPF (Rapid Permeability Factor) và độc tố thẩm xuất
chậm DPF (Delayed Permeability Factor) (Peteron, 1980 [65]).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
+ Theo Clarke và cs (1988) [53], độc tố thẩm xuất nhanh có cấu trúc
thành phần giống với độc tố chịu nhiệt của vi khuẩn E. coli (Heat-stabile
toxin: ST).
Yếu tố thẩm xuất nhanh giúp Salmonella xâm nhập vào tế bào biểu mô
của ruột, và thực hiện khả năng thẩm xuất sau 1- 2 giờ, kéo dài 48 giờ và làm
trương tế bào CHO (Chinese Hamster Ovary cell). ST có khả năng chịu được
nhiệt độ 100
o
C trong 4 giờ, bền vững ở nhiệt độ thấp, có thể bảo quản ở -
20
o
C. Cấu trúc phân tử gồm nhiều polysaccharide và một số chuỗi
polypeptide.

Đỗ Trung Cứ và cs (2003) [9] đã kết luận: 81,81% số chủng S.
typhimurium phân lập từ lợn mắc bệnh tiêu chảy sản sinh độc tố không chịu
nhiệt (LT) có khả năng gây tích nước trong ruột non của lợn thí nghiệm.
b, Nội độc tố (Endotoxin)
Nội độc tố nằm ở lớp màng ngoài của tế bào vi khuẩn và được cấu tạo
bởi thành phần cơ bản là Lipopolysaccharide (LPS). LPS có cấu tạo phân tử
lớn, gồm 3 vùng riêng biệt với các đặc tính và chức năng riêng biệt: Vùng ưa
nước, vùng lõi và vùng lipit A.
Vùng ưa nước bao gồm một chuỗi Polysaccharide chứa các đơn vị cấu
trúc kháng nguyên O. Vùng lõi có bản chất là acid heterooligosaccharide, ở
trung tâm, nối kháng nguyên O với vùng lipit A. Vùng lipit A đảm nhận chức
năng nội độc tố của vi khuẩn. Cấu trúc nội độc tố gần giống với cấu trúc của
kháng nguyên O. Cấu trúc nội độc tố biến đổi sẽ dẫn đến sự thay đổi độc lực
của Salmonella. Các đột biến gen ở vùng lõi, vùng ưa nước làm cho
Salmonella không còn độc lực (Trần Quang Diên, 2002 [12]).
Lipit A có ái lực với màng tế bào, với lipit khác và với Protein. Điều đó
chứng tỏ lipit A chính là trung tâm hoạt động của nội độc tố. Vùng đa đường
Polysaccharide, chỉ giữ vai trò là vật mang các lipit không hòa tan (Bradley,
1979 [55]).
Nội độc tố là LPS được tiết ra từ vách tế bào vi khuẩn khi bị dung giải.
Trước khi thể hiện độc tính, LPS cần phải liên kết với các yếu tố liên kết tế
bào hoặc các receptor bề mặt các tế bào như: Tế bào lâm bao cầu B, lâm bao
cầu T, tế bào đại thực bào, tiểu cầu, tế bào gan lách.
Rất nhiều các cơ quan trong cơ thể vật chủ chịu sự tác động của nội độc
tố LPS: Gan, thận, cơ, hệ tim mạch, hệ tiêu hóa và hệ thống miễn dịch với các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
2.2.8. Một số nguyên nhân gây tiêu chảy ở lợn
Tiêu chảy là hiện tượng bệnh lý có liên quan đến nhiều yếu tố, có yếu
tố là nguyên nhân nguyên phát, có yếu tố là nguyên nhân thứ phát. Vì vậy
việc phân biệt giữa các nguyên nhân gây tiêu chảy rất khó khăn (Phạm Ngọc
Thạch, 1996 [44], Lê Minh Chí, 1995 [5]). Có thể liệt kê một số nguyên nhân
quan trọng sau.
2.2.8.1. Tiêu chảy do môi trường ngoại cảnh.
Môi trường ngoại cảnh là một trong 3 yếu tố cơ bản gây ra bệnh dịch, mối
quan hệ giữa Cơ thể - Mầm bệnh - Môi trường là nguyên nhân của sự không ổn
định sức khoẻ, đẫn đến phát sinh bệnh (Nguyễn Như Thanh, 2001 [40]).
Môi trường ngoại cảnh bao gồm các yếu tố: nhiệt độ, độ ẩm, các điều
kiện về chăm sóc nuôi dưỡng, vệ sinh chuồng trại, sự di chuyển, thức ăn,
nước uống
Khi gia súc bị nhiễm lạnh kéo dài sẽ làm giảm phản ứng miễn dịch,
giảm tác dụng thực bào, làm cho gia súc bị nhiễm khuẩn gây bệnh (Hồ Văn
Nam và cs, 1997 [27]).
Khi gặp điều kiện ngoại cảnh không thuận lợi, thay đổi đột ngột về
thức ăn, Vitamin, protein, thời tiết vận chuyển làm giảm sức đề kháng của
con vật thì vi khuẩn thường trực sẽ tăng độc tố và gây bệnh (Bùi Quý Huy,
2003 [19]).
Như vậy, môi trường ngoại cảnh gây bệnh tiêu chảy không mang tính
đặc hiệu mà mang tính tổng hợp. Lạnh và ẩm gây rối loạn hệ thống điều hoà
trao đổi nhiệt của cơ thể lợn, dẫn đến rối loạn quá trình trao đối chất, làm
giảm sức đề kháng của cơ thể, từ đó các mầm bệnh trong đường tiêu hoá có
thời cơ tăng cường độc lực và gây bệnh.
2.2.8.2. Nguyên nhân do Vi sinh vật


đoạn từ lúc sơ sinh đến khi cai sữa thường do E.coli; lứa tuổi 6 - 12 tuần tuổi

Trích đoạn Nguyên liệu dùng trong nghiên cứu Kết quả phân lập vi khuẩn Salmonella spp từ các mẫu bệnh phẩm Kết quả gây bệnh thực nghiệm trên lợn bằng các chủng Salmonella spp
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status