nghiên cứu tác dụng của cao nước “thọ thai” trong điều trị dọa sẩy thai dưới 22 tuần và một số tác dụng không mong muốn của thuốc - Pdf 23

B GIO DC V O TO B Y T
TRNG I HC Y H NI
************
THI TH HONG OANH
NGHIÊN CứU TáC DụNG CủA CAO NƯớC THọ
THAI trên thực nghiệm và
TRONG ĐIềU TRị DọA SẩY THAI
Chuyờn ngnh : Y hc c truyn
Mó s: 62.72.60.01
LUN N TIN S Y HC
gi hng dn kho hc: PGS.TS. Lờ Th Hin
PGS.TS. Nguyn Vit Tin
H Ni 2011
1
B GIO DC V O TO B Y T
TRNG I HC Y H NI
************
THI TH HONG OANH
NGHIÊN CứU TáC DụNG CủA CAO NƯớC
THọ THAI trên thực nghiệm và
TRONG ĐIềU TRị DọA SẩY THAI
Chuyờn ngnh : Y hc c truyn
Mó s: 62.72.60.01
LUN N TIN S Y HC
gi hng dn kho hc: PGS.TS. Lờ Th Hin
PGS.TS. Nguyn Vit Tin
H Ni 2011
ĐẶT VẤN ĐỀ
Dọa sẩy thai là giai đoạn sớm của quá trình sẩy thai, biểu hiện bằng các
triệu chứng ra máu âm đạo (AĐ) và/hoặc đau bụng trong khi CTC đóng kín.
Ở giai đoạn này phôi thai vẫn còn sống và chưa bong khỏi niêm mạc tử cung,

hồi cứu của Phan Thị Lưu (2008) tại khoa Phụ bệnh viện YHCT Trung ương
cho thấy thể bệnh hay gặp là thể thận hư, bài thuốc được dùng nhiều nhất là
bài “Thọ thai hoàn” với hiệu quả điều trị đạt 80% [31], [43]. Năm 2010, một
nghiên cứu được tiến hành để đánh giá hiệu quả điều trị dọa sẩy thai của bài
thuốc cổ phương “Thọ thai hoàn” dưới dạng thang sắc uống tại khoa Phụ sản
bệnh viện Đa khoa YHCT Hà Nội. Kết quả: tỷ lệ thành công là 80,7%. Đây là
những nghiên cứu bước đầu trên lâm sàng cho thấy bài thuốc có hiệu quả
trong điều trị chứng thai động bất an thể thận hư. Trong nghiên cứu này,
nhiều thai phụ ngại uống thuốc vì lượng nước thuốc phải dùng nhiều
(240ml/24h) trong khi thai phụ thường buồn nôn do tình trạng nghén. Do đó
thuốc được cải dạng thành cao nước theo tỷ lệ 1:1 để mỗi lần phải uống ít hơn
(100ml/24h). Tuy nhiên, khi cải dạng thuốc có thể tạo ra những hoạt chất mới.
Một câu hỏi đặt ra là liệu tác dụng của bài thuốc có thay đổi không? Để có
những kết luận có giá trị khoa học, bước đầu tìm hiểu cơ chế tác dụng của bài
thuốc và thuận tiện hơn cho người bệnh khi sử dụng, nghiên cứu được tiến
hành với hai mục tiêu sau:
1. Đánh giá tác dụng giảm co cơ tử cung, cầm máu của cao nước “Thọ
thai” trên thực nghiệm.
2. Nghiên cứu tác dụng của cao nước “Thọ thai” trong điều trị dọa sẩy
thai dưới 22 tuần và một số tác dụng không mong muốn của thuốc.
3
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. QUAN NIỆM VỀ DỌA SẨY THAI THEO YHHĐ
1.1.1. Sinh lý thai nghén
1.1.1.1. Sự thụ tinh, làm tổ và phát triển của phôi
Thụ tinh là sự kết hợp giữa một giao tử đực là tinh trùng và một giao tử
cái là noãn để hình thành một hợp tử có khả năng phát triển rất nhanh gọi là
phôi [2]. Sau khi thụ tinh, phôi bắt đầu phân chia và di chuyển theo vòi tử
cung xuống tử cung để làm tổ. Trên đường đi, phôi phân bào rất nhanh: từ

này phụ thuộc rất nhiều vào các nội tiết tố sinh dục, đặc biệt là hCG,
progesteron và estrogen. Sự giảm sút nồng độ các chất này sẽ khiến phôi bị
chết hoặc sẩy ra ngoài [2], [19]. Trong giai đoạn đầu của thai, bánh rau chưa
được biệt hóa hoàn toàn để thực hiện chức năng nuôi dưỡng và bài tiết ra các
hormone sinh dục giúp duy trì tình trạng thai nghén. Đồng thời các tổ chức
của thai nhi mới được hình thành, chưa phát triển hoàn thiện. Chính vì vậy 4
tháng đầu là giai đoạn thai nhi có nguy cơ cao bị đẩy ra ngoài hoặc chết lưu
khi có bất kỳ một tác động không tốt nào đến người mẹ hoặc thai nhi [3].
1.1.1.2. Những thay đổi sinh lý của bà mẹ trong thời kỳ mang thai
* Thay đổi sinh lý
Khi có thai, tất cả các bộ phận trong cơ thể người mẹ đều thay đổi để
thích nghi với nhiệm vụ mới, thay đổi nhiều và rõ rệt nhất là nội tiết tố. Hai
loại nội tiết tố thay đổi nhiều trong khi có thai là hCG (Human Chorionic
Gonadotropin) và các steroid.
- Human chorionic gonadotropin (hCG)
5
Human chorionic gonadotropin (hCG) chủ yếu do lớp hợp bào trung sản
mạc của tế bào lá nuôi bài tiết vào máu mẹ. Nó có hai đơn vị nhỏ là α và β
được liên kết với nhau bằng liên kết photsphate. Tính chất sinh học của hCG
do βhCG đảm nhiệm [59], [65], [69]. Nồng độ trung bình của βhCG diễn biến
như hCG. Trong những tuần đầu, nồng độ βhCG máu tăng gấp đôi sau mỗi 2
ngày, cao nhất vào 10 - 12 tuần sau phóng noãn (100.000-200.000 U/l), sau
đó giảm xuống đến 10.000 - 20.000 U/l và kéo dài thành dạng cao nguyên
trong khoảng từ tuần thứ 16 đến lúc sinh [2], [19], [97].
- Các steroid
Thai nghén chịu ảnh hưởng rất nhiều của nội tiết tố như GnRH
(Gonadotropin Releasing Hormone), FSH (Follicule Stimulating Hormon),
LH (Luteinizing Hormone), progesteron và estrogen. Trong đó quan trọng
nhất là progesteron và estrogen, nồng độ của chúng tăng dần lên trong quá
trình thai nghén, đạt mức cao nhất vào tháng cuối của thai kỳ và giảm thấp

cung, làm tăng nhạy cảm của cơ tử cung với oxytocin. Trong thời kỳ đầu của
thai kỳ, nồng độ estrogen cao có thể gây tăng co bóp TC khiến thai bị đẩy ra
ngoài. Estrogen làm phát triển nội mạc tử cung, kích thích các tuyến của nội
mạc tử cung và tổ chức đệm tăng chế tiết, kích thích chất nhầy cổ tử cung chế
tiết và thay đổi về tính chất. Hormon này kích thích phân bào, tăng tốc độ
sinh sản tế bào ở các mô của thai, phát triển đường sinh dục ngoài khiến thành
AĐ mềm và giãn ra, mở rộng lỗ AĐ, giãn khớp mu, giãn dây chằng. Estrogen
cùng với progesteron làm cho tuyến vú và mô đệm phát triển [2]. Tất cả
những tác dụng trên có ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển thai và tạo điều
kiện dễ dàng cho sự sổ thai. Vì vậy, trong những tháng đầu của thai kỳ, nếu nồng
độ estrogen trong máu mẹ tăng cao sẽ có nguy cơ gây sẩy thai.
* Như vậy, quá trình mang thai chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố. Những
yếu tố này đảm bảo cho thai tồn tại và phát triển đồng thời làm cho cơ thể mẹ
7
biến đổi thích nghi với tình trạng mang thai. Mọi bất thường đặc biệt trong ba
tháng đầu có thể gây sẩy thai như: bất thường ở tinh trùng hay noãn, yếu tố
nội tiết, giải phẫu cơ quan sinh dục mẹ
1.1.2. Nguyên nhân, chẩn đoán và điều trị dọa sẩy thai
Sẩy thai là hiện tượng thai bị tống ra khỏi buồng tử cung trước khi thai
có thể sống được ở môi trường bên ngoài. Theo Tổ chức y tế thế giới (1997),
giới hạn tuổi thai bị sẩy là dưới 20 tuần hay cân nặng dưới 500g, ở Việt Nam
thời gian này là 22 tuần.
Dọa sẩy thai là giai đoạn sớm của quá trình sẩy thai, biểu hiện bằng ra
máu AĐ và/hoặc đau bụng trong khi CTC đóng kín. Ở giai đoạn này thai vẫn
còn sống và chưa bong khỏi niêm mạc tử cung, nếu điều trị sớm thì có thể giữ
được phôi thai [2], [6], [46], [73], [80]. Theo Charles R. B. Beckmann, tất cả
những chảy máu từ tử cung trong nửa đầu thai kỳ, không có nguyên nhân thực
thể đều gọi là dọa sẩy thai [60].
1.1.2.1. Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
* Nguyên nhân: có thể do thai, phần phụ của thai hay do mẹ.

sẩy thai [3], [64].
+ Bệnh buồng trứng
U nang buồng trứng, thiểu năng buồng trứng làm thiểu năng hoàng thể,
teo hoàng thể sớm gây ra suy giảm estrogen và progesteron. Hội chứng buồng
trứng đa nang là một nguy cơ gây vô sinh và sẩy thai [3], [46].
+ Nội tiết
Các nội tiết tố ở đây chủ yếu là nội tiết tố sinh dục, hay gặp nhất là thiểu
năng hoàng thể. Có nhiều nguyên nhân gây thiểu năng hoàng thể như: thiếu
FSH, tăng tiết Prolactin và LH, testosteron tăng cao [81], [107]. Ngoài ra, các
rối loạn nội tiết khác như: đái tháo đường, cường thượng thận, rối loạn chức
năng tuyến giáp cũng có liên quan đến sẩy thai [62], [89].
+ Nhiễm trùng
Các vi khuẩn như lậu, giang mai, chlamydia, listeria, toxoplasmo hoặc
các vi rút như cúm, rubella, sởi, quai bị, viêm não Nhật Bản B, HIV có thể
gây dị dạng thai ở 10 tuần đầu và gây sẩy thai [3].
9
+ Nhiễm độc
Các hóa chất độc hại như: chì, thủy ngân, thuốc trừ sâu, Dioxin,
formandehyde, benzene, tia xạ gây nhiều dị tật bẩm sinh cho thai nhi, sẩy
thai hoặc tử vong chu sinh [3].
+ Chấn thương
Những sang chấn cơ học như: ngã, tai nạn giao thông, phẫu thuật vùng
tiểu khung , các tác động vào màng ối trước khi sinh (chọc ối, sinh thiết gai
rau lấy mẫu màng đệm ) đều có thể gây sẩy thai. Ngoài ra, những sang chấn
về tinh thần cũng có khả năng gây sẩy thai [3].
+ Bệnh tự miễn
Hiện nay, yếu tố tự miễn có liên quan nhiều đến sẩy thai là kháng thể kháng
phospholipid (Antiphospholipid Antibodies - APA) [79]. Ngoài ra còn do các
bệnh tự miễn khác như: Lupus, viêm khớp dạng thấp, xơ cứng bì rải rác [3].
+ Các bệnh mạn tính

+ Người phụ nữ chậm kinh có ra máu âm đạo: số lượng ít, màu đỏ hay
đen, thường lẫn với dịch nhày. Có thể kèm theo đau bụng: thường đau nhẹ
hoặc có cảm giác tức nặng bụng dưới. Nếu đau nhiều, liên tục thì tiên lượng
xấu, khó giữ thai [2], [4], [10], [22].
+ Khám phụ khoa: Cổ tử cung màu tím còn dài, đóng kín. Tử cung to
tương ứng tuổi thai [2], [4], [10], [22].
- Cận lâm sàng
+ Test hCG còn dương tính hoặc nồng độ βhCG máu ≥9 UI/l.
+ Siêu âm chẩn đoán: trên siêu âm ổ bụng từ tuần thứ 5 - 6 thấy được túi
ối trong buồng TC, có thể thấy túi noãn hoàng, từ tuần thứ 6 - 7 thấy âm vang của
thai, từ tuần thứ 7 - 8 thấy hoạt động tim thai, có thể có hình ảnh DDMN.
* Chẩn đoán
- Chẩn đoán xác định: dựa vào các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng
+ Chậm kinh.
+ Đau bụng và/hoặc ra máu âm đạo.
+ Khám: CTC còn dài, đóng kín, TC to tương ứng tuổi thai.
+ Test hCG (+) hoặc βhCG máu ≥9 UI/l.
+ Siêu âm: có túi ối trong buồng TC, có thể có tim thai, có thể có DDMN.
11
- Chẩn đoán phân biệt
+ Chửa trứng: Tử cung to hơn tuổi thai, hCG nước tiểu (-), βhCG máu
tăng cao hơn bình thường, siêu âm thấy hình ảnh thai trứng.
+ Chửa ngoài tử cung: tử cung nhỏ hơn tuổi thai, siêu âm không thấy túi
ối trong buồng tử cung hoặc thấy túi thai nằm ngoài buồng tử cung.
- Chẩn đoán nguyên nhân
Các nguyên nhân gây dọa sẩy thai rất phức tạp nên muốn chẩn đoán được
nguyên nhân cần làm thêm các thăm dò và xét nghiệm khác.
+ Siêu âm
Trong sản phụ khoa, siêu âm theo dõi sự xuất hiện và phát triển của túi
ối, túi noãn hoàng, phôi thai, hoạt động tim thai có thể chẩn đoán thai sớm,

+ Định lượng Progesteron và Estrogen huyết thanh
Bình thường nồng độ estradiol trong huyết thanh ở giai đoạn hoàng thể là
18µg/100ml và đạt 92µg/100ml vào tuần thứ 36-38 của thai kỳ [19]. Phương
pháp này giúp chúng ta biết chính xác lượng hormone đang lưu hành trong
máu mẹ. Nhưng kết quả phụ thuộc nhiều vào cách lấy máu và kỹ thuật thực
hiện, đồng thời giá thành khá cao nên ở Việt Nam ít được áp dụng trong chẩn
đoán dọa sẩy thai và theo dõi sự phát triển của thai.
+ Phiến đồ âm đạo nội tiết
Niêm mạc âm đạo là biểu mô lát tầng bao gồm nhiều lớp tế bào, chịu tác
động của estrogen và progesteron. Khi lượng estrogen tăng, các lớp biểu mô
âm đạo xuất hiện nhiều hơn, đa diện hơn và tách rời nhau, bờ tế bào không
gấp mà phẳng, dẹt, các tế bào ưa axit tăng số lượng, kích thước nhân giảm
dần và tiến tới đông đặc, hiện tượng này cũng xuất hiện ở các tế bào ưa kiềm
ở bề mặt. Khi lượng estrogen giảm, lượng tế bào ưa axit giảm, các tế bào
nhân đông cũng giảm nhưng chậm hơn. Khi lượng progesteron trội lên, chiếm
ưu thế trên phiến đồ âm đạo là các tế bào trung gian ưa kiềm, tập hợp thành
đám dày và nhân không đông, bờ các tế bào này gấp rõ, có thể thấy các tế bào
hình thoi, tỷ lệ tế bào ưa axit và nhân đông ít [15], [48], [95].
Chỉ số ái toan (IA) được tính bằng tỷ lệ % của các tế bào ưa toan trên 300
tế bào âm đạo. Chỉ số nhân đông (IP) thường được tính bằng tỷ lệ % của
13
những tế bào có nhân đông trên 300 tế bào âm đạo [17], [58], [72]. Thường
lấy bệnh phẩm ở cùng đồ bên để làm xét nghiệm [21], [95], [104], [109].
+ Nhiễm sắc đồ
Đối với những trường hợp sẩy thai liên tiếp nghi ngờ do rối loạn nhiễm
sắc thể, lấy chất sẩy làm xét nghiệm hoặc làm xét nghiệm nhiễm sắc đồ cho
cả vợ và chồng [15].
+ Chẩn đoán trước sinh
Các phương pháp chẩn đoán trước sinh đã được thực hiện một cách có hệ
thống trên thế giới từ năm 1970. Đó là các phương pháp: siêu âm, test sàng

- Nằm nghỉ tại giường
Nhiều tác giả nghiên cứu về liệu pháp này và cho các kết quả không
giống nhau. Theo Giovani M. và cs. thì không có sự khác biệt về hiệu quả
điều trị giữa những thai phụ dọa sẩy áp dụng liệu pháp nằm nghỉ tại giường
với những thai phụ không áp dụng liệu pháp này [67]. Có nghiên cứu lại cho
thấy tỷ lệ sẩy thai của nhóm thai phụ tuân theo chỉ định nghỉ ngơi tại giường
thấp hơn hẳn những thai phụ vẫn tiếp tục sinh hoạt bình thường [52], [70].
- Thuốc giảm co bóp cơ tử cung
Các thuốc làm giảm co bóp cơ tử cung thường dùng là các thuốc có tác
dụng giãn cơ trơn như: papaverin, spasmaverin, nospa…
+ Papaverin
Có thể dùng dạng uống hoặc tiêm tĩnh mạch. Đường uống: Papaverin
40mg x 2 viên/lần x 2 lần/24h, cách nhau 6h. Đường tiêm: Papaverin 40mg x
2 ống/lần x 2 lần/24h, tiêm tĩnh mạch, cách nhau 6h. Vì độc và có nhiều tác
dụng không mong muốn nên hiện nay thuốc không được dùng để điều trị dọa
sẩy thai [78].
+ No – Spa (Drotaverine chlorhydrate)
15
Có thể dùng dạng uống hoặc tiêm. Đường uống: No-Spa 40mgx1-2
viên/lầnx3 lần/24h. Đường tiêm: No-Spa 40mg x 1-3ống/24h tiêm dưới da
hoặc tiêm bắp [5].
+ Spasmaverine (Alvérine citrate)
Dùng dạng uống: Spasmaverine 40mg x 1-3 viên/lần x 3 lần/ngày. Thuốc
không gây độc và quái thai nên hay được dùng trong dọa sẩy thai [5].
* Điều trị nguyên nhân: tùy nguyên nhân mà có phương pháp điều trị khác nhau.
- Bất thường nhiễm sắc thể
Hiện nay chưa có phương pháp điều trị hiệu quả. Chỉ có thể phòng ngừa
sẩy thai do bất thường NST bằng cách làm xét nghiệm sàng lọc trước khi thụ
thai. Nếu bất thường NST của tinh trùng thì phải xin tinh trùng, nếu của trứng
thì phải xin trứng của người khỏe mạnh và làm thụ tinh trong ống nghiệm

progesteron mà còn có estrogen, vì thế trong điều trị dọa sảy thai hoặc để giữ
thai do nguyên nhân thiểu năng hoàng thể hoặc suy hoàng thể sớm, người ta
cũng cho thêm chất này. Hiện nay thuốc được sử dụng thường là ethinyl
estradiol (biệt dược Mikrofollin 0,05mg x 1-2 viên/24h). Khi đó, thường tăng
liều Progesteron lên 400-600mg/24h để hạn chế tác dụng tăng co bóp cơ tử
cung của Mikrofollin.
- Rối loạn miễn dịch
Trường hợp chỉ có IgG trong huyết thanh mẹ thấp thì chủ yếu dùng tế
bào Lympho của người bố tiêm dưới da cho bà mẹ. Thông thường trước khi
có thai tiêm 2-4 lần cách nhau 2-3 tuần, sau khi có thai tiêm 1-3 lần [55],
[79], [143]. Đối với trường hợp có kháng kháng thể tự thân thì thường dùng
các thuốc ức chế miễn dịch để giảm tổn thương cho thai nhi và bánh rau. Nếu
có cả kháng kháng thể tự thân và IgG huyết thanh thấp thì điều trị rất khó
khăn [2], [55], [79].
* Hiện nay, Khoa Phụ 2 Bệnh viện Phụ sản trung ương đang áp dụng phác đồ
điều trị đối với những trường hợp dọa sẩy thai không rõ nguyên nhân:
- Thuốc giảm co: Nospa hoặc Alverin 40mg x 2viên/lần x 2 lần/24h hoặc
x1 ống tiêm bắp x 2 lần/24h.
17
- Thuốc nội tiết: Progeffik hoặc Utrogestan (Progesteron) 100mg x 2
viên/lần x 2 lần/24h uống hoặc đặt âm đạo.
- Kháng sinh (nếu có ra máu âm đạo): Curam (Amoxicilin 875mg và
Clavulanat 125mg) 1g x 1 lọ/24h tiêm bắp.
Thời gian điều trị: sau hết triệu chứng 7 ngày.
1.2. QUAN NIỆM VỀ DỌA SẨY THAI THEO YHCT
1.2.1. Sinh lý thụ thai
1.2.1.1. Điều kiện thụ thai
Thiên Kinh mạch sách Linh Khu viết: “người ta sinh ra trước hết là thành
tinh. Tinh này sinh ra não tủy, có xương để làm khung, mạch để làm đường đi
của dinh khí, gân để giữ xương khớp, cơ nhục làm tường vách để bảo vệ nội

thụ thai được”. Còn nói: “phần nhiều nhân có cảm hứng với vật ngoại mà
thành thai, mối cảm xúc đó cũng chẳng qua là công dụng của thần. Sở dĩ có
thần là nhờ tinh của hỏa. Nếu không có hỏa làm cho thần được sung túc thì
không có khí để sinh ra tinh. Ba cái đó (tinh, khí, thần) mất đi thì người ta chỉ
là một đống tro nguội thôi, còn đâu có dương hỏa hóa sinh và tính tình cảm
xúc nữa”.
* Về sự phát triển của thai, sách Phụ đạo xán nhiên ghi lại ý của Sào Nguyên
Phương như sau:
Có thai một tháng kết thành một hạt giống như hạt sương, do thái cực
động mà sinh dương gọi là phôi. Phôi là “thiên nhất sinh thủy” (tức là phần
dương). Mạch Túc quyết âm can nuôi dưỡng, kinh nguyệt bế lại, ăn uống hơi
khác trước. Hai tháng gọi là “thủy cao” biến thành sắc đỏ như cánh hoa đào
do thái cực tĩnh mạch sinh ra. Thai là “địa nhị sinh hỏa” (tức là phần âm).
Mạch túc thiếu dương đởm nuôi dưỡng, nôn mửa lợm giọng, chỉ ăn một thứ,
thế là thấy một tạng đã hư hao. Ba tháng gọi là hình thành thai đầu tiên (thủy
thai). Mạch Thủ quyết âm tâm bào nuôi dưỡng, hình tượng bắt đầu hóa để
chia trai gái, đạo càn thì thành trai, đạo khôn thì thành gái…Bốn tháng mới
chịu tinh hoa của thủy làm thành huyết mạch, hình tượng đủ, ngũ tạng lục phủ
19
thành. Mạch Thủ thiếu dương tam tiêu nuôi dưỡng. Năm tháng mới chịu tinh
hoa của hỏa làm thành khí âm dương, gân xương đã thành, lông tóc mới mọc.
Mạch Túc thái âm tỳ nuôi dưỡng. Sáu tháng mới chịu tinh hoa của kim để
làm thành gân, miệng, mắt đều thành. Mạch Túc dương minh vị nuôi dưỡng.
Bảy tháng mới chịu tinh hoa của mộc để làm thành xương, thai nẩy ra hồn
hay cựa động tay trái (can tàng hồn). Mạch thủ thái dương tiểu trường nuôi
dưỡng. Tám tháng mới chịu tinh hoa của thổ làm thành da dẻ, hình hài lớn
dần, chin khiếu đều thành, thai nẩy ra phách (phế tàng phách). Mạch Thủ
dương minh đại trường nuôi dưỡng. Chín tháng mới chịu tinh hoa của thạch
làm thành da và long, trăm khớp xương đầy đủ, thai chuyển mình ba lần.
Mạch Túc thiếu âm thận nuôi dưỡng. Mười tháng thì mạch thái dương nuôi

thận khí hóa và tàng trữ. Thận khí thịnh thì các chức năng của nó đặc biệt là
chức năng chủ sinh dục và phát dục sẽ hoạt động điều hòa [34]. Đây là một
trong những điều rất cần thiết để có tinh tiên thiên sung thịnh, tạo thành phôi
thai hoàn thiện. Chính vì thế, YHCT cho rằng việc thụ thai có liên quan chủ
yếu tới mức độ sung túc của thận khí ở cả nam và nữ [34], [129], [139], [157].
Cùng với tạng thận, tạng tỳ cũng tăng cường chức năng vận hóa thủy cốc để
cung cấp chất dinh dưỡng cho mẹ và thai. Chức năng thăng đề của tỳ hiệp
đồng với chức năng bế tàng của thận giúp thai được nâng đỡ và giữ chắc
trong bào cung, không bị sa xuống và sẩy ra ngoài [40]. Can tàng huyết, chủ
sơ tiết nên nó điều tiết lượng huyết đến bào cung nhiều hơn và thông suốt để
nuôi dưỡng thai, giúp thai bám chắc và phát triển, đồng thời một phần nuôi
dưỡng bào cung, giúp bào cung phát triển cả về khối lượng và chất lượng để
hoàn thành tốt chức năng mới của mình [159].
Hai mạch xung, nhâm của mẹ có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá
trình thụ thai. Mạch nhâm xuất phát từ bào cung, là chủ quản các kinh âm
trong cơ thể trong đó có kinh can, tỳ, thận. Người mẹ lấy huyết làm gốc nên
21
tinh tiên thiên của mẹ còn gọi là “huyết mẹ”. Xung mạch là biển của huyết
(Xung vi huyết hải), là biển của 12 kinh mạch chính trong cơ thể (Xung mạch
vi thập nhị chính kinh chi hải). Xung, nhâm hai mạch thông thịnh là một trong
những yếu tố cần có để thụ thành thai nhi khỏe mạnh. Mạch đốc từ Hội âm ra
sau và đi lên ở chính giữa sau lưng, hai mạch xung nhâm đều xuất phát từ bào
cung, ra phía trước và đi lên trên, mạch đới chạy vòng quanh thắt lưng và
vùng tiểu phúc, đan chéo với các kinh mạch khác tạo thành lưới mạch nâng
đỡ phôi thai [34], [41].
* Tóm lại, thận giữ vai trò chỉ huy, tỳ cung cấp chất dinh dưỡng, can điều tiết
lượng huyết và giúp các kinh mạch thông suốt để cơ thể người mẹ nhận được
nhiều huyết dịch, không ngừng thay đổi, phát triển phù hợp với từng giai đoạn
trong thai kỳ, các kinh mạch còn là giá đỡ cho phôi thai giúp thai nhi làm tổ
vững chắc và phát triển không ngừng trong bào cung của mẹ đến ngày sinh nở.

+ Do hậu thiên: Sinh hoạt phòng dục quá độ, sinh đẻ quá nhiều, nạo hút
thai, sẩy thai nhiều lần, có thai quá sớm hoặc quá muộn, bố hoặc mẹ bị mắc
bệnh lâu ngày (huyền vựng, tiêu khát, tỳ hư, phế hư…) ảnh hưởng tới thận
khí khiến thận khí hư suy, không đủ sức củng cố thai, thai nguyên bất cố
[121], [131], [133].
* Khí huyết hư
Do bẩm tố tiên thiên bất túc, do ăn uống không điều độ, do bệnh nặng, do
lao lực thương khí ảnh hưởng đến tỳ khiến tỳ mất kiện vận, không hóa sinh ra
khí huyết làm khí huyết hư suy. Cổ nhân đã nói: “Khí hư bất túc dĩ tải thai;
huyết hư bất túc dĩ dưỡng thai, cố thai dựng bất cố”. Có nghĩa là: khí hư thai
không thể cố định tốt (bất cố), huyết hư thai không được nuôi dưỡng tốt, gây
thai động bất an [28], [29], [44], [121], [150].
* Huyết nhiệt âm hư
23
Bẩm tố dương thịnh hoặc tình chí kích động mạnh làm can uất hóa nhiệt
hoặc ăn nhiều đồ cay nóng, cảm nhiễm nhiệt độc…khiến nhiệt tà vào huyết,
nhiệt nhiễu xung nhâm bức huyết vọng hành, làm tổn thương thai nguyên nên
thai động bất an [44], [131], [133].
* Can khí uất kết
- Nguyên nhân
Khi mang thai mà hay suy nghĩ u uất, tức giận hoặc bị căng thẳng (stress)
làm can khí không được sơ tiết, uất lại, lâu ngày hóa hỏa. Khí trệ uất nhiệt
làm tổn thương xung nhâm bức huyết vọng hành và tổn thương thai nguyên
gây chứng thai lậu, thai động bất an [44], [121], [131], [133].
* Sang chấn, ẩm thực
Thai phụ không may bị trượt ngã, bị đánh, mang vác nặng hoặc va đập
mạnh vào vùng bào cung làm tổn thương xung nhâm, khí huyết loạn hành gây
thai lậu hoặc thai động bất an.
Hoặc thai phụ ăn uống phải thức ăn có độc (ngộ độc thức ăn), uống các
thuốc công phạt hoạt huyết hành khí quá mạnh hoặc thuốc có độc như Đại

rêu trắng, mạch trầm hoạt, lưỡng xích nhược. Các chứng trạng này có thể xuất
hiện tự nhiên hoặc sau khi sinh hoạt phòng thất [28], [44], [131], [133].
- Pháp điều trị: Bổ thận cố xung chỉ huyết an thai.
- Phương dược
+ Dùng bài “Thọ thai hoàn” (Y học trung trung tham tây lục): Thỏ ty tử
40g, Tang ký sinh 20g, Tục đoạn 20g, A giao 20g. Sắc uống ngày một thang
chia 2 lần, uống trước ăn.
+ Lý Thời Trân dùng “Thọ thai hoàn” gia Đỗ trọng 20g. Ông cho rằng
Đỗ trọng bổ thận, an thai, trị đau mỏi lưng gối. Đỗ trọng phối với Tục đoạn sẽ
tăng cường bổ thận khí, trừ đau mỏi lưng gối và an thai [128].
* Thể khí huyết hư (tỳ hư)
- Chứng trạng
25

Trích đoạn TỔNG QUAN VỀ THUỐC NGHIấN CỨU ĐỐI TƯỢNG NGHIấN CỨU Tỏc dụng lờn quỏ trỡnh cầm mỏu Tớnh tương đồng giữa hai nhúm nghiờn cứu Kết quả nghiờn cứu
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status