So sánh ảnh hưởng của bột lá sắn và bột lá keo giậu trong khẩu phần đến năng suất và chất lượng trứng của gà đẻ - Pdf 24

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu http://lrc.tnu.edu.vn ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM NGUYỄN VĂN ĐỨC “SO SÁNH ẢNH HƢỞNG CỦA BỘT LÁ SẮN VÀ BỘT LÁ KEO GIẬU
TRONG KHẨU PHẦN ĐẾN NĂNG SUẤT VÀ
CHẤT LƢỢNG TRỨNG CỦA GÀ ĐẺ” LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

“SO SÁNH ẢNH HƢỞNG CỦA BỘT LÁ SẮN VÀ BỘT LÁ KEO
GIẬU TRONG KHẨU PHẦN ĐẾN NĂNG SUẤT VÀ
CHẤT LƢỢNG TRỨNG CỦA GÀ ĐẺ” Chuyên ngành: Chăn nuôi
Mã số: 60.62.40
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. Từ Quang Hiển Thái Nguyên - Năm 2013
S

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu http://lrc.tnu.edu.vn

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, cùng với sự cố gắng của bản thân, tôi đã
nhận được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo, các cơ quan, các cấp lãnh
đạo trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với thầy giáo hướng
dẫn GS.TS Từ Quang Hiển người đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong quá trình
nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn: các thầy cô giáo phòng sau đại học, khoa
chăn nuôi Thú y - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Viện Khoa học
sự sống, ban lãnh đạo, cán bộ công nhân viên Trung tâm Nghiên cứu và phát
triển Chăn nuôi miền núi, thuộc Viện Chăn nuôi (đóng tại Thái Nguyên) cùng
gia đình bạn bè đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tôi trong quá trình
hoàn thành luận văn này.
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2013
Tác giả Nguyễn Văn Đức
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu http://lrc.tnu.edu.vn

MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU 1
1. Đặt vấn đề 1

1.2.2. Vai trò của sắc tố đối với vật nuôi 26
1.3. Kết quả nghiên cứu sử dụng bột lá sắn và bột lá keo giậu trong chăn nuôi
gà sinh sản 30
1.3.1. Kết quả nghiên cứa sử dụng bột lá sắn trong chăn nuôi gà sinh sản 30
1.3.2. Kết quả nghiên cứu sử dụng bột lá keo giậu nuôi gà sinh sản 32
Chƣơng 2: NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 36
2.1. Đối tượng, địa điểm, thời gian nghiên cứu 36
2.1.1. Đối tượng: 36
2.1.2. Địa điểm: 36
2.1.3. Thời gian: 36
2.2. Nội dung nghiên cứu 36
2.3. Phương pháp nghiên cứu 36
2.3.1. Nội dung 1: Xác định ảnh hưởng của BLS và BLKG đến năng suất
trứng 36
2.3.2. Nội dung 2: Xác định ảnh hưởng của BLS và BLKG đến một số chỉ
tiêu lý học và hóa học của trứng 39
2.3.3. Nội dung 3: Xác định ảnh hưởng của BLS và BLKG đến chất lượng
trứng giống 40
2.3.4. Phương pháp theo dõi các chỉ tiêu 40
2.3.5. Phương pháp xử lý các số liệu 44
Chƣơng 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 45
3.1. Tỷ lệ nuôi sống và khả năng sản xuất trứng của gà thí nghiệm 45
3.2. Kết quả nghiên cứu một số chỉ tiêu lý hóa học của trứng 51
3.4. Tiêu tốn thức ăn và chi phí thức ăn cho sản xuất trứng và gà con loại I 66
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 70
1. Kết luận 70
2. Đề nghị 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO 72
I. Tài liệu tiếng Việt 72
II. Tài liệu tham khảo tiếng nước ngoài 76


Trang
Bảng 2.1: Sơ đồ bố trí thí nghiệm 37
Bảng 2.2: Công thức và giá trị dinh dưỡng của thức ăn thí nghiệm 38
Bảng 3.1: Tỷ lệ nuôi sống của gà qua 10 tuần thí nghiệm 45
Bảng 3.2: Tỷ lệ đẻ của gà ở các tuần thí nghiệm 47
Bảng 3.3: Năng suất và sản lượng trứng của gà thí nghiệm 49
Bảng 3.4: Một số chỉ tiêu lý học của trứng 52
Bảng 3.5: Thành phần hóa học của lòng đỏ trứng 54
Bảng 3.6: Thành phần hóa học của lòng trắng trứng 56
Bảng 3.7: Hàm lượng carotenoid và điểm số quạt của lòng đỏ trứng 58
Bảng 3.8: Tỷ lệ trứng có phôi ở các giai đoạn thí nghiệm 61
Bảng 3.9: Tỷ lệ trứng nở/trứng có phôi ở các giai đoạn thí nghiệm 63
Bảng 3.10: Tỷ lệ gà con loại 1/số gà con ra nở ở các giai đoạn thí nghiệm 64
Bảng 3.11: Tiêu tốn thức ăn cho 10 trứng và 10 trứng giống 67
Bảng 3.12: Chi phí thức ăn cho 10 trứng, 10 trứng giống và 1 gà con loại I . 68 S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu http://lrc.tnu.edu.vn

DANH MỤC CÁC HÌNH

Trang
Hình 1.1: Sơ đồ carotenoid tổng số trong thức ăn chăn nuôi 26
Hình 3.1: Đồ thị tỷ lệ đẻ của gà ở các tuần thí nghiệm 49
Hình 3.2: Biểu đồ sản lượng trứng và trứng giống của các lô thí nghiệm 51
Hình 3.3: Đồ thị carotenoid trong lòng đỏ trứng theo thời gian thí nghiệm 60
Hình 3.4: Biểu đồ tỷ lệ gà con loại I/trứng ấp của các lô thí nghiệm 66
1

tốt hơn, cũng chưa có các nghiên cứu về ảnh hưởng của BLS và BLKG theo
thời gian gà được ăn bột lá đến chất lượng của trứng (tỷ lệ trứng có phôi, ấp
2

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu http://lrc.tnu.edu.vn

nở, gà con loại I). Xác định được điều đó rất có ích cho sản xuất, vì ứng
dụng các kết quả nghiên cứu vào sản xuất sẽ nâng cao năng suất và chất
lượng sản phẩm chăn nuôi.
Để giải quyết vấn đề nêu trên và nhằm đáp ứng yêu cầu của sản xuất,
chúng tôi thực hiện đề tài “So sánh ảnh hưởng của bột lá sắn và bột lá keo
giậu trong khẩu phần đến năng suất và chất lượng trứng của gà đẻ”.
2. Mục đích của đề tài
Xác định ảnh hưởng của bột lá sắn và bột lá keo giậu đến khả năng sản
xuất trứng và chất lượng trứng của gà đẻ Lương Phượng.
Xác định được bột lá sắn hay bột lá keo giậu trong khẩu phần ăn có ảnh
hưởng tốt hơn đến năng suất và chất lượng trứng. Các kết quả thu được sẽ làm
cơ sở để khuyến cáo việc sử dụng BLS và BLKG trong chăn nuôi gà sinh sản
nói riêng và gia cầm nói chung.
3. Ý nghĩa của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
Từ những kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ cung cấp cho ngành khoa
học thức ăn và dinh dưỡng, chế biến thức ăn gia cầm những thông tin cơ bản
về việc sử dụng bột lá sắn và bột lá keo giậu trong chăn nuôi gà đẻ trứng.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
, bột lá keo gi
nâng cao khả năng sản xuất trứng và chất lượng trứng của gà đẻ.
Biết được ảnh hưởng của hai loại bột lá đến khả năng sản xuất trứng và
chất lượng trứng của gà đẻ, trên cơ sở đó người chăn nuôi có thể sản xuất và

1.1.1.3. Năng suất chất xanh
Ở Việt Nam, sắn là một cây trồng có tiềm năng cho việc sản xuất bột lá
thực vật. Diện tích trồng sắn ở nước ta vào khoảng 600.000 ha, chỉ riêng tận
thu ngọn, lá khi thu củ sắn cũng có thể sản xuất được gần 1 triệu tấn bột lá.
Việc trồng sắn thu lá cũng có nhiều hứa hẹn, có thể thu được 30 tấn lá tươi và
sản xuất được trên dưới 8 tấn bột lá/ha/năm.
4

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu http://lrc.tnu.edu.vn

Wanapat (1997) [110] cho biết trồng sắn lấy lá với mật độ dầy và thu
hoạch lần đầu sau khi trồng 3 tháng, còn thu các lần tiếp theo là 2 tháng/lần thì
sản lượng vật chất khô có thể đạt 12,6 tấn/ha/năm.
Wanapat (2002) [111] khi thử nghiệm trồng 16 dòng sắn với mật độ
27.788 cây/ha để thu cắt lấy lá đã thấy: Sản lượng vật chất khô (VCK) qua
3 lứa cắt từ 4,043 đến 7,768 tấn/ha/năm, còn khi trồng 25 dòng sắn khác
với mật độ 111.111 cây/ha thì cho sản lượng VCK dao động từ 2,651 đến
8,239 tấn/ha/năm.
Atchara và cs (2002) [50] tổng hợp các kết quả nghiên cứu về trồng
sắn thu lá từ năm 1977 đến năm 1979 về dòng sắn Rayong 1, tác giả cho biết
người ta có thể trồng sắn với nhiều mật độ khác nhau. Các kết quả nghiên
cứu đều cho thấy sản lượng đạt từ 6,94 đến 8,85 tấn lá tươi/ha/năm và không
có sự sai khác thống kê có ý nghĩa giữa sản lượng lá tươi được trồng với mật
độ khác nhau.
Theo Wargiono (2002) [113] thì năng suất lá phụ thuộc vào số lần thu
hoạch lá. Theo ông trồng sắn với mật độ 8000 cây/ha thu hoạch lá hàng tuần
từ tháng thứ 3 đến tháng thứ 7 (4 tầng lá/lần thu) sẽ cho năng suất cao nhất.
Li Kaimian và cs (2002) [77] cho biết, sản lượng VCK đạt cao nhất ở
mật độ trồng 15.625 cây/ha là 3,04 tấn/ha.

thì phụ phẩm ngọn, lá sắn cũng là nguồn thức ăn thô xanh
giàu dinh dưỡng cho gia súc và có sản lượng khá lớn. Thành phần hóa học
của lá sắn tươi giống như một số loại rau xanh giàu dinh dưỡng khác, đặc
biệt là hàm lượng protein và caroten chiếm tỷ lệ khá cao.
Theo Dương Thanh Liêm (1999) [16], Nguyễn Thị Hoa Lý (2008)
[19], hàm lượng protein thô trong VCK của lá sắn tương đối cao, dao động từ
20 - 34,7 %. Theo Alhasan và cs (1982) (trích Nguyễn Nghi và cs, 1984 [26])
thì lá sắn giàu protein hơn củ sắn, hàm lượng protein trong lá sắn từ 23 - 32
% trong VCK. Từ Quang Hiển và Phạm Sỹ Tiệp (1998) [10] cho biết: protein
trong lá của các giống sắn bản địa của Việt Nam dao động từ 24,06 - 29,80 %
trong VCK. Lá của các giống sắn có hàm lượng protein cao trong nước ta là
sắn Xanh Vĩnh Phú, sắn Dù, Sắn Chuối Trắng, KM 60, Chuối đỏ. Liu và
Zhuang (2000) [78] cho biết bột lá sắn có hàm lượng protein là 25,0 %, còn
chế biến sắn cả cuống thì hàm lượng protein giảm xuống còn 20,30 % VCK.
Lá sắn vào thời điểm thu khác nhau thì hàm lượng protein cũng khác nhau.
Tác giả còn cho biết protein trong lá sắn cao hơn các loại cây thức ăn khác
6

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu http://lrc.tnu.edu.vn

(protein trong VCK của hòa thảo là 12,60 %: ngô 11,90 %) nhưng thấp hơn
đỗ tương (45,70 %).
Theo Phạm Sỹ Tiệp (1999) [32], Chavez và cs (2000) [55] thì hàm
lượng axit amin trong lá sắn cao hơn củ sắn và cân đối so với trứng gà, tuy
nhiên hàm lượng methionin và histidin trong lá sắn thấp, tương ứng là 1,99
và 1,14 %. Hàm lượng lysin trong protein của lá sắn tương đối cao (5,68 %)
đáp ứng đầy đủ nhu cầu lysin của gia súc, gia cầm. Hoài Vũ (1980) [36] nhận
định: về mặt chất lượng, trong protein của lá sắn có đầy đủ các axit amin
thiết yếu, so với các loại rau tươi khác thì chất lượng protein của lá sắn hơn


Hàm lượng vitamin trong lá sắn cũng cao. Theo Hoài Vũ (1980) [36]
thì hàm lượng vitamin B1 là 0,25 mg/100g, B2 là 0,66 mg/100g. Đặc biệt,
vitamin C trong lá sắn có tới 2,95 mg/100g.
Bột lá sắn giàu carotenoid, xanthophyll, là nguồn bổ sung sắc chất cho
gia súc, gia cầm. Theo Từ Quang Hiển (1983) [8], trong bột lá sắn khô có
chứa tới 66,7 mg caroten/100g VCK. Còn theo Hoài Vũ (1980) [36] thì hàm
lượng caroten trong lá sắn nói chung cao hơn so với củ. Dương Thanh Liêm
và cs (1999) [16] cho biết tỷ lệ caroten trong bột lá sắn phụ thuộc vào quá
trình chế biến, sấy ở nhiệt độ 100
0
C giữ được caroten cao nhất là 351 mg/kg.
1.1.1.5. Độc tố HCN trong sắn và phương pháp khử độc tố HCN
* Độc tố HCN
Ngoài các giá trị dinh dưỡng, thì yếu tố hạn chế sử dụng các sản phẩm
từ sắn như củ, lá làm lương thực cho con người và thức ăn cho gia súc là
trong sắn có chứa một lượng độc tố HCN đáng kể.
Giống sắn khác nhau thì lượng độc tố trong nó không giống nhau.
Lượng HCN ở lá non nhiều hơn lá già; phần củ thì cao nhất ở phần vỏ thịt,
sau đó là 2 phần đầu củ và lõi sắn: ở thân thì thân già nhiều hơn thân non. Ở
mỗi phần thân, lá, củ của cây sắn thì hàm lượng HCN có tỷ lệ rất khác nhau,
nhưng HCN tập chung chủ yếu ở phần củ, căn cứ vào đây mà phân chia làm
2 loại sắn: sắn ngọt và sắn đắng. Giống sắn ngọt có từ 30 - 80 ppm HCN
trong chất tươi, giống sắn đắng có từ 80 - 400 ppm HCN trong chất tươi
(Trần Ngọc Ngoạn (2007) [24]. Theo Shinha và Nair (1968) (Trích Silvestre
và Arraudeau, 1990 [27]) thì sắn ngọt là những giống sắn có tỷ lệ HCN nhỏ
hơn 80 ppm trong chất tươi, nhóm sắn đắng là những giống sắn có tỷ lệ
HCN lớn hơn 80 ppm.
Trong cây sắn, lượng độc tố phân bố không đều, chủ yếu tập chung ở
bộ phận dưới mặt đất. Theo Phạm Sỹ Tiệp (1999) [32] thì sự phân bố HCN

kết chặt chẽ với hemoglobin của hồng cầu để tạo thành phức chất
cyanohemoglobin. Chất này không có khả năng vận chuyển oxy trong máu
làm cho cơ thể thiếu oxy dẫn đến con vật ngạt thở, niêm mạc, da tím bầm và
chết nhanh.
Chính vì tác hại của loại độc tố này trong sắn, thì việc nghiên cứu làm
giảm đến mức tối đa HCN trong củ và lá sắn trước khi dùng làm thức ăn gia
súc, gia cầm là không thể thiếu được.
9

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu http://lrc.tnu.edu.vn

* Phương pháp khử độc tố HCN trong sắn
Để sử dụng sắn cho gia súc, gia cầm với tỷ lệ cao trong khẩu phần thì
cần phải nghiên cứu để tìm ra các biện pháp làm giảm được tối đa lượng độc
tố trong sắn, nhưng lại bảo tồn được các thành phần dinh dưỡng, tăng khẩu vị,
dễ tiêu hóa, hấp thu, giá thành rẻ, dễ làm và dễ bảo quản.
Theo Gomez (1983) [66] việc loại bỏ độc tố HCN trong củ và lá sắn
thường áp dụng theo nguyên tắc sau:
Loại bỏ trực tiếp cyanogen glucocid bằng cách hòa tan trong nước. Vì
cyanogen glucocid sản sinh ra HCN, chất này bị loại bỏ thì HCN cũng bị loại bỏ.
Làm phân giải cyanogen glucocid thành aceton và HCN, sau đó dùng
nhiệt làm bốc hơi HCN hoặc dùng nước làm rửa trôi HCN.
Làm phá hủy hoặc ức chế enzym linamariaza và glucocidaza. Các
enzym này không hoạt động thì cyanogen glucocid không thể phân hủy thành
aceton và HCN.
Cơ chế thứ nhất chắc chắn dễ thực hiện và có hiệu quả vì glucosid dễ
hòa tan trong nước. Nguyên tắc này được sử dụng nhiều trong các phương
pháp như ngâm sắn: Sắn cả củ, hoặc thái lát được ngâm 5 - 7 ngày trong
nước chảy hoặc nước đọng, sau đó lọc lấy tinh bột. Như vậy, một phần lớn

% HCN. Tuy nhiên theo các tác giả trên thì biện pháp phơi khô lá sắn và
nghiền thành bột là tốt nhất. Trong lá sắn phơi khô, chỉ còn chứa 1 - 2 mg %
HCN. Sau khi nghiền thành bột thì hàm lượng HCN lại giảm đi rất nhiều và
nếu cất giữ cẩn thận sau
4
- 5 tháng vẫn còn chất lượng tốt. Lượng bột lá sắn
gia súc, gia cầm ăn được gấp 3 - 4 lần so với số
lượng

chúng
ăn được ở dạng
lá tươi, luộc hoặc muối dưa.
Ngoài các phương pháp chế biến trên còn có một số phương pháp tích
cực để khử độc tố HCN như sấy khô bằng lò sấy điện 70 - 80
o
C, hoặc sấy
bằng lò sấy thủ công, trong quá trình sấy glucosid bị thủy phân thành dạng
HCN tự do, sau đó bị bốc hơi cùng với nước trong sản phẩm.
Theo Bùi Văn Chính, 1995 [4]; Gomez, 1983 [66] thì cũng có thể làm
giảm HCN trong sắn bằng cách muối dưa (lá sắn) và ủ xilo (củ sắn). Nhờ tác
động của men sẵn có có trong sắn mà glucosid được phân hủy giải phóng
HCN tự do. Khi cho gia súc
ăn
lá sắn ủ chua hay ủ xilô các sản phẩm nên rửa
qua bằng nước lã rồi vắt bỏ nước.
11

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu http://lrc.tnu.edu.vn



S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu http://lrc.tnu.edu.vn

1.1.2. Giới thiệu về cây keo giậu
1.1.2.1. Tên gọi
Keo giậu là một cây thuộc bộ đậu, sống ở vùng nhiệt đới, có tên khoa
học là Leucaena leucocephala (Lam) de - Wit. Tên gọi “Leucaena” là danh
pháp quốc tế gọi chung cho loài cây này. Ngoài ra, keo giậu còn có các tên
khác như: Leucaena Glauca (Wind) Benth, Mimosa leucocephala Lam,
Mimosa glauca L, Acacia glauca (L.) Moenth. Ở các quốc gia khác nhau,
keo giậu còn có các tên khác nhau. Ở Trung Mỹ, keo giậu có tên là Huakin;
Mexico và Tây Ban Nha gọi là Guaje; Philippin gọi là Ipil - ipil; Ấn Độ
gọi là Kubabul hoặc Subabul; Indonesia gọi là Lamtoro; Hawaii gọi là
Kaohaole; Trung Quốc gọi là Yin huehuan và Quần đảo Thái Bình Dương
gọi là Tanggantangan….
Ở Việt Nam, keo giậu được phân bố rộng từ Bắc vào Nam, tỉnh nào
cũng có keo giậu và keo giậu đã trở thành cây mọc tự nhiên ở một số địa
phương (Nguyễn Đăng Khôi, 1979) [15]. Ở các địa phương khác nhau, keo
giậu cũng có các tên khác nhau. Miền Bắc gọi là Keo giậu; Miền Trung gọi là
Táo nhơn; Miền Nam gọi là Bình linh. Giống keo giậu mọc hoang ở nước ta
thuộc kiểu Hawaii (Dương Hữu Thời và cs, 1982) [31], năng suất không cao
(Ngô Văn Mận, 1977) [20].
1.1.2.2. Nguồn gốc phân bố
Keo giậu được xác định có nguồn gốc từ Trung Mỹ và Mexico (NAS,
1984) [84]. Phần lớn các vùng đất này có độ cao trung bình dưới 1500 m so
với mực biển, đất nửa khô hạn, hơi kiềm hay axit nhẹ.
Năm 1965, người Tây Ban Nha đưa keo giậu từ Mexico vào Philippin
để trồng làm thức ăn cho đàn dê của họ (Brewbaker, 1979 [52]; Oakes, 1968
[85]). Cuối thế kỷ VXII và đầu thế kỷ XIX, keo giậu đã được đưa tới các

lớn. Những cánh đồng keo giậu được quản lý theo phương pháp luân phiên có
thể tồn tại trong thời gian trên 20 năm mà không cần phải trồng lại (Jones và
Harrison, 1980) [73] Năng suất chất khô của keo giậu hàng năm dao động từ
2 đến 20 tấn/ha (Jones, 1979) [72]. Những giống keo giậu tốt, được trồng trên
đất có độ phì cao có thể cho năng suất vật chất khô hàng năm lên tới 12 - 20
14

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu http://lrc.tnu.edu.vn

tấn/ha, tương đương với 2,4 đến 6,4 tấn protein/ha/năm (NAS, 1984) [84].
NAS (1984) [84] cũng cho biết, năng suất và chất lượng keo giậu tươi
đạt mức tối ưu ở chế độ gieo trồng và thu hoạch như sau: mật độ gieo trồng là
100.000 - 140.000 cây/ha; độ cao thu hoạch của cây là 60 - 70 cm; chu kỳ thu
hoạch là 50 - 60 ngày, trong điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi, năng suất
keo giậu đạt 12 - 14 tấn chất khô/ha/năm. Trong những vùng nhiệt đới khô
hạn năng suất keo giậu giảm ở mùa khô. Ngoài ảnh hưởng của thời tiết, khí
hậu, năng suất keo giậu còn bị ảnh hưởng bởi yếu tố giống, mật độ cây trồng,
tần số khai thác và chiều cao thu hoạch của cây.
Ở Việt Nam, keo giậu là loài cây dễ trồng và dễ thích nghi, năng suất
chất xanh và vật chất khô khá cao, phù hợp với nhiều loài động vật nên được
nhiều nhà khoa học trong nước quan tâm nghiên cứu để đưa vào thực tiễn sản
xuất chăn nuôi. Bùi Xuân An và Ngô Văn Mận (1981) [1] cho biết, khi được
bón lót 10 tấn phân chuồng/ha và bón thúc bằng 30 kg N, 60 kg P
2
O
5
, 40 kg
K
2

nhiên, năng suất của keo giậu còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: pH, độ phì
của đất, lượng mưa, cường độ bức xạ mặt trời, nhiệt độ…và các đặc tính của
từng loài, giống keo giậu.
1.1.2.4. Thành phần hóa học của bột lá keo giậu
Thành phần các chất dinh dưỡng có trong keo giậu vừa phong phú vừa
rất biến động và phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Nhìn chung các kết quả phân
tích cho thấy, keo giậu là một loại cây giàu protein, khoáng, vitamin và các
chất sắc tố.
* Protein
Hàm lượng protein thô trung bình trong bột lá keo giậu biến động từ
24,0 - 34,4 %, trong hỗn hợp cành và lá từ 10 - 30 % VCK. Như vậy, hàm
lượng protein trong BLKG là khá cao và có thể so sánh với bột cỏ Medi (là
một cây họ đậu có hàm lượng protein cao (Garcia và cs, 1996) [65]. Hàm
lượng protein cũng biến động giữa các phần của cây. Lá non của keo giậu
chứa nhiều protein và có khả năng tiêu hóa cao, lá ở đỉnh ngọn có hàm lượng
protein cao nhất từ 28,4 - 30,0 % VCK (Desmukh và cs, 1987) [57]. Ronia và
16

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu http://lrc.tnu.edu.vn

cs (1979) [95] cho biết, hàm lượng protein trong lá non cao gấp 1,5 lần so với
lá già, các phần lá phân bố ở giữa có hàm lượng protein là 23,8 - 28,2 %
VCK, phần lá bên dưới có hàm lượng protein là 17,4 - 24,1 % VCK.
Người ta nhận thấy, protein của lá và hạt keo giậu khá giầu các
axit amin không thay thế như isoleucin, leucin, phenylalanin và histidin,
còn hàm lượng lysin và methionin ở mức tương đối thấp so với một số
loại thức ăn có nguồn gốc động vật. Dhamothiran và cs (1991) [58] cho
biết, hàm lượng protein thô trong hạt keo giậu là 21,3 % VCK, còn
Shejav và Prasad (1995) [97] cho rằng, hàm lượng protein thô trong hạt


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status