so sánh ảnh hưởng của bột lá sắn và bột cỏ stylo trong khẩu phần đến năng suất và chất lượng trứng của gà đẻ bố mẹ lương phượng - Pdf 24


Số hóa bởi trung tâm học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

NGUYỄN THỊ MAI TRANG
Tên đề tài:

SO SÁNH ẢNH HƢỞNG CỦA BỘT LÁ SẮN VÀ BỘT CỎ STYLO
TRONG KHẨU PHẦN ĐẾN NĂNG SUẤT VÀ CHẤT LƢỢNG
TRỨNG CỦA GÀ ĐẺ BỐ MẸ LƢƠNG PHƢỢNG

Chuyên ngành: Chăn nuôi
Mã số : 60.62.01.05

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Từ Quang Hiển
màu lòng đỏ trứng gà. Lá sắn dễ làm khô (phơi nắng hoặc sấy), dễ bảo quản.
Tuy nhiên, lá sắn có chứa độc tố HCN.
Cỏ Stylo cũng chứa một hàm lượng protein khá cao, cỏ Stylo (Stylosanthes
guianensis) có tỷ lệ protein từ 16,7 đến 18,1 % VCK (khi trưởng thành). Đối với
chăn nuôi lợn và gia cầm người ta sử dụng cỏ stylo dưới dạng bột cỏ. Hàm lượng

Số hóa bởi trung tâm học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

2
caroten trong bột cỏ stylo dao động từ 200 – 250 mg/ kg VCK cùng với
xanthophylls, nó có thể là một nguồn sắc tố tốt cho da và lòng đỏ trứng gà.
Đã có nhiều nghiên cứu về sử dụng bột lá sắn và bột cỏ stylo trong chăn
nuôi gà đẻ. Tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào so sánh ảnh hưởng của 2 loại
bột lá này đến năng suất và chất lượng trứng trên cùng một giống gà đẻ.
Để giải quyết vấn đề nêu trên và nhằm đáp ứng yêu cầu của sản xuất,
chúng tôi thực hiện đề tài: “So sánh ảnh hưởng của bột lá sắn và bột cỏ
Stylo trong khẩu phần đến năng suất và chất lượng trứng của gà đẻ bố mẹ
Lương Phượng”.
2. Mục đích của đề tài
Xác định được ảnh hưởng khi bổ sung bột lá sắn và bột cỏ stylo đến khả
năng sản xuất trứng và chất lượng trứng của gà đẻ Lương Phượng.
Biết được loại bột lá nào (BLS hay BC stylo) có ảnh hưởng tốt hơn đến
năng suất và chất lượng trứng, trên cơ sở đó đưa ra khuyến cáo trong sản xuất.
3. Ý nghĩa của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ bổ sung thêm cho ngành khoa học thức ăn
dinh dưỡng một số thông tin mới về mức độ ảnh hưởng của BLS và BC stylo đến
khả năng sản xuất và chất lượng trứng gà đẻ bố mẹ Lương Phượng.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
.

1.1.1.3. Năng suất chất xanh
Từ lâu, lá sắn đã được coi là một nguồn rau xanh cho người và gia súc.
Việc trồng sắn thu lá cũng có nhiều hứa hẹn, cũng có thể thu được 30 tấn lá
tươi và sản xuất được trên dưới 8 tấn bột lá/ha/năm.
Mật độ hay khoảng cách trồng sắn có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất
cũng như chất lượng của lá sắn. Điều này đã được rất nhiều tác giả tiến hành
nghiên cứu.

Số hóa bởi trung tâm học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

4
Theo dõi năng suất lá sắn trong hai năm (2009 - 2010) ở những khoảng
cách trồng khác nhau; (1,0 m x 0,4 m), (0,8 m x 0,4 m) và (0,6 m x 0,4 m),
mỗi năm thu hoạch được 3 lứa. Năng suất lá sắn năm 1 cao hơn năm 2 ở tất cả
các lứa (trừ lứa 2 ở mật độ trồng 0,6 m x 0,4 m). Năng suất lá sắn đạt trung
bình cao nhất ở khoảng cách trồng (0,8 m x 0,4 m) là 52,66 tạ/ha/lứa, của
khoảng cách trồng (0,6 m x 0,4 m) đứng hạng thứ hai, đạt 42,74 tạ/ha/lứa,
khoảng cách trồng (1,0 m x 0,4 m) có năng suất thấp hơn cả đạt 41,11
tạ/ha/lứa (Trần Thị Hoan 2012) [12].
Wanapat (1997) [92] cho biết trồng sắn lấy lá với mật độ dày và thu
hoạch lần đầu sau khi trồng 3 tháng còn thu các lần tiếp theo là 2 tháng/lần thì
sản lượng vật chất khô có thể đạt 12,6 tấn/ha/năm.
Wanapat (2002) [93] khi thử nghiệm trồng 16 dòng sắn với mật độ
27.778 cây/ha để thu cắt lấy lá đã thu được sản lượng vật chất khô qua 3 lứa
cắt từ 4,043 đến 7,768 tấn/ha/năm, còn khi trồng 25 dòng sắn khác với mật độ
111.111 cây/ha thì cho sản lượng vật chất khô dao động từ 2,651 đến 8,239
tấn/ha/năm.
Atchara limsila và cs (2002) [39] tổng hợp các kết quả nghiên cứu từ
năm 1977 đến năm 1979 về dòng sắn Rayong1, tác giả cho biết: Trồng sắn
thu lá với nhiều mật độ khác nhau như 62.500; 50.000; 40.000; 31.250;

KM98 - 5 cho sản lượng vật chất khô của lá cao nhất ở mật độ 24.690 cây/ha,
sau đó đến giống KM 94, nhưng sản lượng củ thì ngược lại. Sản lượng củ và
lá của các khoảng cách khác đều thấp hơn, trừ sắn KM 140 - 2 có sản lượng
củ cao nhất trong các giống sắn.
Theo Wargiono (2002) [94] thì năng suất lá phụ thuộc vào số lần thu
hoạch lá. Theo ông trồng sắn với mật độ 8.000 cây/ha thu hoạch lá hàng tuần
từ tháng thứ 3 đến tháng thứ 7 (4 tầng lá/ lần thu) sẽ cho năng suất cao nhất
còn tiếp tục thu từ tháng thứ 7 trở đi sẽ làm giảm năng suất của củ. Trồng sắn
xen với các cây trồng khác với mật độ 5.000 đến 10.000 cây/ha, còn trồng
thuần sắn với mật độ 10.000 đến 12.000 cây/ha.

Số hóa bởi trung tâm học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

6
1.1.1.4. Thành phần hóa học của lá sắn
Nguyễn Văn Thưởng và Sumilin (1992) [24], Từ Quang Hiển (1982) [5],
Pham Van Bien và cs (2002) [43] cho biết: Lá sắn có thành phần các chất dinh
dưỡng khá phong phú. Mặc dù hàm lượng tinh bột rất ít (từ 1,8 đến 3,2 %), tỷ lệ
dẫn xuất không chứa nito của lá sắn tươi có từ 3,7 - 6,4 %. Từ lâu lá sắn đã được
coi là một nguồn rau xanh cho người và gia súc. Theo Bùi Văn Chính và Lê Viết
Ly (2001) [2] thì trong lá sắn tỷ lệ vật chất khô chiếm 25 %, năng lượng trao đổi
là 2549 Kcal/kg vật chất khô.
Theo Từ Quang Hiển và Phạm Sỹ Tiệp (1998) [8] thì protein trong lá
của các giống sắn bản địa của Việt Nam dao động từ 24,06 đến 29,80 % trong
vật chất khô. Lá của các giống sắn trong nước có hàm lượng protein cao là
Xanh Vĩnh Phú, sắn Dù, Chuối trắng, KM 60, Chuối đỏ, 205. Bột lá sắn có
hàm lượng protein là 27,50 %, còn chế biến sắn cả cuống thì hàm lượng
protein giảm xuống còn 20,30 %. Tuy nhiên, giống sắn và thời điểm thu lá
khác nhau thì hàm lượng protein là khác nhau. Tác giả cũng cho biết protein
trong lá sắn cao hơn hẳn các loại cây thức ăn khác (hàm lượng protein trong

vào quá trình chế biến, sấy ở nhiệt độ 100
o
C

giữ được caroten cao nhất là
351 mg/kg.
Lá sắn dễ phơi khô, bột lá sắn giàu carotenoid, xanthophyll và protein.
Vì vậy, nó không chỉ là nguồn bổ sung sắc chất mà còn là nguồn cung cấp
protenin cho gia súc và gia cầm.
1.1.1.5. Độc tố HCN và phương pháp khử HCN trong sắn
Lá sắn có hàm lượng protein khá cao và giàu vitamin, sắc tố;
protein của lá sắn có khá đầy đủ các axitamin cần thiết và giàu lysin.

Số hóa bởi trung tâm học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

8
Tuy nhiên, ngoài các chất dinh dưỡng trong sắn còn chứa một lượng độc
tố HCN đáng kể.
Giống sắn khác nhau thì lượng độc tố trong nó không giống nhau. Lượng
HCN ở lá non nhiều hơn lá già; phần củ thì cao nhất ở phần vỏ thịt, sau đó là
2 phần đầu củ và lõi sắn: ở thân thì thân già nhiều hơn thân non. Ở mỗi phần
thân, lá, củ của cây sắn thì hàm lượng HCN có tỷ lệ rất khác nhau nhưng
HCN tập chung chủ yếu ở phần củ, căn cứ vào đây mà phân chia làm 2 loại
sắn: sắn ngọt và sắn đắng. Giống sắn ngọt có từ 30 - 80 ppm HCN trong chất
tươi, giống sắn đắng có từ 80 - 400 ppm HCN trong chất tươi (Trần Ngọc Ngoạn
(2007) [19]. Theo Shinha và Nair (1968) (Trích Silvestre và Arraudeau, 1990
[22]) thì sắn ngọt là những giống sắn có tỷ lệ HCN nhỏ hơn 80 ppm trong chất
tươi, nhóm sắn đắng là những giống sắn có tỷ lệ HCN lớn hơn 80 ppm.
Trong cây sắn lượng độc tố phân bố không đều, chủ yếu tập chung ở bộ
phận dưới mặt đất. Theo Phạm Sỹ Tiệp (1999) [26] thì sự phân bố HCN trong

Cyanua (CN) sẽ liên kết chặt chẽ với hemoglobin của hồng cầu để tạo thành
phức chất Cyanohemoglobin. Chất này không có khả năng vận chuyển oxy
trong máu làm cho cơ thể thiếu oxy dẫn đến con vật ngạt thở, niêm mạc, da
tím bầm và chết nhanh.
Chính vì lượng độc tố trong sắn có ảnh hưởng lớn tới việc làm thức ăn
trong chăn nuôi nên người ta đã phải nghiên cứu để loại bỏ đi hàm lượng độc
tố HCN có trong sắn.
Theo Gomez. G (1983) [55] việc loại bỏ độc tố HCN trong củ và lá sắn
thường áp dụng theo nguyên tắc sau:
Loại bỏ trực tiếp cyanogen glucocid bằng cách hòa tan trong nước. Vì
cyanogen glucocid sản sinh ra HCN, chất này bị loại bỏ thì HCN cũng bị
loại bỏ.
Làm phân giải cyanogen glucocid thành aceton và HCN, sau đó dùng
nhiệt làm bốc hơi HCN hoặc dùng nước làm rửa trôi HCN.
Làm phá hủy hoặc ức chế enzym linamariaza và glucocidaza. Các enzym
này không hoạt động thì cyanogen glucocid không thể phân hủy thành aceton
và HCN.
Dựa trên các nguyên lý trên, trong thực tế người ta đã sử dụng các biện
pháp dưới đây để hạn chế và loại bỏ HCN trong lá sắn:

Số hóa bởi trung tâm học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

10
Chế biến bột lá sắn nhờ ánh nắng mặt trời: Lá sắn được thu gom, loại bỏ
hết cuống lá, phơi héo tại ruộng trong một ngày cho giảm bớt nước. Sau đó lá
sắn được tiếp tục phơi nắng trên sân cho khô giòn. Lá sau khi khô giòn được
nghiền thành bột, trải mỏng bột lá cho bay hơi nước và HCN. Cho bột lá sắn
vào bao nhưng để hở miệng túi sau 2 tuần mới đóng gói để trong thời gian
này HCN tiếp tục thoát ra ngoài.
Phơi khô thân, lá sắn non: Thân cây sắn còn non, phơi cả thân, lá sắn (để

từ Brasil nhập vào Australia những năm 1930, nhưng sau chiến tranh thế giới
lần thứ II mới được chú ý đến. Đây là loại cây thức ăn gia súc được phát triển
đáng kể ở nhiệt đới và cận nhiệt đới, đã nhập vào nhiều nước như: Malaysia,
Công gô, Nam Trung Quốc. Ở Việt Nam, cây cỏ stylo nhập vào lần đầu vào
năm 1967 từ Singapore, Australia.
Các giống stylo đang được trồng phổ biến:
Stylosanthes guianensis (common stylo): cây lâu năm
Stylosanthes hamata (Caribbcan stylo): cây hàng năm
Stylosanthes scabra (Shrubby stylo): cây lâu năm
Stylosanthes humilis (Townsville stylo): cây hàng năm
1.1.2.3. Năng suất chất xanh
Cỏ stylosanthes guianensis trồng ở Brazil đạt năng suất chất xanh từ 15
đến 20 tấn/ha; 35 tấn/ha/năm ở Zaire. Tại Madagascar cỏ stylosanthes trồng
sau 1 năm đạt 43 tấn/ha trên vùng đất cao và 70 tấn/ha vùng đất thấp
(Ecoport, 2001) [53].
Ở Việt Nam, Stylosanthes cũng được nghiên cứu từ những năm trước đây.
Từ các nghiên cứu cho thấy, tùy thuộc vào vùng chăn nuôi, vào mức phân bón và
nước tưới, đất đai… khác nhau stylosanthes cho năng suất khác nhau.
Tại Đắc Lắc, năng suất chất xanh của cỏ stylo CIAT 184 đạt 12,34
tấn/ha/lứa và cho 3,08 tấn chất khô/ha/lứa (tương ứng với 21,56 tấn/ha/năm)
cao hơn so với trồng ở các vùng sinh thái khác của Việt Nam (Lê Hòa và Bùi
Quang Tuấn, 2009) [11].
Theo Lê Hà Châu (1999) [1], giống stylo Cook có thể cho năng suất chất
xanh 21 tấn/lứa cắt/ha (4 lứa/năm) hoặc giống S. guianensis FM05 - 2 và stylo
CIAT 184 được trồng ở các vùng khác có khả năng cho năng suất chất khô
(CK) 11,4 – 12,5 tấn/ha/năm (Nguyễn Ngọc Hà và cs, 1996) [4]; (Trương Tấn
Khanh và cs, 1999) [15].

Số hóa bởi trung tâm học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/



Số hóa bởi trung tâm học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

13
Trong những năm gần đây, Stylosanthes cũng được trồng phổ biến tại
Thái Lan và Lào. Stylo CIAT 184 trồng tại Thái Lan có chứa protein thô 17,1 %:
xơ trung bình 39,1 % và xơ axit 56,8 % (Kiyothong và cs, 2004a) [65]. Chứa
14 - 18 % protein thô trong chất khô (SatjiPanon và cs, 1995) [86]. Thành
phần hóa học của cỏ Stylo CIAT 184 ở 4 lứa cắt tính theo chất khô dao động
từ 16,7 - 18,1 % protein thô; 49,1 - 61,5 xơ trung bình tính; 34,1 - 47,3 %, xơ
axit; 6,3 - 8,7 % khoáng (Kiyothong và Wanapat, 2004b) [66]. Một số kết quả
phân tích cho thấy: Cỏ Stylo CIAT 184 tươi 40 - 45 ngày tại Lào chứa 20,2 %
chất khô; tính theo chất khô có 19 % protein thô; 64,2 % xơ trung tính; 5,5 %
khoáng (Phengsanvanh, 2003b) [83]. Theo Chanphone Keoboualapheth và cs,
2003 [50], Stylo CIAT 184 có 22,3 % chất khô; protein thô 19,3 %; xơ thô 30 %;
khoáng 5,1 %, Ca 0,2 %; P 0,4 %. Hàm lượng chất khô đạt từ 20 - 28 %;
protein thô 13,3 %; xơ trung tính 16,9 % tính theo chất khô (Toum
Keopaseuht, 2004) [91].
Omole và cs (2007) [80] cho biết cỏ Stylosanthes guianensis trồng tại
Nigeria có chất khô 19,75 %; protein thô 19,91 %; 13,28 % xơ thô; 1,34 %
lipit thô; 9,38 % khoáng tổng số; dẫn xuất không chứa đạm 56,03 % chất
khô. Stylosanthes scabra trồng tại Rwanda có hàm lượng của protein thô là
21 % (Mupenzi và cs, 2008) [77]. Cỏ Stylosanthes guianensis khô 6 tuần sau
thu hoạch ở Nigeria có 92,1 % chất khô; tính theo chất khô có 10,6 %
protein thô, 32,8 % xơ thô; 7,3 % khoáng (Bamikole và Ezenwa, 1999) [41].
Cỏ Stylosanthes trồng tại Zaire, có thành phần dinh dưỡng biến động từ
15 - 17 % protein thô, 33 - 40 % xơ thô, 0,1 - 0,2 % P, 0,8 - 1 % Ca, 1,2 - 1,8 % K,
0,3 - 0,8 % Mg, 0,02 % Na và 0,1 - 0,8 % Cl tính theo vật chất khô.
(Ecoport, 2001) [53].
Hỗn hợp bột cỏ Stylosanthes bao gồm 45 % S. guianensis, 45 % S. hamata

cỏ được cắt nhỏ đưa vào sấy khô trong một lò quay sau đó đưa vào máy
nghiền thành bột và đóng gói.
Ở khu vực có ánh nắng mặt trời tốt, cỏ được phơi trên bề mặt cứng, sạch
sẽ (tốt nhất là bê tông) trong vòng hai ngày. Nhìn chung, phương pháp này dễ
làm, dễ sử dụng nhưng chỉ phục vụ được ở quy mô nhỏ, địa phương và chất

Số hóa bởi trung tâm học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

15
lượng sản phẩm kém. Bên cạnh đó, có thể dùng tre làm kệ sấy để làm khô
nguyên liệu, tránh hư hỏng và tránh tiếp xúc với bề mặt đất. Điều này có thể
giúp đẩy nhanh quá trình làm khô và cải thiện chất lượng thông qua tăng hàm
lượng protein và β - caroten (Liu Guodao, 2004) [71].
Đối với sản xuất bột cỏ nguyên liệu quy mô công nghiệp thì cỏ
Stylosanthes sau khi được thu hoạch, cắt nhỏ đưa vào lò sấy. Cỏ có thể
được sấy theo hai cách khác nhau. Sấy khô ở nhiệt độ thấp (50 - 60
0
C)
trong vòng 2 - 3 giờ làm mất nước, ít gây thất thoát protein và caroten để
nâng cao chất lượng sản phẩm. Phương pháp sấy khô thứ hai là nguyên liệu
được làm khô nhanh chóng ở lò sấy có nhiệt độ cao hơn 600
0
C trong vòng
10 - 20 giây. Phương pháp này làm hao hụt protein và caroten rất thấp, chất
lượng bột cỏ Stylosanthes cao. Cỏ sau khi sấy khô được đưa vào máy
nghiền thành bột và đóng gói trong túi với một lớp lót không thấm nước
(Liu Guodao, 2004) [71].
1.2. Sắc tố trong thức ăn chăn nuôi
1.2.1. Giới thiệu chung về sắc tố
1.2.1.1. Nguồn gốc của sắc tố

Người ta ước tính rằng thiên nhiên sản xuất hằng năm khoảng 100 triệu
tấn carotenoid.
1.2.1.2. Sắc tố trong thực vật
Sắc tố trong thực vật được chia thành các nhóm sau: Chlorophyll,
carotenoid (caroten và xanthophyll), flavonoid (chalcon, anthocyanin, flavon,
falavonol) và betalain (betaxanthin, betacyanin). Người ta đã phát hiện được
khoảng 750 loại caroteninoid, 7000 flavonoid và hơn 500 anthocyanin
(Davies, 2004) [50]. Sắc tố tồn tại ở các bộ phận khác nhau của thực vật,
favonoid và carotenoid tồn tại ở hầu hết các mô thực vật như lá, củ, hoa, quả
và hạt. Anthocyanin, chlorophyll có một vị trí cụ thể ở tế bào hoặc cấp độ
dưới tế bào. Anthocyanin thường được tìm thấy trong tế bào biểu bì của cánh
hoa, trong khi chlorophyll và carotenoid trong thể hạt của các tế bào dưới
biểu bì quang hợp của lá. Anthocyanin, betalain xuất hiện trong không bào

Số hóa bởi trung tâm học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

17
(Davies, 2004) [50]. Tất cả các hình thức vẻ đẹp của các thực vật là thông tin
cho động vật, côn trùng, chim và dơi, tìm đến thực vật để kiếm thức ăn.
Một số sắc tố thường gặp trong thực vật được hệ thống hóa như sau:
Sắc tố trong thực vật (4 nhóm chính):
Nhóm 1: Chlorophyll, gồm có:
Chlorophyll a
Chorophyll b
Nhóm 2: Carotenoid, gồm có:
+ Caroten
α, β, z, γ caroten; Lycopen; Phytofluen
+ Xanthophyl
Lutein; Zeaxanthin; Astaxanthin
Canthaxanthin; Citranaxanthin; Capxanthin

trong khi chất diệp lục b liên kết với CHO.
Loại bỏ Mg từ các phân tử chất diệp lục và kết quả trong chuyển đổi của nó là
tạo thành pheophytin có màu xám - nâu. Pheophytin tích lũy ở lá trong quá
trình lão hóa của thực vật hoặc kết quả gây ra do ô nhiễm môi trường, chẳng
hạn như mưa axit (Dzugan, 2006) [52].
Caroten (C
40
H
56
) là một loại cacbua hydro chưa bão hòa, chỉ tan trong
dung môi hữu cơ. Trong thực vật thường có 4 loại tiền vitamin A là: β, α, δ, z
caroten. Nếu cắt đôi phân tử β caroten ta có 2 phân tử vitamin A, nên β
caroten được xem là tiền vitamin A (Trịnh Xuân Vũ và cs, 1976) [35]. Trong
đó β caroten chiếm trên 90 % trong tổng số các carotenoid ở thực vật. Các
carotenoid không chỉ cung cấp tiền vitamin A mà còn có tiềm năng chống
oxy hóa, chống ung thư. Hàm lượng β caroten trong cỏ tươi tự nhiên: 150 -
250 mg/kgVCK, cây ngô già: 15 - 60 mg/kg VCK, của cà rốt: 150 - 200
mg/kg VCK, rơm rạ: 4mg/kg VCK (Từ Quang Hiển, 2001) [9]. Tác giả Scott
và cs, (1969) [87] cho biết β caroten trong bột lá keo giậu từ 227 đến 248
mg/kg VCK. Carotnen là một trong những nhóm sắc tố quan trọng nhất trong
tự nhiên. Nó tạo nên màu sắc rực rỡ của màu vàng, đỏ cho nhiều loại trái cây,

Số hóa bởi trung tâm học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

19
rau, củ, hoa, và lá mùa thu, tạo ra màu sắc lòng đỏ trứng gà, tảo, nấm men, và
nấm, màu lông và da của nhiều loại chim.
Xanthophyll là nhóm sắc tố vàng sẫm. Công thức hóa học của chúng là
C
40

là phổ biến nhất và tạo ra các màu đỏ tươi, đỏ, xanh và màu tím cho hoa, quả
và thân cây. Màu của anthocyanin bị ảnh hưởng nhiều của các nhân tố. Một
trong các nhân tố đó là số lượng nhóm hydroxyl và methoxyl. Nếu có nhiều
gốc OH thì màu sắc có màu xanh. Nếu xuất hiện nhiều gốc OCH
3
thì màu sắc
chủ yếu là đỏ (Winkel - shirley, 2002 [96]; Grotewold, 2006 [58]). Các loại
sắc tố này có màu đỏ khi ở pH axit và có màu xanh khi ở môi trường kiềm.
Ngoài ra màu sắc còn phụ thuộc vào các nguyên tố khoáng như Al, Fe, Mg ở
một số loài thực vật.
1.2.2. Nguồn cung cấp sắc tố cho thức ăn chăn nuôi
* Giới thiệu về sắc tố trong thức ăn chăn nuôi
Sắc tố trong thực vật bao gồm 4 nhóm (chlorophyll, carotenoid,
flavonoid và betalain). Trong thức ăn chăn nuôi chỉ đề cập đến một trong bốn
nhóm nói trên, đó là carotenoid. Khi nói đến hàm lượng sắc tố trong thức ăn,
có nghĩa là nói đến carotenoid trong tổng số. Nó gồm 2 nhóm đó là
xanthophyll và caroten.
Xanthophyll còn có tên gọi là axy - carotenoid. Nó cũng có 2 nhóm là
carotenoid không màu và có màu. Carotenoid không màu có 2 đại diện chính
là cryptoxanthin và violaxanthin, còn carotenoid có màu thì có 2 nhóm nhỏ,

Số hóa bởi trung tâm học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

20
nhóm thứ nhất là xanthophyll với đại diện là lutein và zeaxanthin, còn nhóm
thứ 2 có các đại diện như apoester, canthaxanthin, citranaxanthin, capxanthin
(capsorubin), astaxanthin. Chính vì vậy, khi nói đến hàm lượng xanthophyll
trong thức ăn,có nghĩa là nói đến xanthophyll tổng số, chứ không phải là một
sắc tố cụ thể nào đó trong nhóm này.
Caroten có các đại diện là anpha (α), beta (β), zeta (z), gama (γ) caroten,

giàu sắc tố là ngô, hàm lượng carotenoid của ngô hạt khoảng 15 - 25mg/kg
VCK, còn gluten trong ngô khoảng 130 - 300mg/kg VCK. Hàm lượng này
đáp ứng khoảng 40 - 60 % sắc tố theo yêu cầu của gia cầm nuôi thịt và đẻ
trứng. Thí nghiệm trên gà đẻ trứng cho thấy, nếu chỉ sử dụng ngô là nguồn

Số hóa bởi trung tâm học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

21
cung cấp sắc tố chính trong khẩu phần thì độ đậm màu lòng đỏ đạt 5 - 7 điểm
theo thang điểm màu của Roche.
+ Bột lá thực vật
Một số loại nguyên liệu thức ăn có chứa hàm lượng sắc tố rất cao và dễ
sản xuất đó là bột lá xanh từ các cây họ đậu (keo giậu, alfalfa, stylo ), từ lá
sắn và hoa cúc vạn thọ hàm lượng caroten của các loại bột lá nằm trong
khoảng 200 - 1000 mg VCK. Do mỗi loại bột lá có một điểm hạn chế riêng,
như chứa độc tố (mimosin, HCN ) chất kháng dinh dưỡng, mùi hắc, vị đắng,
tỷ lệ xơ cao nên không thể phối hợp các loại bột lá này vào trong khẩu phần
với tỷ lệ lớn, thường là dưới 10 % đối với gia cầm, 20 % đối với lợn, nhưng
chỉ cần tỷ lệ đó kết hợp với ngô, lúa mỳ đã hoàn toàn thỏa mãn nhu cầu sắc tố
của vật nuôi.
Hàm lượng sắc tố trong bột lá xanh phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau,
như loài, giống cây, giai đoạn thu cắt, đặc biệt là phương pháp chế biến. VD:
BLS được chế biến bằng phương pháp băm nhỏ, sấy ở 65
o
C thì trong 1kg VCK
có 510 mg caroten (Trần Thị Hoan 2012) [12]. Cũng tương tự như vậy hàm
lượng caroten trong bột cỏ stylo chế biến bằng phương pháp sấy là 254 mg.
phương pháp phơi nắng trực tiếp là 228mg, phương pháp phơi dưới mái tôn là
259 mg/kg VCK (Hồ Thị Bích Ngọc 2012) [21].
Oxycarotenoid là chất liên kết với chất béo, do đó rất nhạy cảm với quá

tổng hợp trong chăn nuôi. Các nước này chỉ sử dụng nguyên liệu thức ăn giàu
sắc tố (ngô) và sắc tố từ bột thực vật, tảo và nấm.
1.2.3. Vai trò của sắc tố đối với vật nuôi
Carotenoid có vai trò quan trọng đối với vật nuôi, đặc biệt đối với gia
cầm thì nó có ảnh hưởng rất lớn. Làm cho gia cầm phát triển nhanh hơn, tăng
chất lượng thịt cũng như sản lượng và chất lượng trứng.
* Vai trò của sắc tố đối với gia cầm nuôi lấy trứng

Động vật hoàn toàn không có khả năng tự tổng hợp carotenoid nên bắt

Số hóa bởi trung tâm học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

23
buộc phải được cung cấp từ thức ăn (Marusich, 1981 [76], Liufa và cs, 1997)
[72]. Đối với khẩu phần ăn thông thường thì nguồn carotenoid sử dụng để tạo
màu da và lòng đỏ trứng gia cầm là xanthophyll hay oxycarotenoid của ngô,
gluten ngô và bột lá thực vật (Latscha, 1990) [67]. Khi cho gia cầm ăn thức ăn
giàu xanthophyll thì có thể tìm thấy xanthophyll ở trong máu, cơ, gan, chất
béo, da, lông của chúng (Goodwin, 1986) [56]. Ở gà đẻ, xanthophyll tích trữ ở
cơ, da sẽ được huy động mạnh mẽ vào buồng trứng khi thành thục và một
phần được chuyển vào lòng đỏ (Gouveia và cs, 1996 [57]; Goodwin, 1986)
[56]. Sau khi thu nhận được sắc tố có từ thức ăn thì gà đẻ có thể huy động từ
20 - 60 % tổng lượng sắc tố thu nhận vào lòng đỏ (Bornstein, 1966) [44]. Do
đó màu sắc tự nhiên của lòng đỏ chính là màu sắc của xanthophyll (Sirri và
cs, 2007) [89]. Ngày nay, các oxycarotenoid được phân lập từ thực vật, tảo và
nấm được sử dụng nhiều trong khẩu phần ăn của gia cầm và được đánh giá là
rất tốt (Gierhart, 2002 [59]; Lorenz, 2002 [73]), còn có các loại sắc tố tổng
hợp thì ít được sử dụng và thậm chí còn bị cấm ở một số nước. Khi sử dụng
ngô đến 50 % khẩu phần thì sắc tố có trong ngô có thể cho màu sắc lông đỏ
đạt từ 5,6 - 7 điểm và tương đương với lòng đỏ ở mức bình thường theo thang

cao nhất được tìm thấy trong trứng tương ứng là 0,35mg/quả hay 5,9mg/kg
trứng. Vì vậy cần phải tính toán hàm lượng sắc tố trong thức ăn để đáp ứng
được sự tích tụ sắc tố với hàm lượng nêu trên trong lòng đỏ trứng.
Nói chung, mức bổ xung carotenoid tổng hợp trong thức ăn chăn nuôi có
thể thay đổi từ 0 - 8 mg/kg thức ăn cho cả bột màu vàng và đỏ, tổng cả hai
loại là từ 10 - 15mg/kg khẩu phần.
Astaxanthin tự nhiên cũng được các nhà sản xuất thức ăn cho gà sử dụng
để làm tăng sắc tố lòng đỏ. Ngoài ra nó còn có nhiều lợi ích khác như; giảm tỷ
lệ tử vong của gà, tăng khả năng sinh sản và cải thiện tình trạng sức khỏe.
Ngoài sản xuất trứng tăng lên thì các bệnh nhiễm trùng do Salmonella lại
giảm đang kể.
* Vai trò của sắc tố với gia cầm nuôi thịt

Trích đoạn Các kết quả nghiên cứu sử dụng bột lá sắn trong chăn nuôi gà Các kết quả nghiên cứu sử dụng bột cỏ stylo trong chăn nuôi gà Một số chỉ tiêu lý, hóa học của trứng
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status